Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Truyền thống và cách tân trong thơ nguyễn duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

Mai Ngọc Lê

Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2008

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

Mai Ngọc Lê

Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Mã Số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ

HÀ NỘI - 2008

2



MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mĩ cứu nước, cùng thời với các tác giả : Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Lâm
Thị Mĩ Dạ… lớp tác giả đã làm nên diện mạo thơ ca một thời máu lửa. Khi
hịa bình lập lại, Nguyễn Duy cũng nhập cuộc bằng những trang thơ cháy
bỏng khát khao và lịng nhiệt tình u q hương đất nước. Cách đi của ông
không lặp lại mọi người, điều này làm nên cái mới cho thơ Nguyễn Duy. Nhà
thơ là một trong những người tiên phong trong khuynh hướng phi sử thi - một
khuynh hướng đậm nét xuất hiện trong văn học Việt Nam vào những năm 80
của thế kỉ XX. Ở những tác phẩm của ông, hiện thực được nhìn tồn diện dù
đó là cái nhìn lại quá khứ hay cái nhìn mới nguyên của hiện tại.
Nguyễn Duy hay viết về những suy ngẫm mang tính triết lí, chủ
yếu là suy ngẫm về giá trị cuộc đời, chính vì thế thơ Nguyễn Duy có chiều sâu
và đậm chất trí tuệ, mặc dù được diễn đạt bằng thứ ngơn ngữ hết sức giản dị,
thậm chí bình dân. Đất nước hiện lên trong trang thơ Nguyễn Duy có thể nói
là đậm nét và chân thực hơn so với các nhà thơ cùng thời, bởi không ai yêu
quê hương đất nước như cách của Nguyễn Duy - yêu bằng cách chỉ ra cái
khốn khó, cái cơ cực, cái yếm thế nhỏ bé …tóm lại là phần khuất lấp khơng
tươi đẹp mà bao người ngại nói đến.
Nguyễn Duy là nhà thơ không ngừng vận động, luôn dấn thân
vào những cuộc hành trình để tìm cái đẹp, bằng cách này hay cách khác.
Khơng chấp nhận một cách đi cũ mịn, hình ảnh khuôn sáo…thơ Nguyễn Duy
mang đậm dấu ấn cách tân. Tuy nhiên, nói đến Nguyễn Duy người ta cũng nói
nhiều đến những vần thơ “làng cảnh quê hương” đậm đà, son sắt. Truyền
thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy là hai giá trị thẩm thấu, nhuần

3



nhuyễn trong mỗi tác phẩm, nó làm nên cảm quan nghệ thuật và giá trị riêng
cho thơ Nguyễn Duy. Đây là hai giá trị thống nhất và biện chứng, cách tân
được nảy sinh trên mảnh đất chân quê truyền thống và tình u q hương đất
nước của nhà thơ.
Chính vì những phẩm chất nghệ thuật và sự nỗ lực hết mình trên
con đường tìm tịi sáng tạo của Nguyễn Duy đã nêu ở trên, chúng tơi đi vào
tìm hiểu đề tài này nhằm khẳng định vai trị và vị trí của một nhà thơ dũng
cảm ln nhìn thẳng, nhận chân mọi giá trị của cuộc sống, nhà thơ của “quê
hương làng cảnh” ở thời hiện đại này.

II. MỤC ĐÍCH , PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
-

Luận văn xem xét hai giá trị truyền thống và cách tân trong thơ

Nguyễn Duy trên các phương diện nội dung và nghệ thuật, từ đó tìm ra nét
riêng biệt độc đáo của nhà thơ, khẳng định vị trí và đóng góp của nhà thơ
trong nền thơ ca nước nhà.
-

Phạm vi nghiên cứu trong 6 tập thơ chính của nhà thơ Nguyễn

Duy: Mẹ và em (1987, Nhà xuất bản Thanh Hóa), Đường xa (1989, NXB
Trẻ), Quà tặng (1990, NXB Văn học), Về (1990 – 1994, NXB Hội nhà văn),
Sáu và Tám (1994, NXB văn học), Bụi (1997, Nhà xuất bản Hội nhà văn)

III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Bất cứ vận động đi lên nào cũng có sự đấu tranh, đấu tranh giữa

cái cũ và cái mới, giữa cái cổ hủ và tiến bộ…Hành trình thơ ca cũng vậy, vấn
đề truyền thống và cách tân, không chỉ đến ngày hôm nay mới được đem ra
bàn bạc, mà ở mỗi thời đại khác nhau quá trình này diễn ra với mức độ và quy

4


mô khác nhau. Chúng tôi xin được điểm qua một số bài tiêu biểu để thấy
được tính hệ thống trong vấn đề mình đang nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Hữu Quýnh với bài Hai xu hướng thơ hiện nay đã chỉ
ra sự khác biệt giữa cái mới của những thế hệ cầm bút trên thi đàn Việt Nam
sau 1946. Tác giả nhấn mạnh về hai xu hướng thơ hiện nay là: “ Người ta bắt
đầu nói đến thơ cách tân, thơ hiện đại, hậu hiện đại như là sự phá vỡ kết cấu
của diễn đạt. Nhà thơ Hoàng Hưng đã từng phát biểu: Thơ hậu hiện đại mang
hai đặc tính nổi bật là tính thử nghiệm và tính tiên phong…Mặc dù rất đa
dạng, thơ hậu hiện đại có điểm chung: quan niệm làm thơ là một tiến trình
đang xảy ra chứ khơng phải sản phẩm đã thành…Nó thích những chữ rỗng
hơn cái thụ nghĩa tiên nghiệm, đi theo lý thuyết kết cấu hơn là lý thuyết biểu
hiện, quan tâm đến nói như thế nào hơn là nói cái gì”. Và thái độ của tác giả
trước những yêu cầu cách tân thơ hiện nay là: Để có một nền thơ thuần hậu,
nhân văn, trong sáng và đa dạng cần đối xử công bằng với mọi nhà thơ. Đừng
vì nhân danh đổi mới, hiện đại hay truyền thống mà bên trọng bên khinh. Hãy
để cho khuynh hướng thơ được bình đẳng tồn tại với nhau, đừng dạy dỗ, đừng
áp đặt, đừng khắt khe và cũng đừng ôm ấp chiều chuộng thái quá ai cả. Tự
thơ nói lên tất cả. Tự bạn đọc bầu chọn nhà thơ của họ. Tự cuộc sống lâu dài
định danh cho thơ. Tóm lại cứ để cho nó phát triển tự nhiên vì nó là thơ”. Tác
giả chỉ dừng lại nhìn nhận một cách khái quát về xu hướng thơ hiện nay mà
không đi vào nghiên cứu một tác phẩm, tác giả cụ thể nào.
Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: vĩnh cửu và luôn luôn biến đổi - bài
của Giáo sư Phạm Vĩnh. Tác giả nghiên cứu tính dân tộc trong thơ Việt nam

trong suốt chiều dài lịch sử phát triển thơ ca, để khẳng định: người sáng tạo
càng sâu sắc và độc đáo bao nhiêu thì càng đạt tính dân tộc, tính nhân loại ở
độ cao bấy nhiêu. Đồng thời tác giả khẳng định tính dân tộc phải có xu thế

5


mở, tức là nói đến tính dân tộc khơng có nghĩa là nói đến một giá trị bất biến,
khn khổ và cứng nhắc mà phải luôn kế thừa và sáng tạo tiếp.
Cách tân: đi tìm một cái mới hay cái Tôi? - TS Chu văn Sơn. Bài viết
đã đưa ra định nghĩa về cách tân, nhận thức của tác giả văn học về cách tân,
vai trò của cách tân trong sáng tạo nghệ thuật. TS Chu văn Sơn kết luận: Cách
tân là sáng tạo cái mới. Nhưng không phải cái mới vay mượn từ ngồi mình.
Trái lại phải là cái mới trong mình. Nhận chân được cái mới thuộc về bản thể,
thì mới thấy được cái mới ấy cũng là cái Tơi của kẻ sáng tạo. Nó sẽ xui khiến
kẻ sáng tạo tìm đến hình thức mới và truyền sự sống cho mỗi thành tố mới
của hình thức ấy. Đến lượt mình hình thức mới sẽ định dạng cho mọi sáng tạo
mới.
Thử tìm hiểu tính dân tộc trong thơ hơm nay - tác giả Trần Sáng đã
ngợi ca cái mượt mà đằm thắm, cái chia sẻ và thấu hiểu mà thơ dân tộc đã có
được. Những gì mang tính dân tộc trong thơ hơm nay “Đó là những lời từ trái
tim, là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Người Việt. Cũng là cái đích hướng đến
của nhân loại. Những vần thơ đó đã chinh phục trái tim nhân loại trong khi
nhà thơ vẫn đứng vững hai chân trên mảnh đất dân tộc mình”
Cánh tân là lẽ sống của thơ - tác giả Hồng Hồng đã khẳng định vai trị
quan trọng của việc cách tân thơ. Đó là một yêu cầu không thể không xảy ra
và không thể không được đáp ứng của thời đại. Cách tân theo Hoàng Hồng là
tất yếu của ngày hôm nay - hiện đại, và là điều không cần phải bàn đến, hãy
để thời gian và độc giả trả lời cho câu hỏi về cách tân.
Có rất nhiều bài viết về tác giả Nguyễn Duy, để khẳng định hồn thơ

giàu tính dân tộc và phong cách khá linh hoạt độc đáo, thể hiện con mắt
nhanh nhạy và thông minh của tác giả, song cũng chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu tính truyền thống và cách tân trong thơ ơng. Nhà phê bình Hồi
Thanh năm 1972 trên Văn nghệ đã nhận định khi mới đọc những bài thơ đầu:

6


“Thơ Nguyễn Duy thường đưa ta về một thế giới quen thuộc …Nguyễn Duy
đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của nhứng con người, những cuộc đời cần cù
gian khổ, không tuổi, không tên…Đọc thơ Nguyễn Duy, thấy anh thường hay
cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều
ở người khác có thể chỉ là chuyện thóang qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường
như lắng lại”

. Từ Sơn với bài Thơ Nguyễn Duy đăng trên báo văn nghệ

số 27/1985 đã viết: “ …Thơ anh được viết theo đơn đặt hàng của cuộc sống
và của chính lịng anh”. Điều đó có nghĩa là thơ Nguyễn Duy phản ánh rất
chân thực hiện thực cuộc sống và tiếng nói tình cảm của con người.
Tạp chí văn học số3 năm 1986 với bài của Lê Quang Hưng : Thơ
Nguyễn Duy và Ánh trăng có nhận định: “Những bài thơ trong ánh trăng thật
đậm đà chất ca dao, nhiều đoạn thơ nhuần nhụy ngọt ngào khiến cho người ta
khó phân biệt được đâu là ca dao đâu là thơ…”
Năm 1987, Lại Nguyên Ân khi đọc tập Ánh trăng cũng nhận xét:
“…Ngay những bài lục bát ta cũng thấy như cái gì bên trong như cũng muốn
cãi lại cái êm dịu, mượt mà vốn có của truyền thống”. Cũng trong năm này,
Nguyễn Quang Sáng viết Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy cũng đã nhận
định : “Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội hẳn lên trong thể thơ lục bát, loại
thơ ngỡ như là dễ làm, ai cũng làm được, nhưng để đạt tới hay thì khó thay,

nếu khơng nói là khó nhất. Thơ lục bát của Nguyễn Duy khơng rơi vào tính
trạng quen tay, nó có sự biến đổi, chuyển động trong câu chữ”. Thơ lục bát
Nguyễn Duy “đượm tính dân tộc và nhuần nhuyễn ngơn ngữ dân gian. Lời
thơ đơn sơ, gần với khẩu ngữ. Tư duy thơ thì hiện đại, hình thức thơ thì phảng
phất hương vị cổ điển Phương Đông…”
Phạm Thu Yến cũng đóng góp ý kiến của mình với một sự khảo cứu
khá độc đáo về đặc điểm thơ Nguyễn Duy mà chủ yếu là khảo sát trên thể thơ
lục bát . Hiện tượng tập ca dao và sử dụng ca dao một cách nhuần nhụy trên

7


phương diện thi pháp như môtip ca dao, ngôn ngữ ca dao vàgiọng điệu. Tác
giả khẳng định thơ Nguyễn Duy rõ ràng là phản ca dao qua việc khai thác các
ý đối lập với những tứ quen thuộc trong ca dao để tạo nên những tứ mới khiến
cho cả ca dao và thơ càng bay bổng hơn. Còn Vũ Văn Sĩ chỉ cần một câu đã
khái quát được cả con người và thơ Nguyễn Duy “Người thương mến đến tận
cùng chân thật”. …
Các tác phẩm trên đã bàn về cách tân và truyền thống trong thơ, nhưng
chưa có một tác giả nào đưa ra thành hệ thống và nghiên cứu trong một chỉnh
thể tác giả. Chúng tôi triển khai đề tài này xuất phát từ những gợi ý sau:
1.

Truyền thống và cách tân là hai giá trị làm nên sự bền vững của

thơ nói riêng và nghệ thuật nói chung. Mà trong thời đại ngày nay, truyền
thống đang bị mất dần đi, cịn cách tân thì chưa hình thành thành một hệ
thống được thừa nhận.
2.


Nguyễn Duy là nhà thơ luôn trân trọng truyền thống và là người

tiên phong trong công cuộc cách tân thơ hiện đại. Những tác phẩm của ông đã
được khẳng định và ghi dấu ấn hiện thực xã hội đậm nét ở nhiều góc cạnh.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong q trình nghiên cứu chúng tơi sử dụng một số phương pháp
sau:
-

Phương pháp hệ thống

-

Phương pháp phân tích tổng hợp

-

Phương pháp so sánh đối chiếu

V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đây là cơng trình nghiên cứu về truyền thống và cách tân trong thơ
Nguyễn Duy trên cả hai phương diện nghệ thuật và nội dung. Và từ đó nhằm

8


khẳng định được vai trò của nhà thơ Nguyễn Duy trong công cuộc sáng tạo và
xây dựng nền thơ ca dân tộc.


VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Chương1. Một số vấn đề lý luận và hành trình sáng tạo của Nguyễn
Duy
1.

Một số vấn đề lý luận chung
Khái niệm truyền thống trong thơ
Khái niệm cách tân trong thơ
Mối quan hệ giữa truyền thống và cách tân trong thơ

2.Hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy
2.1. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy
2.2. Quan niệm nghệ thuật của nhà thơ
Chương2. Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy nhìn từ
góc độ nội dung trữ tình
Truyền thống và cách tân thể hiện ở cách chiếm lĩnh đề tài
2.1.1 Đề tài quê hương đất nước
2.1.2 Đề tài chiến tranh
Truyền thống và cách tân thể hiện ở cái Tơi trữ tình trong thơ
Nguyễn Duy.
Về cái Tơi trữ tình trong thơ.
Cái Tơi trữ tình trong thơ Nguyễn Duy
Cái Tôi in đậm dấu ấn chân quê truyền thống
Cái Tôi dấn thân với cách suy nghĩ hiện đại
Cái Tôi tự vấn và trào lộng

9


Chương 3. Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Duy nhìn

từ một số phương diện nghệ thuật
3.1. Hình ảnh
3.1.1. Hình ảnh mang tính biểu tượng
3.1.2. Hình ảnh so sánh
3.2. Ngôn ngữ
3.2.1. Ngôn ngữ bắt nguồn từ đời sống hiện thực
3.2.2. Ngơn ngữ giàu tính tạo hình
3.3 Thể thơ
3.3.1. Thể thơ tự do, thơ 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng trong sáng tác của
Nguyễn Duy.
3.3.2. Thể thơ lục bát – nét dặc sắc nhất trong thơ Nguyễn Duy
3.3.2.1. Truyền thống và cách tân biểu hiện ở cảm xúc trong thơ lục bát
Nguyễn Duy
3.3.2.2. Truyền thống và cách tân biểu hiện ở hình thức câu thơ trong
thơ lục bát Nguyễn Duy

10


Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA NGUYỄN DUY
1.1 Một số vấn đề lý luận chung:
1.1.1. Khái niệm truyền thống trong thơ:
Truyền thống - theo định nghĩa trong TĐTV (Viện ngôn ngữ học ) là
một danh từ chỉ thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ
được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác hoặc một tính từ “ chỉ tính
chất truyền thống được truyền lại từ các đời trước”. Như vậy truyền thống
là những giá trị, mà được cả cộng đồng thừa nhận với một niềm tin, niềm
tự hào và ln có ý thức giữ gìn, bảo vệ . Khái niệm “truyền thống trong

thơ” chắt lọc từ khái niệm về truyền thống nói chung, là “những thành tựu
chung đặc sắc, tương đối bền vững, ổn định trên cả hai phương diện nội
dung, hình thức của văn học được lưu chuyển, kế thừa từ thế hệ này đến thế
hệ khác trong quá trình văn học” [] Truyền thống trong thơ là những giá trị
đã được khẳng định, và những giá trị đó là đại diện xứng đáng nhất của một
cộng đồng dân tộc, là “gương mặt điển hình”, là tâm hồn nhất cho tâm hồn
con người của công đồng dân tộc ấy, được thể hiện bằng thơ. Vậy những
giá trị nào làm nên truyền thống trong thơ? Thơ là hồn, thơ là đời thì những
giá trị truyền thống không thể tách rời hồn và đời của con người thời đại

11


được. Truyền thống gắn với dân tộc, tính truyền thống có điểm tương đồng
với tính dân tộc, biểu hiện được màu sắc, âm thanh, lối sống, tính cách, tinh
thần của dân tộc thì tức là đã biểu hiện được bề mặt truyền thống. Thơ lưu
giữ những nội dung ấy bằng những hình thức truyền thống – hình thức mà
những tác giả từ buổi sơ khai của thơ đã sử dụng và được vun đắp trong
một quá trình tồn tại và phát triển. Truyền thống trong thơ biểu hiện trên cả
nội dung và hình thức, nhưng khơng phải những gì dễ dãi giản đơn, mà là
cái đã được khẳng định, là “thành tựu chung” “bền vững”. Đó là tinh thần
yêu nước chống giặc ngoại xâm, là tiếng ca non sông, là tình cảm cha mẹ
anh em, là tình yêu trai gái Việt… ở mặt nội dung, và là thể thơ, hình ảnh,
ngơn ngữ…ở mặt hình thức.
Tuy truyền thống là cái lâu đời được truyền từ thế hệ này đến
thế hệ khác, song nó vẫn có tính linh động riêng của nó, khơng hồn tồn
bó buộc trong một khn khổ đã được thời gian thừa nhận. Về không gian,
truyền thống trong thơ có thể là một dân tộc, một vùng, cũng có thể một
khu vực nhiều dân tộc có quan hệ mật thiết với nhau (về điều kiện địa lý,
ảnh hưởng cùng một nguồn văn hóa…). Về nguồn gốc, truyền thống trong

thơ là những giá trị lâu đời, được hình thành từ những buổi đầu tiên, nhưng
“tồn tại và phát huy tác dụng thông qua con đường vay mượn, ảnh hưởng
văn học, thông qua những phép tắc, luật lệ sáng tạo mà nhiều thế hệ phải
tuân thủ để làm ra giá trị mới”. Về mặt tiếp nhận, nhà thơ có thể tiếp nối
truyền thống có ý thức, hoặc chịu ảnh hưởng của truyền thống thơ không tự
giác. Truyền thống trong thơ không phải là “luật” nên khơng có tính chất
bắt buộc, có nhà thơ làm câu thơ đầu tiên đã tràn ngập cái khí vị của quê
hương, nhiều tác giả bắt đầu bằng câu lục bát, tức là cái truyền thống trong
thơ đã được thừa nhận như là điều tất yếu và bình thường như hơi thở; và
cũng có nhà thơ phải hướng mình tới truyền thống trong thơ, coi đó như là

12


một mục đích cần đạt được. Cũng có tác giả tiếp nhận cái truyền thống
bằng cái nhìn khúc xạ- cái nhìn khơng trực tiếp, như cách “đọc thơ Tây là
một cách mở rộng, tham bác để cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển,
vừa đáp ứng được nhu cầu hiện đại”. Điều đó cho thấy truyền thống thơ
khơng phải là hiện tượng chứa đựng trong khuôn đúc mà trái lại ln có sự
biến đổi, bởi nó là một vận động đồng tâm với lịch sử xã hội, hàng loạt giá
trị, kinh nghiệm nghệ thuật được coi là bảo thủ, lạc hậu sẽ được thay thế
bởi những giá trị mang tầm tư tưởng tiến bộ hơn, phù hợp với cuộc sống
mới - chuyển tải và biểu hiện cuộc sống mới. “Và để giải quyết những
nhiệm vụ do thời đại đặt ra, nhiều sáng tác hoặc là phải hoàn thiện, đổi mới
kinh nghiệm của thế hệ trước, hoặc là phải đấu tranh chống lại những gì đã
cũ kĩ, lạc hậu, phải tìm những lối đi mới. Kế thừa truyền thống và cách tân
nghệ thuật, vì thế là những phương diện khơng bao giờ tách rời nhau của
q trình văn học. Đến lượt mình, những cách tân nghệ thuật chân chính lại
sẽ trở thành những truyền thống mới, bồi đắp thêm cho kho tàng kinh
nghiệm đã vượt qua sự thử thách thời gian của những thế hệ đi trước” [27].

Một hình thức mới mang nội dung mới đã làm nên một cuộc cách mạng,
nhưng cuộc cách mạng này không phá vỡ tất cả mà cách mạng để chứa
đựng được những tâm hồn mới phóng khống và dân chủ hơn- tâm hồn đó
là sản phẩm tất yếu của sự vận động lịch sử xã hội. Xét đến cùng, thơ mang
tính truyền thống chính là những vần thơ bám chặt với con người từ đời
sống xã hội đến đời sống tinh thần và được diễn đạt bằng một ngôn ngữ mẹ
đẻ thuần khiết, nhuần nhị.
Những thế hệ nhà thơ xuất thân từ trong công cuộc kháng chiến
chống Mĩ như: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Lâm
Thị Mĩ Dạ, Nguyễn Duy…cũng mang cho thơ rất nhiều cái mới, song trong
họ cái “chất nhà q” ln được trân trọng và tìm về. Nhà thơ Nguyễn Duy

13


nói: “Tơi khơng phải là người hồi cổ mà là người phục cổ. Chữ “phục” ở
đây phải hiểu theo cả hai nghĩa khôi phục và khâm phục”. Trên thực tế, ông
đã làm mọi cách để đưa cội nguồn dân tộc vào lòng người hiện đại bằng
thơ, qua nhiều cách thể hiện, ngồi biểu hiện đắc dụng nhất của ơng là
những tập thơ cịn là lịch thơ, thơ trên giấy dó…
Những cái đẹp gọi là truyền thống thường là những cái đã thấm
vào ý nghĩ, những cái đã được gọt dũa và bao bọc, nó giống như viên ngọc
trai - là những gì tinh túy chắt lọc và giữ gìn. Chính vì thế mà những nhà
thơ, nhất là những người trực tiếp xây dựng và bảo tồn truyền thống cho
thơ luôn mong muốn các thế hệ tiếp sau dù đổi mới cũng đừng nên đánh
mất cội nguồn. Và phần lớn những người đọc thơ ngày nay, trước một bài
thơ mượt mà truyền thống, bao giờ cũng cảm thấy gần gũi thân thuộc, như
được vỗ về an ủi.
1.1.2.Khái niệm cách tân:
Cách tân có nghĩa là đổi mới - tức là phải có một cái gốc bị coi

là cũ thì mới tạo ra được sự tương quan để thấy cái mới. Nói về vấn đề
cách tân trong thơ, chúng ta hãy quay lại những năm 30 của thế kỷ trước.
Thơ Mới chính là cuộc cách mạng trong thơ ca dân tộc - Thơ Mới được coi
là đỉnh cao trên lộ trình phát triển của thơ. Hiện nay chúng ta đang nói
nhiều tới cách tân thơ, muốn thơ còn là “lát cắt tâm hồn” của hơm nay hiện tại - và mai sau, thì phải tìm một con đường mới, con đường để thơ
bắt kịp được với biến thái tình cảm, những suy tư của người đương đại.
Nếu nhà thơ bằng lòng với những gì mình kế thừa được và những cái của
riêng mình thì vơ hình trung họ đã làm khơ cằn cuộc sống vốn biến hố
mn màu mn vẻ. Chính vì vậy, khẳng định đổi mới là tất yếu đối với
người sáng tạo nói chung và nhà thơ nói riêng.

14


Có nhiều ý kiến về cách tân, có thể trích ra một đoạn bài viết của
tác giả Hiền Nguyễn: “Cách mạng thơ là cuộc thay đổi lớn, xảy ra ở những
giai đoạn thời gian nhất định nên rất ít cách tân là những thay đổi liên tục
hàng ngày, không chỉ với thơ ca mà những lĩnh vực khác, cách tân là tất yếu”.
Cịn “ Đổi mới khơng phải là lộn trái cái túi quần” - Chế lan Viên- “đó phải là
nhu cầu từ chính chủ thể thi sĩ và phụ thuộc vào cảm quan của chính người
cầm bút”. “Phải đổi mới từ nội dung chứ không phải từ dăm ba cái bên ngoài
làm thời thượng”- Nguyễn Thị Minh Thái khẳng định. Nhà thơ Trần Đăng
Thao thì dứt khốt: “Phải đổi mới từ tư duy”…Đúng là khơng có khái niệm,
qui chuẩn nào cho cái gọi là cách tân thơ, bởi vì thời gian vừa có sức khẳng
định, vừa có sức phủ nhận tất cả những gì đã qua. Các nhà văn hãy viết về
cuộc sống một cách chân thực bằng tấm lịng và tài năng của mình thì chính
những tác phẩm ấy là câu trả lời ý nghĩa nhất, xác thực nhất. Phải chăng mọi
sự tranh cãi bao giờ cũng tìm về với bản thể, mà bản thể của cách tân thơ
chính là “Tấm lịng và tài năng” như tác giả Hiền Nguyễn đã nói? Khẳng định
điều này nhưng lại nói bằng cách khác, Tiến sĩ Chu Văn Sơn viết “Cách tân là

sáng tạo cái mới, nhưng không phải cái mới vay mượn từ ngồi mình. Trái lại
phải là cái mới trong mình, từ mình. Nhận chân được cái mới thuộc về bản thể
thì mới thấy được cái mới ấy cũng chính là cái tơi của kẻ sáng tạo…”. Như
vậy cách tân là lẽ sống của thơ”. Một bài thơ hay không thể là sự bắt chước
khéo léo mà phải sáng tạo được trên nền cái cũ, mà phải có dấu ấn riêng,
nhưng phải để mọi người thấy được mình trong đó.
Đổi mới - ngồi những điều được khám phá là hồn tồn mới mẻ
- cả về nội dung và hình thức- cịn những điều đã được nói nhiều song đến
với tác giả này nó lại được nhận diện ở một góc độ khác mới lạ và độc đáo,
đem đến cho người đọc những cảm quan thẩm mỹ mới, tích cực. Nếu
truyền thống trong thơ là những giá trị đã được khẳng định và giữ gìn, là

15


cái “đã biết”, thì cách tân lại là cái nhà thơ khai sáng cho người đọc, trao
cho người đọc cái quyền khẳng- phủ rất khách quan. Cách tân trong thơ nói
chung trên phương diện hình thức nghệ thuật chủ yếu ở thể thơ, ngơn từ,
hình ảnh…và trên phương diện nội dung, đó là cách biểu đạt cái tơi trữ
tình, cách chiếm lĩnh và thể hiện đề tài…các nhà thơ mới khơng dùng thể
Đường luật để biểu hiện mình, cũng khơng cần mượn một điển tích điển cố
nào để gợi sự sâu lắng mà “xưng tôi” thản nhiên tự tin trút hết những uẩn
khúc và niềm khao khát của mình vào thơ - đó là họ đã đứng dậy cởi bỏ cái
cũ không hợp thời, cái cũ hạn chế sự phát triển của những tâm hồn đương
thời- họ đã cách tân, cách mạng. Cuộc cách tân của Thơ Mới là một thành
tựu mà trong lịch sử phát triển của mình, thơ rất cần sự vận động đi lên như
thế.
Nói cách tân là đổi mới, tìm kiếm cái mới, tạo ra cái mới. “Cách
tân là thuộc tính của sáng tạo, chả có sáng tạo nào lại chẳng là một cách tân
nào đấy. Hiểu theo lối này, người sáng tạo cũ nhất cũng có thể n chí rằng

mình đang cách tân” [36] và “ cảm giác yên chí như vậy, nếu là thành thực
thì chất chứa một nguy hiểm. Bởi nó chính là tiếng nói ngọt ngào của trì
trệ, nó là sự thủ cựu trá hình. Khi chỉ thích tự ru vỗ mình bằng cách hiểu ấy
thì cuộc sáng tạo xem như đã an bài. Cịn theo lối khó tính, thì cách tân là
một xu hướng sáng tạo với khát khao tạo ra cái hồn tồn mới. Theo cách
này, thì chỉ có những đột phá táo bạo, những bứt phá dũng mãnh, vượt khỏi
rào cản của thói quen thẩm mỹ cũ, gieo những hạt giống mỹ cảm mới, khai
sinh một hệ giá trị mới, thì mới được gọi là cách tân”[36]. Như vậy, “cách
tân là lẽ sống” của thơ nhưng tác giả phải hiểu được tường tận vì sao là lẽ
sống thì mới đạt đến độ sáng tạo đích thực. Khơng phải là một thứ cách tân
chung chung, đánh đồng sáng tạo với cách tân, để rồi yên trí ta cũng như ai,
cũng đã góp đủ cho phong trào. Cách tân khơng đồng nghĩa với an bài, mà

16


nó là kết quả của sự hối thúc, của khát khao từ trong tâm can những người
cầm bút hằng ngày, hằng giờ và trong mọi suy nghĩ về sáng tạo. Vào thế kỷ
XV, Nguyễn Trãi trong tập “Quốc âm” đã có những cách tân về dịng thơ
Đường luật đã tạo ra cảm quan thẩm mỹ mới: câu thơ thất ngôn nhưng
khuyết một chữ:
“ Rồi hóng mát thuở ngày trường
hoè lục đùn đùn tán rợp trương”
( Bảo kính cảnh giới- 43 )
“ Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”
( Thuật hứng 25 ).
Độc giả khi đọc những câu thơ “thiếu chữ” này như bị hẫng,
nhưng chính cái hẫng đấy lại khiến ta phải xem lại để thấy được nỗi niềm
cuồn cuộn như nước “triều đông” của Nguyễn Trãi. Khơng có một cách

tân nào có sẵn hay tự đến, tác giả phải có ý thức sáng tạo, như hai tác giả
trung đại đã dẫn ở trên- những sáng tạo của họ được khai sinh trên mảnh
đất tấm lòng- tấm lòng tràn đầy nỗi khát khao, yêu thương và dâng hiến,
sáng tạo sẽ là con đường để dẫn dắt những nỗi niềm ấy đến được với ngàn
vạn tấm lịng ở mn đời sau.
Đối với các tác giả ở thế kỷ XXI, cách tân đã trở thành một hối
thúc. Nhìn bao quát chúng ta thấy rằng: các nhà thơ trẻ mang sự háo hức
bứt phá, mạnh mẽ đến vội vã hấp tấp, còn các nhà thơ lớn tuổi ( lớp nhà thơ
trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ…) thì điềm tĩnh hơn. Phải
chăng, chính sự điềm tĩnh nó khiến họ trả lời câu hỏi: cách tân là gì? lẽ
sống của thơ là gì? được sâu sắc và hồn hảo hơn?. Những câu thơ để lại là
những câu thơ của người Việt - hồn Việt mà khơng hề cũ mịn, khn sáo.
Bởi có lẽ họ - hơn ai hết - hiểu rõ “một nền văn hoá hiện đại tốt phải giữ

17


được cái hồn của văn hoá truyền thống. Những người trẻ có thể đổi giọng
đổi điệu nhưng khơng được đánh mất cái hồn. Đáng sợ nhất là bắt độc giả
đọc những cái vô hồn- Bởi con chữ, ngôn ngữ và tiếng nói đều có linh hồn
riêng của nó” ( Nguyễn Duy). Nói tới Nguyễn Duy người ta sẽ nghĩ tới một
người ln tìm và đổi mới thơ Việt. Ơng khơng phải là người đầu tiên
khám phá chất thơ lãng mạn trong lục bát nhưng ông lại là người khai phá
thông minh ( Thanh Tuyền ). Bởi vì khi khơng cịn cảm thấy có gì mới hơn
ơng dừng lại khơng viết thơ nữa để tích lũy, tìm tịi và chiêm nghiệm.
Những dòng thơ của nhà thơ tài năng này là đại diện tiêu biểu cho những
sáng tạo cách tân trong thơ.
Và cịn có nhiều tác giả khác vẫn âm thầm đào đãi, chắt lọc tạo
nên cái mới - những bụi vàng q giá từ những bụi bặm đời thường. Đó
chính là chất vàng mười mà người nghệ sĩ dụng cơng tìm kiếm và có dụng

cơng thì mới tìm ra chất vàng mười để để lại cho đời.
1.1.3 Mối quan hệ giữa truyền thống và cách tân:
Truyền thống là cái đã được khẳng định, cách tân là cái đang
phải đấu tranh để tự khẳng định. Truyền thống là cái tĩnh trong tương quan
với cái động là cách tân. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ một điều rằng: truyền
thống không phải là cái cũ- cái cũ mà cách tân phải đánh đổ để khẳng định
mình. Giữa truyền thống và cách tân có mối quan hệ qua lại biện chứng. Vì
đây hồn tồn khơng phải là hai vấn đề riêng lẻ mà trong quá trình phát
triển của thơ nói riêng nó là qui luật tồn tại và phát triển có tính lý luận chặt
chẽ.
Khơng có điều gì là mới vĩnh viễn, mọi cuộc cách tân nhằm thay
đổi cái cũ cũng đến lúc cũ đi cùng với thời gian và tần số va đập với cuộc
sống xã hội. Lúc đó, cái phù hợp và tinh túy sẽ được giữ lại, cịn những gì
khơng phù hợp sẽ bị thay thế bằng cái mới, do một cuộc cách tân mới đem

18


lại. Cái được giữ lại sẽ bồi đắp thành truyền thống. Truyền thống của thơ
không phải là một hiện tượng ngưng đọng, khép kín, nó khơng ngừng vận
động, tự đổi mới. Có truyền thống mới có cách tân và ngược lại. Tuy là hai
khái niệm mang tính chất khác nhau, nhưng lại ràng buộc với nhau, khơng
có cách tân nào không nảy sinh trên mảnh đất truyền thống và cũng khơng
có truyền thống nào khơng được bồi đắp bởi những cách tân. Một bài thơ
hay là một bài thơ kết hợp cả truyền thống và cách tân một cách nhuần nhị.
Người ta không thể tán thưởng một thi phẩm được diễn đạt bằng ngôn từ xa
lạ, mặc dù ý tưởng mới và độc đáo.
Trên thực tế các nhà thơ bậc thầy luôn đề cao sự kết hợp giữa
truyền thống và cách tân trong thơ. Chỉ khi nào nhận thức rõ được mối
quan hệ biện chứng giữa mới và cũ giữa cái nền tảng và sự sáng tạo thì mới

trở thành một nhà thơ đích thực. Thơ mn đời mang tính kế thừa, đoạn
tuyệt với truyền thống là cách tự chết ngắn nhất. Truyền thống và cách tân
là một quá trình vận động đi lên không ngừng. Thời đại là tấm gương lớn
phản chiếu mọi giá trị truyền thống và cách tân. Thời đại đòi hỏi con người
phải cách tân, tức là phải thay đổi một số giá trị khơng cịn phù hợp bằng
một hệ thống giá trị mới đắc dụng hơn trong việc phản ánh con người và
lịch sử khi cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ chấm dứt là khi đã thiết
lập được hệ thống những chuẩập
xuống, rã ra. Cũng như vậy thời gian như có chiều sâu và nhọc nhằn thì khơng
thể nào san phẳng - Nguyễn Duy đã khơng gian hóa thời gian và hữu hình hóa
cái vơ hình bằng lối dùng từ láy độc đáo riêng mình.
Từ láy trong thơ Nguyễn Duy dùng khá linh hoạt, ở bất kì cung
bực nào của cảm xúc cũng có lớp từ láy biểu hiện, mà biểu hiện được đến đáy
cùng chân thật tấm lòng tác giả.

115


Cái mới của Nguyễn Duy còn thể hiện ở việc dùng những từ láy
khơng có trong từ điển, nhưng người ta vẫn hiểu, bởi nó vẫn “ xào xáo” biến
cải từ cái cũ rồi được chuốt lại bởi một tâm trạng trần tình:
- Em ơi gió, gió hoang tồng
…..Em ơi gió, gió tuầy huầy
( Em ơi gió)
- Xanh xanh đỏ đỏ bừng bừng
Tứng từng tưng, tửng từng từng đã đời.
( Cung văn)
- Một mùa em lạnh tốt rắn lột
Vảy tróc da vết tình ái nhàu nhẻo
(Vết thời gian)

Gió hoang tồng, gió tuầy huầy là thứ gió mang cái phong thái của
người, một người tự do đến bất cần. Đã có “ gió lướt thướt” , “ gió lạnh”, “
gió đi hoang”… trong thơ, nhưng cái “gió tuầy huầy” thì đến thơ Nguyễn Duy
mới thổi. Nguyễn Duy nghe gió bằng tâm trạng mình, có khi bằng cả bản tính
mình. Rồi “ ái tình nhàu nhẻo” là gì?. Cảm giác như ái tình đã rách mướt lắm
rồi, tồi tàn và vơ giá trị, khơng cịn nghĩa lý gì nữa. Từ láy vốn là từ ít có tiếng
gốc nghĩa gốc, hiểu được từ láy phải cảm nhận chứ khó có thể phân tích theo
nghĩa từ vựng. Nguyễn Duy sáng tạo ra từ láy mới khiến cho người đọc cũng
phải “ đồng sáng tạo” với tác giả- phải suy và cảm nhận ngơn từ.
Có lúc tác giả để nói cho đến cái tâm điểm dịng xốy tâm trạng, đã
dùng một loạt các từ láy, như là một chuỗi xốy trơn ốc những ý nghĩ khơng
thể thốt ra được:
- Mềm mại mánh mung mưu mẹo mập mờ
- Một ngẩn ngơ vớ vẩn nhớ hồn mình
(Vớ vẩn”)

116


- Bia lon thỗn thện người lon
Ễnh ềnh ệch hôn hon hon thùi lùi
Chuỗi từ làm sự vật- con người được miêu tả ở những nét đặc trưng
trong khoảng thời gian ngắn nhất, như lối vẽ phác tranh biếm họa - khơng
chứa một cái nhìn thiện cảm, đáng u, mà là một lối phê phán khá hóm
hỉnh, hài hước.
Nhưng cũng có lúc, Nguyễn Duy dùng từ láy như một tác giả dân gian,
có cái sắc thái chậm rãi mà giản dị quê mùa:
- Thất tha thất thểu văn chương
kẽo cà kẽo kẹt tai ương đường dài
(Xin đừng buồn em nhé)

- Áo trắng là áo trắng này
Ngứa nga ngứa ngáy cỏ may trong lòng
…áo trắng là áo trắng bay
Thấp tha thấp thống tháng ngày mỏng manh
(áo trắng má hồng)
- Chót va chót vót khoảng cao
Sao nào của bạn, sao nào của tôi
(Sao)
- Phấp pha phấp phới nhiễu điều
ái ân phần phật tình u khơng thành
(Đỏ)
Nhìn tổng thể, với lối dùng từ láy và mật độ dày. Nguyễn Duy đã là nhà
thơ đứng đầu trong việc sử dụng từ láy, đồng thời thể hiện ngòi bút tinh tế và
nhạy bén khi xây dựng thế giới quan- nhân sinh quan và cả chính tâm hồn
mình.

117


Ngôn từ trong thơ Nguyễn Duy bộc lộ rõ cách tân bởi nó đánh dấu đậm
nét một cá tính sáng tạo với những sản phẩm ngôn từ độc đáo, mới lạ. Ngoài
cách dùng từ láy, thơ Nguyễn Duy thường dùng động từ, tính từ đặc tả, vừa
mang ý nghĩa hình thức của sự vật, vừa chuyển tải dụng ý của lịng người,
vừa nói lên được cái bản chất, lại vừa nói lên được cái mức độ. Tất cả đều bắt
nguồn từ một tâm hồn khát khao cống hiến, khát khao hát khúc an lành bằng
một giọng điệu riêng mình. Mật độ động từ, tính từ dày đặc, điều đó cho thấy
động từ và tính từ đã làm nên sức sống và dòng chảy cho thơ Nguyễn Duy.
Động từ là từ chỉ vận động, trạng thái; tính từ là từ chỉ tính chất, màu
sắc của mọi sự vật, hiện tượng và con người. Thơ Nguyễn Duy có tất cả
những động từ - tính từ thường gặp trong cuộc sống: màu sắc, tâm trạng, mức

độ…, nhưng điều đáng nói ở trong thơ ông là sắc thái của hai loại từ này. Bởi
để diễn tả một tâm hồn là một tấm lòng chung thủy và mãnh liệt với khát
vọng bộc lộ đến đáy cùng cái tâm nhân ái và trong sáng của mình, nhà thơ đã
dùng động từ- tính từ có tình cảm mạnh, và không chỉ dùng bằng giác quan
thông thường mà có sự chuyển đổi giác quan, mở ra một thế giới hình ảnh,
âm thanh đa dạng, phồn phức, tạo cho người đọc mở rộng thế giới tâm hồn,
thế giới tiếp nhận. Những dòng thơ Nguyễn Duy, màu sắc, âm thanh được tả
ở mức độ điển hình nhất với hồn cảnh. Ở “Thiên đường không em”, tất cả
đều ngập màu tối:
Thiên đường khơng em gió tóac hóac động tiên hoang mạc
Canh bạc đen ngịm chơn sống trí siêu khơn
Thời vận đêm càng thử càng đêm thêm
ảo ảnh đỏ lòm hào quang mê muội
Tất cả đều được nhấn mạnh bởi những từ ngữ gợi màu, gợi âm rõ nét,
và đầy ám ảnh: tốc hốc động tiên hoang mạc, đen ngịm, chơn sống trí siêu

118


khơn, đêm thêm, ảo ảnh đỏ lịm, hào quang, mê muội…Và để thốt khỏi cái “
thiên đường khơng em” ấy, con người nhập mình vào tưởng tượng:
Thử dướn mình bay sục tìm thượng đế
Cánh tay phàm nhân giả bộ cánh thiên thần
….tự vắt xác ứa muối nước mắt
Cấp cứu linh hồn đang khói hóa khơ quăn

Ta hú gọi ta khản giọng tù và
Sấp ngửa thu tâm rút khỏi bãi quỉ thần đú đởn
Thế giới tưởng tượng lại là thế giới hiện thực đầy kinh hãi và đớn đau,
rõ nét và sâu thẳm hơn. Cuối cùng, trở lại với thế giới của mình, giản dị và

q mùa nhưng khơng phải là một “thiên đuờng rởm”, ta đã cố “ duớn mình
sục tìm”. Cái nhìn hiện thực, ý muốn thốt khỏi hiện thực, sự trở về…tất cả
đều diễn ra trong một tâm hồn bứt phá, muốn tìm vào sâu trong hiện tượng cái
bản chất đẹp đẽ, trong sáng, cuối cùng nhận ra một “chân lý” riêng mình, “tụt
về trần thế với em”. Mọi vận động trong bài thơ đều được đặc tả bằng những
tính từ giàu sắc thái, và tất cả dồn về với từ “tụt” cuối bài thơ - đó là hành
động nhưng lại chứa cả tâm trạng, cả ý muốn, cả thái độ: trở về với cái thô
mộc chân quê, trở về tự nguyện thanh thản và vô tư như tất yếu nó phải thế.
Nhờ có hai loại từ giàu sức gợi này mà những dòng thơ Nguyễn Duy tả
cảnh hay tả tình đều khá sắc nét và sinh động. Nguyễn Duy gần như đã sáng
tạo thêm những động từ - tính từ để thể hiện đến cực điểm cảm xúc mình,
điều này thể hiện một cá tính sáng tạo không chấp nhận sự dừng lại, không
chấp nhận cái khuôn khổ của số lượng ngôn từ. Những từ Nguyễn Duy sáng
tạo nên người ta cũng chỉ cảm nhận được mà khơng thể giải thích bằng nghĩa
từ vựng được, đó chính là cái tài khơi gợi của Nguyễn Duy:
Tốc khói cháy nổ tởn

119


Trận mạc nào đi qua
Có một người nạng gỗ
Ngồi bên sông nhớ nhà
(Pháo tết)
Dường như pháo tết đã làm cho mọi vật và lịng người đổ vỡ- khơng
chỉ là người lính đơn độc trong thơ mà cả nhà thơ và cả độc giả. Ta khó có thể
xác định câu thơ là một cụm từ hay là nhiều từ ghép lại, nhưng trong câu thơ
đã gợi lên được cả màu sắc, đường nét, âm thanh, nhất là cái thái độ đằng sau
đó: “tởn”- ghê sợ, kinh hãi, khinh thường.
Gió là hiện tượng tự nhiên vơ hình trở thành hữu hình bởi được diễn tả

bằng sự vận động hữu hình. Mặc dù không thể đụng chạm, cầm nắm được,
song thơ Nguyễn Duy đã biến gió thành một con người- một con người thực
với bao tâm tính khác thường. Gió của thiên nhiên chỉ có mức độ mạnh- nhẹ,
nhưng gió của Nguyễn Duy có tâm trạng, nỗi niềm. Một thứ gió ở mức độ
mạnh đấy, bạt đi tất cả mà trong đó lại chứa cái gì như bức bối, như muốn
được thốt ra nữa và phá phách hơn. Và đằng sau sâu thẳm hơn nữa con
người- gió, đó là ngọn gió thổi lộ sự thật. Thành ra tất cả những tính từ và
những tính từ chỉ gió kia là hoạt động, đồng thời cũng chính là thái độ khi vén
bức màn che dấu hiện thực:
Em ơi gió - gió tâm thần
Tầng bình n tít trên tầng bão giơng
Em ơi gió - gió nhàu sơng
Thầm lo bến lú đị khơng tới bờ
Em ơi gió - gió thơ sơ
Bùi ngùi lau lách trở cờ loe ngoe
Em ơi gió - gió ngang phè
….em ơi gió - gió cong queo

120


…em ơi gió - gió loang tồng
…em ơi gió - gió tuầy huầy
…em ơi gió - gió rối đồng
Em ơi gió - gió vênh trời
Thánh thần đành lổm ngổm rơi rụng nhiều
…em ơi gió - gió q liều
Bình tâm hơn hít chín chiều cuồng phong
Thơ Nguyễn Duy rất hay dùng từ láy là động từ, tính từ và với cách đảo
định ngữ lên trước đã tạo nên sức gợi và điểm nhấn cho thơ. Chính điều đó đã

giúp tác giả thể hiện được cá tính và sự sáng tạo mới mẻ của mình nhằm cách
tân thơ.
Ngơn ngữ là phương diện mà ở đó nhà thơ thể hiện tài năng. Đọc thơ,
độc giả có thể phân biệt được giọng thơ của mỗi tác giả, vì ngơn ngữ là của
chung, nhưng đi vào thơ lại mang màu sắc của cái “Tôi” cá nhân riêng.
Nguyễn Duy hay dùng các từ loại, loại từ giàu tính tạo hình để bộc lộ cảm
xúc, nhưng khơng hề bị lặp lại. Đọc thơ Nguyễn Duy, ta luôn tìm được nhiều
thú vị và bất ngờ, bởi con người Nguyễn Duy ưa tìm đến cái mới, thay đổi để
phát triển, chính vì vậy, dù thống nhất bút pháp ở các bài thơ, song Nguyễn
Duy vẫn mới.
3.3 thể thơ.
3.3.1 Thể thơ tự do, thơ năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng trong sáng
tác của Nguyễn Duy.
Nguyễn Duy nổi tiếng nhất với thơ lục bát. Nhưng ngoài thơ lục bát,
trong các sáng tác của ơng cịn có nhiều thể thơ khác: thể thơ tự do, thơ năm
tiếng, thơ bảy tiếng, tám tiếng- là các thể thơ thể hiện sự linh hoạt, phóng
khống của tâm hồn tác giả. Mỗi thể thơ có sức biểu hiện và tạo nhịp điệu
riêng. Ngoài cái nhịp nhàng của thơ lúc bát, cịn có cái tự do, cái bộc trực, vội

121


×