Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người nùng ở thái nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 98 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
_____________________________

NGÔ THị HƯƠNG

TíN NGƯỡNG THờ CúNG Tổ TIÊN CủA NGƯờI NùNG
ở THáI NGUYÊN HIệN NAY

LUậN VĂN THạC Sĩ TRIếT HọC

Hà Nội, 2014


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
_____________________________

NGÔ THị HƯƠNG

TíN NGƯỡNG THờ CúNG Tổ TIÊN CủA NGƯờI NùNG
ở THáI NGUYÊN HIệN NAY
Chuyên ngành: TriÕt häc
M· sè: 62.22.03.01

LN V¡N TH¹C SÜ TRIÕT HäC

Ng­êi h­íng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới

Hà Nội, 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi với sự giúp đỡ của PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ cơng
trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Ngơ Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
CỦA NGƯỜI NÙNG Ở THÁI NGUYÊN ................................................... 9
1.1. Khái quát về người Nùng ở Thái Nguyên......................................... 9
1.1.1. Điều kiện cư trú ............................................................................ 9
1.1.2. Tình hình dân cư ......................................................................... 12
1.1.3. Đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội. .............................................. 14
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Nùng ở Thái Nguyên ............................................................. 23
1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ..................... 23
1.2.2. Đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở
Thái Nguyên ........................................................................................ 31
Chương 2: VAI TRÒ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA TÍN
NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG ĐỜI SỐNG TINH
THẦN NGƯỜI NÙNG Ở THÁI NGUYÊN HIỆN NAY .......................... 46
2.1. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống tinh
thần người Nùng ở Thái Nguyên ........................................................... 46

2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trở thành chỗ dựa tinh thần
của người Nùng Thái Nguyên (giúp bù đắp những bất trắc, rủi
ro) trong cuộc sống ............................................................................. 46
2.1.2. Thờ cúng tổ tiên góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách, điều
chỉnh hành vi cá nhân của con người .................................................... 50
2.1.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên góp phần bảo lưu và giữ gìn bản
sắc văn hóa tộc người ........................................................................... 53
2.1.4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có tác dụng củng cố sự cố kết
cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đồn kết toàn dân. .................. 56


2.2. Xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Nùng ở Thái Nguyên hiện nay ............................................................... 60
2.2.1. Xu hướng mất dần các nghi lễ mang tính cộng đồng................... 61
2.2.2. Xu hướng phục hồi và phát triển các sinh hoạt nghi lễ trong
gia đình................................................................................................. 62
2.2.3. Xu hướng biến đổi các sinh hoạt nghi lễ trong gia đình .............. 64
2.2.4. Xu hướng thiên về hình thức, phơ trương lãng phí với những
thủ tục rườm rà, lạc hậu và bị lợi dụng vào hoạt động mê tín dị đoan ... 67
2.3. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay .............................................. 70
2.3.1. Phương hướng chung nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái
Nguyên hiện nay................................................................................... 70
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái
Nguyên hiện nay................................................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................. 86

PHỤ LỤC.................................................................................................... 91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trước yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững
(Nghị quyết Trung ương V khóa VIII, Nghị quyết Trung ương IX – khóa XI).
Do vậy, việc nghiên cứu, khai thác kho tàng văn hóa dân tộc, trong đó tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trị quan trọng đối với yêu cầu bảo tồn, phát
triển văn hóa Việt Nam.
Thái nguyên là một tỉnh miền núi – trung du nằm giữa trung tâm vùng
Việt Bắc, với địa thế “giao lưu và hội tụ” nằm tiếp giáp với Hà Nội, Bắc
Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Với vị trí trung tâm,
vùng Thái Nguyên là nơi hội tụ nhân dân các dân tộc gồm cư dân các tỉnh
thuộc đồng bằng Bắc Bộ, miền núi Việt Bắc và cả Bắc trung bộ. Trong đó,
chủ yếu có 8 dân tộc anh em cùng chung sống: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán
dìu, Sán chay, Mơng, Hoa. Dân tộc Nùng đứng ở vị trí thứ 3 về dân số của
tỉnh Thái Nguyên. Với 54.628 người chiếm 5,22% dân số toàn tỉnh, cư trú ở
tất cả các huyện, thị xã và thành phố trong tỉnh. Trong quá trình tồn tại và
phát triển, đồng bào Nùng ở đây có nhiều nét văn hóa độc đáo, vừa mang yếu
tố chung của các tộc người, vừa có những nét riêng của người Nùng ở Thái
Nguyên. Đặc biệt, tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng ở người Nùng rất
phong phú và đa dạng. Trong đó, việc thờ cúng tổ tiên, thờ thần bản mệnh
cộng đồng là các hình thức tơn giáo, tín ngưỡng truyền thống rất quan trọng
trong đời sống của đồng bào Nùng, rất cần được tìm hiểu, nghiên cứu.
Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên
phản ánh những khía cạnh của cuộc sống tinh thần, giúp chúng ta nhận diện rõ hơn
về quan niệm vũ trụ, nhân sinh quan, thế giới quan, ý nguyện tâm linh và các quy

tắc ứng xử gia đình, cộng đồng tộc người của họ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng
chuyển tải giá trị sâu sắc của người Nùng ở Thái Nguyên về đạo hiếu, đạo nghĩa
1


của người sống dành cho người chết, người sống với người sống. Nó chi phối đời
sống xã hội Nùng một cách lâu dài, bền bỉ, thậm chí trở thành những ràng buộc xã
hội, tạo nên sức cố kết cộng đồng mạnh mẽ. Trong quá trình lịch sử lâu dài, hoạt
động thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên có sự biến đổi, có
những yếu tố tích cực, có giá trị được bảo tồn bởi lẽ, ngoài những vấn đề về
tâm linh, nó cịn mang tính nhân văn, thể hiện bản sắc độc đáo của tộc người,
hàm chứa những thông tin liên quan đến lịch sử tộc người, đến quan hệ giao
thoa giữa văn hóa tộc người Nùng và các tộc người khác. Tuy nhiên, điều
đáng lưu tâm trong hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Ngun
hiện nay vẫn cịn có những xu hướng biểu hiện tiêu cực ở một bộ phận nhỏ đồng
bào ở vùng sâu, vùng xa, rất cần được lý giải, tìm hiểu để có giải pháp khắc phục.
Do đó chúng tơi thấy rằng, việc làm rõ đặc điểm, vai trò và xu hướng
vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên, từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay là
vấn đề cần thiết để góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.
Với những lý do trên, tơi chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
triết học.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu dưới nhiều góc độ, nhiều hình thức khác nhau. Qua tìm hiểu các tài
liệu liên quan đến đề tài luận văn, chúng tơi có thể chia thành các nhóm sau đây:
- Nhóm cơng trình nghiên cứu về phong tục, tín ngưỡng, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam.

Ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về phong tục, tín ngưỡng,
tiêu biểu là các cơng trình sau: Toan Ánh (1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam nếp
cũ – tết lễ - hội hè, Nxb Thanh niên, Hà Nội; Lê Dân (1994), Văn hóa gia đình Việt
Nam trong phát triển xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội; Phan Kế Bính (1995), Việt
2


Nam phong tục, Nxb Hà Nội; Toan Ánh (1996), Phong tục thờ cúng trong gia đình
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Nguyễn Huy Linh (1996), Tín ngưỡng
thành hoàng làng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Đức Lữ
(2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Các cơng trình trên chủ yếu nghiên cứu về tơn giáo, văn hóa tơn giáo, tín
ngưỡng dân gian nói chung của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, tác giả Trịnh Thị Thúy đã thực hiện đề tài: “Giữ gìn và phát
huy thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học tơn giáo, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2004. Trong cơng trình này, tác giả đã làm rõ được thờ cúng tổ
tiên và những giá trị cần giữ gìn và phát huy.
Ngồi ra, trong cơng trình nghiên cứu của PGS.TS Trần Đăng Sinh
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
ở đồng bằng bắc bộ hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2010, tác giả đã đi
sâu, khai thác những khía cạnh triết học của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt ở đồng bằng bắc bộ, một địa bàn mang tính điển hình của văn hóa
truyền thống Việt Nam.
- Nhóm những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của dân tộc Nùng:
Cuốn sách “Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” của
nhóm tác giả Lã Văn Lơ, Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Khoa học xã hội (1968). Các tác
giả đã khái quát về các tộc người Tày, Nùng, Thái đồng thời giới thiệu về văn hóa
của nhóm các dân tộc này. Viện dân tộc học đã xuất bản cuốn sách “Các dân tộc

Tày – Nùng ở Việt Nam” (1992). Trong đó đã khái quát một cách tương đối đầy đủ
về dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam bao gồm: Điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử hình
thành tộc người, kinh tế truyền thống, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, tổ chức
xã hội… của hai dân tộc Tày – Nùng nói chung. Cuốn sách cũng chỉ ra do những
nguyên nhân lịch sử hình thành và đặc điểm cư trú nên văn hóa của hai dân tộc này
có nhiều nét tương đồng.
3


Nghiên cứu sâu hơn về văn hóa của dân tộc Nùng có cuốn “Văn hóa
Tày - Nùng” tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984). Cuốn sách đã kế thừa
cơng trình trên và bổ sung các số liệu mới sau khi đất nước thống nhất về xã
hội, con người và văn hóa của hai tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam nói
chung. Tiếp theo đó có sách “Văn hóa dân gian Tày, Nùng ở Việt Nam” của
TS Hà Đình Thành, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Cuốn sách đã đi sâu
về văn hóa tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam; về điều kiện, đặc điểm cư trú và
lịch sử hình thành tộc người. Trong sách đã mơ tả những đặc trưng văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của người Nùng, nghiên cứu văn hóa dân gian
của người Tày, Nùng bao gồm: Văn học dân gian, nghệ thuật tạo hình dân
gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian, tín ngưỡng, tơn giáo và các lễ hội dân
gian. Tác phẩm này đã sưu tầm và hệ thống hóa văn hóa dân gian của người
Tày, Nùng ở nước ta. Đáng chú ý có cơng trình nghiên cứu “Văn hóa tín
ngưỡng Tày, Nùng” của nhóm tác giả do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, Viện
nghiên cứu văn hóa dân gian, năm 1997 đã nghiên cứu sơ lược về các hình
thức tín ngưỡng, tơn giáo Tày, Nùng và nghiên cứu sâu tín ngưỡng, tơn giáo
trong văn học dân gian Tày, Nùng, tín ngưỡng Tày, Nùng qua các hình thức
nghệ thuật như: Âm nhạc, múa, sân khấu, diễn xướng, lễ hội, tranh thờ…
Đề cập sâu hơn đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng phải
kể đến cuốn “Tín ngưỡng dân gian Tày, Nùng” tác giả Nguyễn Thị Yên, Nxb
Khoa học xã hội, năm 2009. Đây là một tác phẩm công phu và chuyên sâu về

tín ngưỡng của người Tày, Nùng, trong đó trình bày hệ thống các quan niệm
tín ngưỡng làm nền tảng hình thành các hình thức và các nghi lễ tiêu biểu của
người Tày, Nùng. Cuốn sách cũng trình bày về trình tự tiến hành và ý nghĩa
của một số nghi lễ tín ngưỡng tiêu biểu đóng vai trị quan trọng trong đời sống
tâm linh của người Tày, Nùng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ thần bản
mệnh…Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng chỉ ra những nét tương đồng
và những nét khác biệt cụ thể trong tín ngưỡng của dân tộc Tày và dân tộc
Nùng. Đồng thời tác giả cũng đã tiến hành khảo sát hiện trạng đời sống sinh
4


hoạt tín ngưỡng của đồng bào Tày, Nùng hiện nay ở một số địa phương và
nêu lên vai trò của tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của người dân. Cuốn
sách cũng chỉ ra những xu hướng biến đổi của các hình thức tín ngưỡng của người
Tày, Nùng dưới sự tác động của cuộc sống hiện đại ngày nay.
Tóm lại, những cơng trình khoa học trên đã mang lại cái nhìn tổng quan
về dân tộc Nùng và những đặc trưng trong đời sống văn hóa của tộc người
này bao gồm những giá trị văn hóa vật chất và những giá trị văn hóa tinh thần.
Các cơng trình đã khái qt bức tranh văn hóa, tín ngưỡng đậm đà bản sắc
dân tộc của người Nùng. Với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, điều kiện cư trú và
lịch sử hình thành, người Nùng đã xây dựng hệ thống văn hóa vật chất đặc
trưng về nhà ở, trang phục, ẩm thực… Họ cũng xây dựng một đời sống văn
hóa tinh thần độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, đó là một kho tàng văn học và
nghệ thuật dân gian phong phú, những hình thức tín ngưỡng phong phú, đa
dạng. Các tác giả đã khái quát về hệ thống tín ngưỡng của dân tộc Nùng bao
gồm những quan niệm tín ngưỡng, các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, các
nghi lễ tín ngưỡng của dân tộc Nùng mang lại cái nhìn tổng quan về đời sống
tín ngưỡng và những đặc trưng trong sinh hoạt tín ngưỡng của người dân. Một
số tác phẩm khác cũng đi sâu nghiên cứu những hình thức tín ngưỡng cụ thể,
trong đó có nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng. Đây là

nguồn tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu của chúng tơi.
- Nhóm cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của dân tộc Nùng ở Thái Ngun:
Một số cơng trình đi sâu nghiên cứu về vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên ở một số địa phương của tỉnh Thái Ngun như:
Cơng trình của tác giả Nguyễn Anh Tuấn: “Tang ma của người Nùng Phàn
Slình ở xã Tân Long huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, khóa luận tốt nghiệp
chuyên ngành dân tộc học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội (2003).
Trong cơng trình này tác giả đã đề cập đến các quan niệm về linh hồn, quan niệm
về cõi sống, cõi chết và quan niệm về phi của người Nùng Phàn Slình, từ đó đi sâu
5


nghiên cứu nghi lễ tang ma truyền thống của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng
Hỷ. Qua đó, tác giả cũng chỉ ra những giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật của nghi lễ
tang ma.
Cơng trình của tác giả Nguyễn Thị Ngân: “Tang ma của người Nùng Phàn
Slình ở tỉnh Thái Nguyên”, Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử, Đại học khoa học
xã hội và Nhân văn, Hà Nội (2009). Cơng trình này, tác giả cũng đã nghiên cứu sâu
về nghi lễ tang ma truyền thống của người Nùng Phàn Slình trong phạm vi tỉnh
Thái Nguyên. Tác giả cũng nghiên cứu những biến đổi của tang ma trong giai đoạn
hiện nay, vai trò nghi lễ tang ma với việc xây dựng đời sống mới ở Thái Nguyên.
Tác giả Lê Thị Thanh Vân với cơng trình: “Phong tục và tín ngưỡng
tơn giáo của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên”, luận văn thạc sĩ
lịch sử, Đại học sư phạm Thái Ngun (2009). Trong cơng trình này, tác giả
đã trình bày một số phong tục và tín ngưỡng, tơn giáo của người Nùng ở
Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Tác giả cũng dành 4 trang để trình bày về tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của dân tộc này. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số giải
pháp để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần truyền thống
trong điều kiện hiện nay ở huyện Đồng Hỷ.

Ngoài ra cịn có một số cơng trình như: “Tìm hiểu tơn giáo, tín ngưỡng
của người Nùng ở xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ”, tác giả Phan Đình Thuật,
đề tài nghiên cứu khoa học chuyên ngành lịch sử, Đại học sư phạm Thái
Nguyên (2006). Báo Thái Nguyên điện tử có bài “Tín ngưỡng thờ cúng của
người Nùng ở Thái Ngun”.
Các cơng trình trên mới chỉ nghiên cứu ở dạng biểu hiện cụ thể
những phong tục, tín ngưỡng, tơn giáo của người Nùng tại các địa phương,
hoặc nghiên cứu một khía cạnh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của một
nhóm Nùng ở Thái Ngun, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu cụ
thể và có hệ thống về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái
Nguyên, về các vai trò và xu hướng vận động, biến đổi của chúng ở Thái
Nguyên hiện nay.
6


Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các nhà khoa
học cùng với sự nỗ lực, tìm tịi, khảo sát thực địa của bản thân, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái
Nguyên” làm luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ.
Mục đích: Luận văn dựa vào cơ sở lý luận chung về tôn giáo, tín ngưỡng
và thực tiễn để phân tích những đặc điểm, vai trị, xu hướng vận động của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay, từ đó đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Trình bày khái quát về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng tơn giáo của
người Nùng ở Thái Nguyên, làm rõ khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và những đặc điểm của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Nùng ở Thái Nguyên.

- Trình bày vai trị và xu hướng vận động của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Nùng ở Thái Nguyên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Nùng ở Thái Nguyên hiện nay đang có nhiều biến đổi.
4. Đối tượng và phạm vi.
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở
Thái Nguyên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn bước đầu tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín
ngưỡng tơn giáo.
7


- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch
sử - logic, phân tích và tổng hợp, so sánh, điều tra khảo sát thực tế. Đặc biệt là
sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn.
- Góp phần làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
tiêu cực trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên
hiện nay.
7. Ý nghĩa luận văn
7.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Đề tài góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa

truyền thống của Người Nùng ở Thái Nguyên nói riêng và của dân tộc Việt
Nam nói chung. Đồng thời góp phần định hướng đúng đắn hoạt động thờ
cúng tổ tiên của người Nùng ở Thái Nguyên hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần làm phong phú thêm tài liệu tham khảo cho những
người làm công tác giáo dục, nghiên cứu, hoạt động thực tiễn về lĩnh vực tơn
giáo ở Việt Nam nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng, góp phần thực hiện
có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng,
tơn giáo trong tình hình hiện nay.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 5 tiết.

8


Chương 1:
KHÁI LƯỢC VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
CỦA NGƯỜI NÙNG Ở THÁI NGUYÊN
1.1. Khái quát về người Nùng ở Thái Nguyên
1.1.1. Điều kiện cư trú
* Vị trí địa lý.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi – trung du nằm giữa trung tâm vùng
Việt Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía Đơng và Đơng Bắc giáp tỉnh Lạng
Sơn, phía Đơng Nam giáp tỉnh Bắc Giang, phía Nam giáp thủ đơ Hà Nội, phía
Tây Nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây – Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang
(Xem bản đồ tỉnh Thái Nguyên 1.1). Với vị trí trung tâm, vùng Thái Nguyên
là nơi hội tụ nhân dân các dân tộc gồm cư dân các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc
Bộ, miền núi Việt Bắc và cả Bắc trung bộ.
Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên 3.526,2km2, nằm trong hệ tọa độ địa lý

từ 21019’ đến 22003’ vĩ độ bắc và 105029’ đến 106015’ kinh độ đông, từ bắc
đến nam dài 43 phút vĩ độ (80km), từ tây sang đông dài 46 phút kinh độ
(85km). Cực bắc là thượng nguồn suối Khuổi Tát, thuộc xã Linh Thơng,
huyện Định Hóa, có tọa độ địa lý 22003’ vĩ độ bắc – 105040’ kinh độ đông.
Cực nam là cầu Đa Phúc, huyện Phổ Yên, có tọa độ địa lý 210 20’ vĩ độ bắc –
1050 52’ kinh độ đông. Cực tây là vùng núi phía bắc Đèo Khế thuộc xã n
Lãng, Đại Từ có tọa độ địa lý 210 42’ vĩ độ bắc – 1050 28’ kinh độ đông. Cực
đông là vùng núi đá vơi xã Phương Giao, huyện Võ Nhai, có tọa độ địa lý 210
42’ vĩ độ bắc – 1060 14’ kinh độ đơng [53, tr. 22].
Trên địa bàn tỉnh có đường quốc lộ 3 nối Thái Nguyên với Hà Nội –
các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Kạn – Cao bằng, biên giới Việt
– Trung. Ngoài ra, các quốc lộ 37, 1B, 279 cùng với hệ thống tỉnh lộ, huyện
lộ, các tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều, Thái Ngun – ng Bí nối
Thái Ngun với đồng bằng các tỉnh vùng Đông Bắc Bắc Bộ, thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế, xã hội và giao lưu văn hóa vùng miền.
9


Với vị trí địa lý như vậy, cư dân Nùng ở tỉnh Thái Nguyên có điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đón nhận nhiều luồng văn hóa
khác nhau trong q trình sinh sống. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến các loại hình
tín ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của đồng bào Nùng.
Bản đồ tỉnh Thái Nguyên và sự phân bố dân cư Nùng ở tỉnh Thái Nguyên

Nguồn: Bản đồ tỉnh Thái Nguyên truy cập trên mạng Internet. Bổ sung địa điểm
phân cư của dân tộc Nùng ở tỉnh Thái Nguyên từ nguồn điền dã thực địa của tác
giả Nguyễn Thị Ngân (năm 2009).

10



* Đặc điểm địa lý, khí hậu thủy văn.
Thái Nguyên có tổng diện tích là 3.562,2km, bao gồm có một thành
phố (Thái Nguyên), một thị xã (Sông Công) và 7 huyện (Phổ n, Phú Bình,
Đồng Hỷ, Võ Nhai, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương) với 180 xã. Trong đó có 5
xã vùng cao và miền núi, 41 xã đặc biệt khó khăn ở khu vực II (25 xã) và khu
vực III (16 xã). Khí hậu nơi đây mang tính chuyển tiếp giữa đồng bằng và
miền núi, được chia làm hai miền rõ rệt: Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10,
nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa đơng từ tháng 10 đến tháng 5, khí hậu lạnh khơ,
xuất hiện những đợt gió mùa Đông bắc, kèm theo sương muối. Mùa Đông
được chia thành ba vùng khí hậu rõ rệt: Vùng lạnh nhiều ở phía Bắc huyện võ
nhai, vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương, và phía Nam
huyện Võ Nhai. Vùng ẩm gồm các huyện Đại từ, Thành phố Thái Ngun,
Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ n và thị xã Sơng Cơng. Nhiệt độ chênh lệch giữa
tháng nóng nhất (tháng 6: 28,90C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,20C) là
13,70C, khá thuận lợi để phát triển nông nghiệp, tạo nguồn thức ăn phong
phú, đa dạng cho quá trình sinh tồn và thực hiện các nghi lễ thờ cúng, trong
đó có nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Nùng.
Thái Nguyên có hệ thống sơng hồ dày đặc, trong đó 90% địa phận Thái
Nguyên nằm trong lưu vực sông Cầu. Hệ thống sơng Cầu, phụ lưu của nó và
Hồ Núi Cốc đã cung cấp nước cho các huyện nằm trong lưu vực, góp phần
quan trọng cho việc cung cấp thủy sản nước ngọt, điều tiết khí hậu các khu
dân cư. Tuy nhiên, vào mùa mưa, lũ quét bất ngờ cũng gây ra thảm họa, đe
dọa rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Người Nùng thường cư trú dọc các con sông, suối. Họ biết tận dụng
nguồn nước sáng tạo ra những chiếc cọn quay, đập tràn, mương, phai, lái, lín,
dẫn thủy nhập điền và cối giã gạo vận hành bằng sức nước, giảm bớt sức
người. Gần đây, đồng bào Nùng còn tận dụng nguồn năng lượng nước xây
dựng thủy điện nhỏ, phục vụ đời sống và sản xuất.


11


Thái Nguyên có thảm thực vật phong phú và đa dạng, nhiều loại động
vật mang đặc trưng của vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Thực vật bao gồm đinh,
lát, lim, dẻ, trẩu, tre, nứa, vầu, cây thuốc.... Động vật có hươu, nai, lợn rừng,
nhím, sóc, cầy, chim, gà lơi, ong... Tuy nhiên, đến nay tài nguyên rừng đã bị
khai thác kiệt quệ, phần còn lại chủ yếu là đất rừng đang được đồng bào gây
trồng với chương trình 135.
Tài nguyên khoáng sản chủ yếu là quặng titan, kẽm, thiếc, sắt, vàng,
than... trong đó than có trữ lượng lớn, đứng thứ hai sau Quảng Ninh, tập trung
ở Thành Phố và huyện Đại từ.
Có thể nói, các yếu tố mơi trường, tự nhiên đều trực tiếp hay gián tiếp
chi phối đời sống của người Nùng. Các đặc điểm địa lý, địa hình, đất đai, khí
hậu, thủy văn... đã tạo cho khu vực cư trú của đồng bào Nùng một tiềm năng
phát triển nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, cải thiện
cuộc sống. Người Nùng đã biết tận dụng mọi khả năng do thiên nhiên ban tặng
để tổ chức cuộc sống này. Tuy nhiên, trình độ và phương pháp sử dụng cịn thơ
sơ, lạc hậu nên đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Nùng còn thấp kém.
1.1.2. Tình hình dân cư
Nùng là một trong 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, gồm có 968.800
người (số liệu năm 2009), [54, tr. 134] đứng thứ 7 trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam, sau dân tộc Kinh, Tày, Thái, Mường, Khơ Me, Hoa. Đồng bào
Nùng cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang,
ĐắkLăk, Hà Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Đăk Nơng, Lào Cai, Lâm Đồng,
Bình Phước, Đồng Nai, n Bái, Tuyên Quang, Gia Lai.
Thái Nguyên là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống đan xen, cụ thể là có 8
dân tộc anh em cùng chung sống: Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay, Sán Dìu, Dao,
Hmơng, Hoa (xem lược đồ 1.2). Trong đó, dân số Nùng là 63.816 người, đơng
thứ ba sau các dân tộc Kinh, Tày, chiếm 5,68% dân số toàn tỉnh [54, tr. 162].

Đồng bào Nùng cư trú tập trung ở các huyện Đồng Hỷ (26,8%), Võ Nhai
(21,5%), Đại Từ (19,7%), Phú Bình (7,7%), Định Hóa (3,26%) [53, tr. 528].
12


Lược đồ 1.2: Lược đồ phân bố dân cư dân tộc tỉnh Thái Nguyên.

Nguồn: Địa chí Thái Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2009, trang 466

Năm 1960, người Nùng mới có mặt ở 95/162 xã phường của Thái
Nguyên. Quy mơ dân số ở từng xã lúc đó mới chỉ có vài chục đến vài trăm
người, trong đó, có 8 xã dân số trên 500 người là Hùng Cường (Đại Từ);
Động Đạt (Phú Lương); Cúc Đường, Nghinh Tường, Phú Thượng (Võ Nhai);
13


Minh Lập, Tân Long (Đồng Hỷ); Tân Thành (Phú Bình). Tỷ lệ người Nùng
trong mỗi xã cũng không nhiều, chỉ có 3 xã là Tân Long (Đồng Hỷ) chiếm
65,8%. Lâu Thượng (Võ Nhai) chiếm 54,4% và Tân Thành (Phú Bình) chiếm
57,9% [53, tr. 528-529].
Trong quá trình phát triển, một bộ phận nhỏ người Nùng đã bị Tày hóa,
do giao tiếp cùng nhóm ngơn ngữ, sống trong cùng một hệ sinh thái, có mối
quan hệ lâu đời về nguồn gốc, về mơi trường văn hóa và tâm lý tộc người.
Người Nùng cịn có sự giao thoa giữa các dân tộc như Kinh, dao, sán dìu và
một số dân tộc khác trong tỉnh.
Trong điều kiện giao lưu kinh tế, văn hóa vùng miền thuận tiện như
hiện nay, các mối quan hệ tộc người càng thêm gắn bó hơn, đặc biệt mối quan
hệ giữa dân tộc Nùng, Kinh, Tày...
Trên thực tế, một số hiện tượng văn hóa của dân tộc giao thoa mạnh
mẽ, khiến cho các nhà nghiên cứu về văn hóa khó có thể phân biệt được một

cách rõ ràng. Mặc dù vậy, một số yếu tố văn hóa của tộc người Nùng vẫn tồn
tại và có bản sắc khá riêng biệt.
1.1.3. Đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội.
* Nguồn gốc lịch sử tộc người Nùng.
Người Nùng ở Việt Nam có nhiều nhóm địa phương như Nùng Phàn
Slình, Nùng An, Nùng Cháo, Nùng Lịi, Nùng Inh, Nùng Dín, Nùng Q
Rịn... Nhưng tộc danh Nùng là tên gọi thống nhất.
Tại Trung Quốc, người Tày, Nùng được xếp chung vào dân tộc
Choang. Học giả Từ Tùng Thạch đã viết: “ Xét người Choang từ thời Chu về
trước đã lan tràn khắp các tỉnh miền Tây nam. Đại bản doanh của họ là các
đất Lũng Nam, Thiểm Tây, Tứ Xuyên cùng miền Bắc đất Điền, đất Kiềm.
Đương thời họ là du mục hoặc bán lạp du mục (ý chỉ canh tác nương rẫy),
trong miền Lưỡng Việt, tức là các dân tộc về sau gọi là Ô Hử, Lái, Lạo, Âu
Lạc, Bách Việt. Ở miền nam Vân Nam, người Choang đến rất sớm trước khi
vua Ngưu khai thác đất Nam Giao, chẳng qua đương thời không gọi là tên gọi
14


Choang thơi...” [47]. Theo ơng Hồng Thiện Phan: Người Nùng khơng chỉ có
ở Việt Nam, mà cịn có một bộ phận bên kia biên giới. Người Tày và người
Nùng gần gũi nhau, khác nhau chẳng qua người Nùng gần gũi người Choang
hơn, còn ngược lại người Tày gần gũi người Việt hơn mà thôi [40].
Tại Việt Nam, nhiều học giả như Lê Q Đơn, Đào Duy Anh, Bùi
Đình, Lã Văn Lơ, Đặng Nghiêm Vạn, Hà văn Thư, Hồng Nam... đã có nhận
định ban đầu về nguồn gốc lịch sử của dân tộc Nùng.
Lê Quý Đôn trong “Kiến Văn tiểu lục” đã ghi chép về người Nùng ở
Tuyên Quang từ thế kỷ XVIII: “Giống người Nùng đều là người thổ châu ở
Tiểu Trấn Yên, Quy Thuận, Long Châu, Điền Châu, Phù Châu, Thái Bình,
Lơi Tử Thành và Hướng Vũ thuộc Trung Quốc làm nghề cày cấy, trồng trọt
cùng chịu thuế khóa, lao dịch, mặc áo vằn vải xanh, cắt tóc, trắng răng, có

người trú ngụ đã đến vài ba đời, đổi theo tập tục người Nam, quan bản thổ
thường cấp cho họ một số ruộng làm khẩu phần, bắt họ chịu binh xuất. Các xứ
Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên đều có giống người này” [23, tr. 391].
Đào Duy Anh trong Nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã nhận định: Hiện
nay chưa có một nguồn sử liệu nào nói về nguồn gốc lịch sử người Nùng ở
vùng Đông Bắc, nhưng chắc chắn người Nùng và người Tày cùng cư trú ở
đây và có thể cùng thời kỳ với người Việt [1].
Nhà nghiên cứu dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn trong tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, năm 1968 đã nêu ý kiến và kết luận: Tây Âu là tổ tiên của người
Tày – Thái, Lạc Việt là tổ tiên của người Việt. Liên minh bộ lạc Âu Việt
(Tày, Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt, Mường) thành lập
vương quốc Âu Lạc thế kỷ thứ III trước Công nguyên với thủ lĩnh là An
Dương Vương – Thục Phán, cư trú ở Bắc bộ và Bắc trung bộ.
Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn “Sơ lược giới thiệu các
nhóm dân tộc Tày Nùng – Thái ở Việt Nam” cho rằng: Nguồn gốc người
Nùng thuộc nhóm Tày – Thái miền Đông với địa bàn cư trú chủ yếu là vùng
Lưỡng Quảng thuộc Trung Quốc và Đông Bắc Việt Nam. Người Nùng có mối
15


quan hệ về lịch sử văn hóa với người Choang ở Trung Quốc. Tộc danh Nùng
theo hai ông bắt nguồn từ tên gọi của một trong bốn dòng họ lớn: Nùng,
Hoàng, Chu, Vi, thống trị ở hai bờ Tả Hữu Giang, tức các miền biên giới Cao
Bằng và Quảng Tây ngày nay [33].
Tóm lại, nguồn gốc dân tộc Nùng ở Việt Nam có hai bộ phận. Bộ phận
thứ nhất vốn thuộc nhóm Âu Việt nằm trong khối Bách Việt, cư trú lâu đời ở
phía Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc. Liên minh bộ lạc Âu Việt
(Tày, Nùng) đã cùng với liên minh bộ lạc Lạc Việt (Việt, Mường) thành lập
vương quốc Âu Lạc. Thế kỷ thứ III. TCN, với thủ lĩnh là An Dương Vương
Thục Phán cư trú ở miền Đông Bắc của Tổ Quốc gồm các tỉnh Lạng Sơn, Cao

Bằng, Bắc kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Giang, Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng là nơi tập trung người Nùng đông nhất. Bộ phận
thứ hai là một số nhóm Nùng có tộc danh xác định ở Trung Quốc mới di cư
vào Việt Nam cách đây 200 – 400 năm và trong thời gian gần đây.
Người Nùng ở Thái Nguyên có nguồn gốc từ các tỉnh lân cận như Lạng
Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang... Họ đến đây vào các thời điểm khác nhau, do
nhiều nguyên nhân. Một số do bị áp bức bóc lột của thế lực phong kiến Hán
đã bỏ quê hương đến các tỉnh biên giới phía Bắc, đi sâu vào nội địa đến Thái
Nguyên. Một số do giặc giã cướp bóc, dịch bệnh đã đi cư đến vùng đất này.
Một số mới đến Thái Nguyên sau chiến tranh biên giới (1979). Hiện nay,
ngôn ngữ phổ thông Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp chính của người
Nùng ở tỉnh Thái Nguyên (kể cả trường học, ngồi xã hội và trong gia đình),
đặc biệt là thế hệ trẻ từ độ tuổi 30 trở lại, hầu như khơng ai nói tiếng Nùng.
* Đặc điểm kinh tế.
Từ lâu, người Nùng đã có kinh nghiệm canh tác ruộng nước và sử dụng
cày, bừa để làm đất. Trong quá trình canh tác, đồng bào tuân thủ chặt chẽ yếu
tố thời vụ, dựa trên sự vận hành của thời tiết và kỹ thuật thâm canh. Trước
đây, đồng bào Nùng sáng tạo hệ thống cọn quay, mương, phai, lái, lìn... dẫn
thủy nhập điền, đảm bảo nước để cấy một vụ, năng suất thấp. Nhưng những
16


năm gần đây, đồng bào Nùng dùng máy bơm tưới ruộng, thâm canh tăng vụ,
cải tiến kỹ thuật làm đất, gieo trồng, chăm bón nên năng suất cao hơn. Ngồi
ra người Nùng cịn mở rộng diện tích trồng chè, trồng cây ăn quả và làm kinh
tế chăn nuôi. Trước đây chăn nuôi của người Nùng chủ yếu để cung cấp sức
kéo nông nghiệp và thực phẩm cho các dịp ma chay, sinh nhật, cưới xin, lễ
tết... Ngồi chăn ni trâu, bò, lợn, người Nùng còn thường xuyên chăn thả
các con vật như ngỗng, vịt, gà, dê để thờ cúng. Ngày nay, ít ai cịn ni
ngỗng, dê để thờ cúng, họ chủ yếu ni lợn, trâu, bị, dê để bán tăng thêm thu

nhập gia đình. Nhiều hộ gia đình ở Võ Nhai, Đại Từ, Đồng Hỷ thu nhập trung
bình mỗi năm từ 15 đến 30 triệu đồng từ chăn nuôi trâu, bị, gà, vịt...
Trước đây, vật ni chủ yếu nhốt dưới gầm sàn, ngày nay, chuồng trại
chăn nuôi đã tách biệt với nhà ở.
Ngồi trồng trọt và chăn ni, người Nùng ở Thái Ngun cịn làm các
nghề thủ cơng như mộc, đan lát nhưng chủ yếu mang tính tự cung tự cấp trên
cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có.
Với điều kiện kinh tế như trên đã góp phần nâng cao đời sống vật chất
của người Nùng so với trước đây, điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến các
hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
đồng bào Nùng.
* Đặc điểm văn hóa, xã hội.
Làng bản, nhà cửa: Là cư dân nông nghiệp di cư qua các thời kỳ trước
cho đến nay, một bộ phận người Nùng sống xen kẽ với người Tày và một số
dân tộc bản địa, nhưng các nhóm ngành Nùng thường sống quần tụ thành
nhiều làng bản (xã) với nhau.
Giống như tộc người Nùng vùng Đông Bắc Việt Nam, làng bản, nhà
cửa của tộc người Nùng ở Thái Nguyên cũng được xây dựng theo thế đất
trên các bãi bằng hoặc sườn đồi sát chân núi, hay dọc theo khe suối. Một số
ít làng bản của người Nùng trải theo trục đường giao thơng. Mỗi bản có từ
vài chục nóc nhà, bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà, trước bản thường là
17


ruộng đất để canh tác, sau bản là đất làm nương rẫy hoặc trồng cây công
nghiệp. Mối quan hệ giữa mọi thành viên trong bản là quan hệ láng giềng,
tắt lửa tối đèn có nhau.
Nhà ở của người Nùng ở Thái Ngun có hai loại chính: Nhà sàn và
nhà đất. Trước đây người Nùng thường ở nhà sàn, đến nay do nguyên vật liệu
làm nhà sàn bằng gỗ khan hiếm nên họ làm nhà đất, một số gia đình ở gần các

thị trấn, trung tâm xã thì làm nhà xây để ở.
Nhà sàn là loại nhà cột kê, có 3 đến 5 gian, hai mái chính và hai chái
hình thang cân, lợp ngói âm dương, vách thưng bằng tre hoặc ván xẻ, lợp lá
cọ hay ngói máng. Sàn giát bằng cây vầu, cây mai, gia đình khá giả lát bằng
ván xẻ, khá giống với kết cấu nhà của người Tày.
Mặt bằng sinh hoạt truyền thống trong nhà sàn của người Nùng được
bố trí theo kiểu trên dưới, trong ngồi. Phần trên (nả nưa) bên ngoài dành cho
khách, nam giới; phần dưới (nả tẩu) phía trong dành cho nữ. Gian giữa có bàn
thờ tổ tiên, dưới bàn thờ có bàn uống nước hoặc một hịm thóc. Trước buồng
vợ chồng chủ nhà có bàn thờ bà Mụ Mẻ Va (Mẹ Hoa), cửa chính có bàn thờ
ma cửa (Pú Chủ), ngồi sàn có thờ ma sàn (Phi hang chàn). Nhà sàn bố trí hai
bếp: bếp trong dùng nấu ăn hàng ngày, bếp ngoài để đun nước, sưởi ấm vào
mùa đông. Gầm sàn là nơi để củi, công cụ. Sàn gác để cất trữ nông sản và
những thứ cần được bảo quản khô ráo. Phía trước nhà có một sàn phơi, bên
trên có một bục gỗ đặt bát hương thờ thần thổ địa, bảo vệ người và gia súc.
Hiện nay, do khan hiếm vật để làm nhà sàn, người Nùng còn làm nhà
đất bằng gỗ, trình tường hoặc nhà xây để ở. Theo các cụ già người Nùng ở các
xã Tràng Xá, Cúc Đường (Võ Nhai), Tân Long, Hịa Bình (Đồng Hỷ) thì
trước đây người Nùng ở nhà sàn, họ mới chuyển xuống ở nhà đất vài chục
năm nay.
Ngày nay, cả nhà sàn và nhà đất của người Nùng đang bị thu hẹp, thay
vào đó, đồng bào xây nhà gạch theo kiểu mới, mái lợp ngói âm dương. Nhà ở
và bếp được xây dựng tách biệt. Tuy nhiên, đặc điểm truyền thống nổi bật
18


trong ngơi nhà đất của người Nùng hiện nay cịn lưu lại được là cách bố trí
nơi tiếp khách, bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà, thờ ma ở cạnh cửa ra vào, bàn thợ
Mụ trước buồng vợ chồng trẻ sinh con. Trong nhà có kê thêm bàn học tập cho
con cái, ti vi, tủ lạnh, máy xát... Điện lưới quốc gia và thủy điện nhỏ đã mang

ánh sáng đến khắp bản làng.
Trang phục: Trang phục truyền thống của nam nữ dân tộc Nùng ở Thái
Nguyên giống như người Nùng ở các tỉnh vùng Đơng Bắc Việt Nam, gồm có
quần và áo được làm bào vải sợi bơng nhuộm chàm.
Nhìn chung, phụ nữ cũng như nam giới Nùng đều mặc quần áo giống
nhau, loại quần ống rộng, dài tới mắt cá chân, cạp quần to, độ doãng đũng
quần lớn.
Áo nam Nùng là chiếc áo cổ đứng xẻ ngực, cài khuy vải ngang ở ngực,
có từ 2 đến 4 túi khơng có nắp, khi mặc áo hơi bó sát người, hai bên xẻ tà, gấu
áo chấm ngang hơng. Cũng có nhóm nam Nùng mặc áo cúc cài bên ngực phải.
Phụ nữ Nùng mặc áo 5 thân cúc cài nách phải, áo có độ dài ngắn tùy
theo thói quen của từng nhóm. Áo của phụ nữ Nùng có phần giống áo của phụ
nữ Tày nhưng ngắn hơn. Quần áo không thêu thùa trang trí hoa văn, áo mặc
thường có thắt lưng làm bằng những tấm vải nhuộm chàm, dài bằng hai sải
tay dùng để thắt ngồi áo dài vắt mối ra phía sau lưng.
Ngày nay, nghề trồng bông, dệt vải nhuộm chàm ở Thái Ngun bị mai
một, hầu như khơng cịn nữa, quần áo truyền thống của nam, nữ dân tộc Nùng
hiện chỉ còn thấy ở những người lớn tuổi hoặc các cụ già mặc trong các dịp lễ
tết, cầu cúng... Nam nữ, thanh niên đều mặc âu phục trong sinh hoạt hàng
ngày là phổ biến.
Ẩm thực: Người Nùng ở Thái Nguyên hàng ngày ăn cơm tẻ, lúc giáp
hạt hoặc mất mùa độn thêm ngô, khoai, sắn, củ mài, củ mỡ. Đồng bào ăn ba
bữa trong ngày, sáng là bữa phụ, trưa và tối là bữa chính. Ngày mùa, sáng và
tối là bữa chính, trưa là bữa phụ ăn tại ruộng, nương. Trẻ em có thể ăn thêm
cháo hoặc cơm nguội vào các bữa phụ.
19


Ngồi gạo tẻ ra thì gạo nếp cũng được người Nùng sử dụng chủ yếu để
đồ xôi cúng tổ tiên trong những dịp cưới xin, tang ma, sinh đẻ, lễ tết. Ngồi

ra, họ cịn chế biến thành bánh dày, bánh chưng, bánh khảo, chè lam (pẻng dỏ
thúa,), bánh bột (pẻng khinh), bánh rán (pẻng cháo) vào dịp tết Nguyên Đán;
bánh sừng bị (cc mị) cúng đầy tháng trẻ sơ sinh; rượu nếp, bánh tro cúng
thần và giết sâu bọ vào dịp tết Đoan Ngọ (mùng 5 tháng 5); Xôi cẩm, bánh
nếp nhân trứng kiến phủ lá vả non vào dịp tết Thanh Minh (mùng 3 tháng 3)
và tết Xo lộc (tết thu vía, trả cơng trâu bị, mục đồng mồng 6 tháng 6); Bánh
rợm, bánh gai vào dịp rằm tháng bảy; Món cốm vào dịp tết trung thu và tết
mừng cơm mới (mồng 9 tháng 9); Món trơi nước (cóng phù) trong ngày tết
Đơng Chí; Món bánh dày, bánh đúc ngô vào dịp sinh nhật.
Thực phẩm dùng trong bữa ăn hàng ngày gồm nhiều loại rau xanh như
rau cải bẹ, cải làn, cải gieo trên nương rẫy, rau muống, rau bao... măng vầu,
măng nứa, các loại đậu đỗ...., thỉnh thoảng họ cải thiện bữa ăn bằng các loại
thịt cá. Đồng bào Nùng cũng thường hái các loại rau rớn... họ coi đó là các vị
thuốc có thể phịng chống và chữa được một số bệnh làm cho con người khỏe
mạnh, tăng thêm sinh lực.
Trong các dịp lễ tết, cưới xin, làm nhà mới...đồng bào Nùng rất chú ý
đến món ăn truyền thống của mình, họ thịt lợn chế biến thành các món ăn
ngon như khau nhục, chân giị hầm, xá xíu, thịt nướng, thịt xào mộc nhĩ nấm
hướng... Các món đặc sản như thịt lợn quay, vịt quay nhồi lá móc mật rất
thơm ngon hấp dẫn người thưởng thức.
Đồng bào Nùng thường uống rượu trắng và rượu nếp trong những dịp
lễ tết, sinh nhật, mừng nhà mới, các ngày rằm trong năm và các cuộc vui...
Nước uống hàng ngày chủ yếu là chè xanh, chè sao, nụ hoa chè, nước lá vối...
nước đun sôi để nguội, hoặc một số thảo mộc hiếm từ trong thiên nhiên.
Văn hóa tinh thần: Tộc người Nùng ở Thái Nguyên cũng giống như
tộc người Nùng cư trú ở vùng Đông Bắc Việt Nam, quan niệm người sống thì
có hồn (khoăn), người chết thì thành ma (phi) từ đó đã hình thành nhiều hình
20



×