Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nếp sống văn hóa của sinh viên ở ký túc xá trường cao đẳng múa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.42 KB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THANH GIANG

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NẾP SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN Ở KÝ
TÚC XÁ TRƯỜNG CAO ĐẲNG MÚA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Vinh-2010
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THANH GIANG

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN
LÝ NẾP SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN Ở KÝ TÚC XÁ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG MÚA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HÀ VĂN HÙNG

Vinh-2010


2


LỜI CẢM ƠN
Trường Đại học Vinh - Trường có bề dày lịch sử và truyền thống tốt đẹp trong
sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo nước nhà chính là niềm tự hào của chúng tôi
những học viên được ngồi trên giảng đường ngày hôm nay.
Hai năm học tập nghiên cứu, mặc dù có nhiều khó khăn, vất vả nhưng tơi
cảm nhận sâu sắc, đó là thời gian để tơi trưởng thành về mọi mặt.
Nhờ có cơng lao giảng dạy tận tình của các thầy cơ giáo, trong q trình
học tập, nghiên cứu tôi đã đạt được một số kết quả về nhận thức lý luận
trong quản lý giáo dục để vận dụng vào thực tiễn cơng tác, hồn thành tốt
nhiệm vụ giảng dạy, đào tạo các thế hệ sinh viên trường Cao đẳng Múa
Việt Nam.
Với sự nhiệt tình, tâm huyết và những bài giảng sinh động, gắn liền với thực
tiễn cuộc sống của các thầy,cô giáo đã ghi ấn tượng sâu sắc và niềm tự hào
trong tôi về một mái trường khơng thể nào qn . Vì vậy cho phép tôi được
chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu, các thầy cô giáo; các thầy, cô khoa
Sau Đại học trường Đại học Vinh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, tận tình giảng
dạy, hướng dẫn cho tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu Trường Cao đẳng
Múa Việt Nam, các khoa, phòng chức năng và đồng nghiệp đã động viên, tạo
điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tơi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS-TS Hà Văn Hùng,
người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tơi
trong q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn .
Hà Nội, tháng 9 năm 2010
Tác giả

3



1 Lý do chọn đề tài:
Trong qúa trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc , Đảng và nhà nước ln coi
trọng sự nghiệp phát triển giáo dục văn hố Nếp sống văn hoá. Năm 1990
Ban Nếp Sống mới Trung Ương (TW) được thành lập do Ban Bí thư TW
Đảng trực tiếp chỉ đạo , do yêu cầu nhiệm vụ sau 3 năm đổi mới , đến năm
1989 Ban Nếp Sống mới Trung Ương có tên là Ban chỉ đạo Nếp sống văn
hóa trung ương ( NSVHTW). Cả nước đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
Nếp sống văn hoá – Gia đình văn hố trong tình hình mới nhằm xây dựng
cho cá nhân , gia đình và xã hội có nếp sống văn hoá.
Nhằm thể chế hoá quan điểm của Đảng , Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Thanh niên và công tác Thanh niên , tăng cường chăm lo giáo dục bồi
dưỡng , rèn luyện Thanh niên , bảo vệ Thanh niên trước các tác động của
hiện tượng tiêu cục trong XH , đồng thời phát huy tính xung kích , tiềm
năng to lớn của TN, trách nhiệm của TN trong thời kỳ đổi mới CNH- HĐH ,
trong chương II điều 13 của luật thanh niên (có hiệu lực bắt đầu từ
01/07/2006)có ghi :” TN thường xuyên rèn luyện đạo đức , tác phong, hành
vi ứng xử văn hoá , thực hiện nếp sống văn minh ”.
Trường Cao Đẳng Múa Việt Nam - Vườn ươm lớn của nghệ thuật Múa
Việt Nam - được thành lập năm 1959 với nhiệm vụ đào tạo diễn viên múa
chuyên nghiệp cho các nhà hát, các đồn văn cơng, các đơn vị nghệ thuật trong
cả nước.
Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, Trường Cao Đẳng Múa Việt
Nam đang từng bước hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đào tạo diễn viên múa
đồng thời cũng là thách thức rất lớn với ngành múa Việt Nam nói chung,
4


Trường Cao Đẳng Múa Việt Nam nói riêng. Mặt khác cơng tác quản lý giáo

dục nếp sống văn hố cho học sinh ở KTX nói riêng và học sinh tồn trường ở
Trường Cao Đẳng Múa Việt Nam còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của thực
tiễn xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Phần lớn HS-SV trường Cao Đẳng Múa Việt Nam đều ở tỉnh xa về Hà
Nội nên nhu cầu được ở KTX là rất cần thiết. Được sự đầu tư của Bộ văn hoá
Thể thao và Du lịch HS-SV trường Cao đẳng Múa Việt Nam được ở trong
khuôn viên khu KTX các trường văn hoá Nghệ thuật . Tuy vậy số lượng HSSV ngoại tỉnh được ở KTX cịn hạn chế.
Có thể nói quản lý SV ở KTX của trường trong những năm qua đã có
những bước đầu đáng khích lệ góp phần giáo dục SV có phẩm chất đạo đức ,
năng lực biểu diễn đáp ứng nhu cầu cung cấp diễn viên Múa cho cả nước .
Bên cạnh những ưu điểm vẫn còn một số hạn chế nhất định về nội dung hình
thức biện pháp quản lý NSVH của SV. Do vậy NSVH của SV trong KTX chưa
thật sự đi vào nề nếp. Điều này đòi hỏi nhà trường phải xem xét đánh giá thực
trạng công tác quản lý NSVH của SV ở KTX . Trong những năm qua, tại các
trường văn hoá nghệ thuật trên địa bàn HN chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu sâu về vấn đề quản lý NSVH của SV nói chung & SV ở KTX của trường
Cao đẳng Múa Việt Nam nói riêng.
Xuất phát từ lý do trên , tác giả đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Các
biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSVH của SV ở KTX trường
Cao đẳng Múa Việt Nam ” làm đề tài tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý
giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu :

5


Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề ra những biện pháp quản lý NSVH
của SV ở KTX trường Cao đẳng Múa Việt Nam, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng quản lý SV của nhà trường.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

+ Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý NSVH của SV ở KTX
trường Cao đẳng Múa Việt Nam.
+ Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý NSVH của SV ở KTX trường Cao đẳng Múa Việt
Nam .
4. Giả thuyết nghiên cứu
Bằng việc đề xuất và phối hợp thực hiện các biện pháp có tính khoa học,
hợp lý thì sẽ nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSVH của SV ở KTX trường
Cao đẳng Múa Việt Nam .
5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu :
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý NSVH của SV ở
KTX trường Cao đẳng Múa Việt Nam .
5.2 Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý NSVH của SV ở
KTX trường Cao đẳng Múa Việt Nam .
5.3 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu công tác quản lý
NSVH của SV ở KTX trường Cao đẳng Múa Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

6


- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp điều tra
7. Những đóng góp chính của đề tài:
7.1 Về mặt lý luận.
Luận văn hệ thống hoá các vấn đề lý luận về NSVH

7.2 Về mặt thực tiễn
Luận văn khảo sát tương đối toàn diện thực trạng NSVH của SV ở trường
Cao đẳng Múa Việt Nam; đưa ra được các giải pháp có cơ sở khoa học và có
tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSVH cho SV ở KTX
trường Cao đẳng Muá Việt Nam.
8. Cấu trúc của luận văn:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận chung và kiến nghị

7


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NẾP SỐNG VĂN HÓA CỦA
SINH VIÊN Ở KÝ TÚC XÁ
1.1.

SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề nghiên cứu nếp sống đã được đề cập từ lâu qua nhiều tác phẩm

nghiên cứu công phu như: “ Bộ Thiên Nam dư hạ tập thời Lê Thánh Tơng cịn
ghi lại nhiều quy định của nhà nước về phong tục và nếp sống trong nhân dân:
từ việc ăn uống, quần áo, nhà cửa cho đến đám cưới, đám ma, cùng mọi sinh
hoạt trong gia đình và làng xã”. [19]. Nhà vua xem việc ban hành những quy
định ấy là công việc rất cần thiết nhằm củng cố quyền quốc gia và để bảo vệ sự
thống trị của mình.
Cụ Phan Kế Bính (1875 – 1921) là một nhà biên khảo và dịch thuật xuất
sắc, có cơng phu, sáng tạo và có tư tưởng tiến bộ, ông nghiên cứu công phu về
các phong tục tập quán của dân tộc VN qua bao thăng trầm của lịch sử 4000

năm. Trong tác phẩm “VN phong tục” của ông, hầu hết những phong tục XH,
phong tục trong gia tộc , thói quen, nếp sống của con người VN kể từ xưa đến
đầu thế kỷ XX được tác giả phản ánh một cách khách quan, từ đó ca ngợi
những phẩm chất, thói quen tốt của con người VN, đồng thời mạnh dạn phê
phán các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong các phong tục, thói quen, nếp sống…
khơng phù hợp với thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn của dân tộc và nhân loại cũng đã
nhấn mạnh việc xây dựng “ Đời sống mới” (sau này đổi thành nếp sống mới),
cách làm mới, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ lòng nhân
ái, kính già, u trẻ, có lối sống thật thà, khiêm tốn, trung thực, yêu lao động,
yêu đồng bào và yêu tổ quốc. Trong lúc nước nhà chưa thống nhất, việc “ xóa

8


bỏ, cải tạo nếp sống cũ lạc hậu và xây dựng nếp sống mới là nhiệm vụ to lớn và
phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành, như Hồ Chủ Tịch nói: Một cách rất cẩn thận,
rất chịu khó, rất lâu dài”[30].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng VN, ĐCSVN ln quan tâm
đến vấn đề văn hóa. NSVH, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng XH mới, con người mới. Vấn đề
nghiên cứu nếp sống, NSVH đã được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên cứu
nếp sống, NSVH đã được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều văn
bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước.
Từ khi miền nam được giải phóng, đất nước hồn tồn thống nhất, Đại
hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống
mới trong từng văn kiện. Trong Đại hội IV, văn kiện đã dùng khái niệm “ nếp
sống mới có văn hóa”, vận động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp
sống mới có văn hóa trong XH, đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao
động sản xuất. Trong Đại hội , Nghị quyết đã nhấn mạnh: “ kiên trì xây dựng

nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị, bảo vệ và phát triển
các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan, …Tất cả những
việc đó nhằm làm cho tư tưởng, tình cảm lối sống mới thật sự chiếm ưu thế
trong đời sống nhân dân.” [30]
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Đề cương văn hóa của Đảng, đồng chí Trường
Chinh trình bày vấn đề lối sống, nếp sống: “ Nếp sống mới gắn liền quyền lợi
với trách nhiệm và nghĩa vụ… xây dựng CNXH, bảo vệ tổ quốc, tôn trọng luật
pháp, giữ gìn trật tự an ninh…khơng chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của
mỗi người, được thực hiện với ý thức tự giác.” [30].

9


Năm 1980 Ban nếp sống mới TW được thành lập do Ban Bí thư TW
ĐCS VN trực tiếp chỉ đạo , đến năm 1989 có tên là Ban chỉ đạo NSVHTW. Cả
nước đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng NSVH – gia đình văn hóa trong tình
hình mới nhằm xây dựng cho cá nhân, gia đình và XH có nếp sống văn hóa.
Nghị quyết Đại hội ĐCSCN lần thứ VII nhấn mạnh: “ Xây dựng gia đình
văn hóa mới có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát
triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, giữ gìn và phát huy những truyền
thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia
đình đối với mọi người…hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống có văn
hóa.” [46].
Thơng báo số 178– TB/TW ngày 29/3/1996 của Ban Bí thư về tăng
cường nghiên cứu và chỉ đạo vấn đề gia đình sau 10 năm đổi mới có nêu: “ …
đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa ở tất cả các địa phương,
coi đây là công tác trọng tâm của cuộc vận động xây dựng NSVH hiện nay.”
[1]. Tiếp sau đó, trong hai ngày 22,23/8/1996 Hội nghị “ Bàn về cơng tác xây
dựng gia đình văn hóa các tỉnh phía Bắc” đã được tổ chức, Hội nghị nhất trí đề
xuất những kiến nghị với Nhà nước và Bộ văn hóa – Thơng tin như sau: “…

tiếp tục coi cơng tác xây dựng gia đình văn hóa có tầm chiến lược quốc gia, đề
nghị nhanh chóng có kế hoạch cụ thể kiện toàn Ban chỉ đạo NSVHTW để có
biện pháp hữu hiệu, kịp thời củng cố và xây dựng gia đình văn hóa trong tình
hình hiện nay.”[7].
Ngày 16/7/1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, khóa VIII của BCHTW
ĐCSVN ra đời, đây là Nghị quyết định hướng chiến lược xây dựng và phát
triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung Nghị quyết
bao gồm 6 vấn đề quan trọng, trong đó vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức, nếp

10


sống được đặt lên hàng đầu. Nhiều thuật ngữ nếp sống được nhắc đến trong
toàn văn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 như “…Xây dựng con người VN
trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính sau: có lối sống lành mạnh,
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước…Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa , nâng cao
tính tự quản của cộng đồng dân cư trong cơng cuộc xây dựng làng, ấp, xã,
phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc
xây dựng nếp sống văn minh…Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức
trách nhiệm, nghĩa vụ cơng dân, lịng u nước, đạo đức, nếp sống văn hóa, lịch
sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền
đồ của đất nước…Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng
mạng lưới thơng tin ở vùng dân tộc thiểu số…Xây dựng nếp sống văn minh
trong tiệc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại
dâm, bạo lực, gây rối trật tự cơng cộng…khuyến khích nhân dân các xã,
phường, thơn, ấp, cụm dân cư, khu tập thể, xí nghiệp, cơ quan xây dựng các
quy ước về nếp sống văn hóa, giữ gìn trật tự vệ sinh cơng cộng, bảo vệ môi
trường thiên nhiên, cảnh quan sạch đẹp, …”.
Hội nghị lần thứ 9 BCHTW ĐCSVN khóa IX đã nhấn mạnh: “…Tăng

cường quản lý nhà nước, hồn thiện cơ chế, chính sách và giải pháp đẩy mạnh
việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh; hình thành các giá trị con người
mới, giá trị XH mới làm cơ sở và động lực cho đất nước phát triển nhanh và
bền vững”, đặc biệt, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X(2006) đề
cập việc “…Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ Quốc, các đoàn thể nhân dân, các hội văn học, nghệ thuật,
khoa học, báo chí, các hộ gia đình, cá nhân, các trí thức tham gia hoạt động trên

11


các lĩnh vực văn hóa. Xây dựng và triển khai chương trình giáo dục văn hóa –
thẩm mỹ, nếp sống văn minh, hiện đại trong nhân dân. “ [46].
Như vậy, có thể khẳng định các nhà lãnh đạo đất nước, quản lý XH rất
quan tâm đến việc xây dựng, quản lý nếp sống, NSVH của các tầng lớp nhân
dân, trong đó có lực lượng TN, HS, SV.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước các nhà khoa học, văn hóa,
giáo dục…đã tập trung nghiên cứu vấn đề nếp sống, NSVH của các tầng lớp
nhân dân, do vậy có nhiều sách, nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ
thể như :
Sách : Bàn về lối sống và nếp sống XHCN của nhà XB Văn hóa Hà Nội –
1985. Cuốn sách là cơng trình nghiên cứu tập thể một số cán bộ Viện Văn hóa,
sách cung cấp một số lý luận cơ bản chung quanh vấn đề xây dựng lối sống,
nếp sống XHCN, đề cập đến những khái niệm về lối sống, nếp sống, phân tích
sự khác nhau giữa khái niệm đó,…mạnh dạn đề xuất những khn mẫu và
những biện pháp đề xây dựng nếp sống XHCN ở nước ta.
Bài : Tác dụng của pháp chế XHCN trong việc xây dựng lối sống XHCN
và NSVH của con người làm chủ tập thể cảu tác giả Ngô Bá Thành (1985), nội
dung bài viết đề cập : Tăng cường pháp chế XHCN là một yêu cầu cấp thiết để
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của

nhân dân và làm tròn chức năng của chun chính vơ sản… Địi hỏi phải khẩn
trương xây dựng nề nếp quản lý XH theo pháp luật, tự giác tôn trọng và thi
hành nghiêm chỉnh pháp luật. “Xây dựng lối sống XHCN bằng cuộc vận động
xây dựng NSVH thì một việc làm khơng thể thiếu được chính là biến phương
châm : Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật thành nếp sống hàng
ngày của nhân dân.” [30].

12


Tác phẩm : Con người văn minh sống như thế nào,NxB, Hà Nội, 1995,
của cố GS. Nguyễn Lân đã đề cập đến vấn đề nếp sống văn minh của thế hệ trẻ;
trước tình hình của một bộ phận TN, thiếu niên ngang ngược, khơng kính già,
mến trẻ, ăn nói xấc xược, hành động bừa bãi…làm cho gia đình, XH lo lắng, bi
quan về tương lai của dân tộc; bên cạnh sự lơ là của gia đình, sự sơ xuất của
trường học thì lý do chính là từ nhỏ đến lớn, thanh niên chưa có “ những ý
niệm minh bạch về nếp sống văn minh của con người, mặc dù có nhiều sách lý
luận nhiều bài giảng chính trị nhưng thanh niên , thiếu niên chưa được biết
những điều cụ thể trong nếp sống hàng ngày.” [21, tr.25].
Chính vì vậy, cố GS. Nguyến Lân đã nghiên cứu và chỉ ra những nếp
sống văn minh trong đời sống hàng ngày của bản thân (rèn luyện về thể chất, về
tinh thần, về tập quán), nếp sống văn minh trong gia đình, quan hệ hàng xóm,
láng giềng, quan hệ với thầy và bạn, quan hệ với đồng nghiệp, đồng sự, nếp
sống văn minh ở ngồi đường, nơi cơng cộng và trong giao tiếp; có thể nói đây
là một tác phẩm hay, có giá trị ở hiện tại và trong tương lai sau này trong việc
giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ để trở thành con người có nếp sống văn minh.
Trong tác phẩm: Giáo dục con người hôm nay và ngày mai, 1995, GS. VS
Phạm Minh Hạc cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan nhiều đến thế hệ
trẻ, vấn đề giáo dục con người văn hóa, xây dựng con người văn hóa là “ sự
vận động của các mối giao tiếp văn hóa, thể hiện trong ứng xử của từng người

và nếp sống, trật tự kỷ cương của XH”, [16] nói lên nghĩa vụ và quyền lợi của
từng người và cộng đồng trong mọi công việc, từ sản xuất, học tập đến sinh
hoạt, vui chơi.
Cùng với các tỉnh, thành phố trong cả nước quan tâm đến việc xây dựng
phát triển quê hương ngày càng giàu và đẹp, Hà Nội được xem như là một

13


trong những thành phố năng động của cả nước. Bên cạnh công tác chỉnh trang
đô thị, tôn tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng cho thành phố một diện mạo mới
thì Hà Nội là một trong những thành phố đặc biệt chú trọng đến việc phát động
nhiều phong trào nhằm xây dựng NSVH, văn minh cho nhân dân, cụ thể là:
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào thi đua
thực hiện Nếp sống văn minh đơ thị, an tồn giao thơng và vệ sinh mơi trường
đã được triển khai rộng khắp, góp phần xây dựng NSVH - văn minh đô thị.
Trong tác phẩm: Xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, (2001) tác giả Nguyễn Khoa Điềm cũng đã khái quát những
vấn đề trọng tâm của việc phát triển văn hóa, việc hình thành nền tảng tinh thần
của XHVN hiện đại đặt ra cho văn hóa những trọng trách, đó là mối quan tâm
thường xuyên đến nhân tố con người, không ngừng cổ vũ, hướng con người tới
các giá trị chân, thiện, mỹ, phấn đấu cho hạnh phúc chính đáng của chính mình
và góp ngày càng nhiều cho XH. Kiên quyết lên án sự suy thối đạo đức, lối
sống, bài trừ các thói hư, tật xấu, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng, quan liêu, vô trách nhiệm, coi thường kỷ cương, phép nước. Đề cao và
nhân rộng những tấm gương tốt đẹp trở thành nếp sống lành mạnh của XH.
Luận văn Thạc sĩ:Một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho SV nội
trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3, (2004) của Nguyễn Văn Toàn. Tác
giả đã nghiên cứu thực trạng và quản lý giáo dục nếp sống cho SV nội trú
trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và đề xuất một số biện pháp quản lý

giáo dục cho SV, tập trung những biện pháp: Tạo sự phong phú về nội dung
giáo dục nếp sống SV trong các hoạt động ở KTX, tổ chức SV tự quản trong
hoạt động, củng cố tổ chức quản lý KTX, đảm bảo trật tự an ninh trong KTX…
trong các biện pháp, tác giả chưa nhấn mạnh đến vai trò của GVCN trong việc

14


quản lý nếp sống SV, đẩy mạnh hoạt động giao lưu với các KTX bạn để học
hỏi kinh nghiệm tổ chức, quản lý và thường xuyên bồi dưỡng năng lực chuyên
môn cho các bộ quản lý KTX…Mặt khác tác giả chưa nhấn mạnh từng biện
pháp có ảnh hưởng trực tiếp như thế nào đến hoạt động của nhà trường, BQL
KTX…Đây là những vấn đề khá quan trọng góp phần khơng nhỏ vào việc quản
lý nếp sống SV nội trú.
Qua sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề, tôi nhận thấy chủ trương của
Đảng, Nhà nước về vấn đề xây dựng NSVH nhân dân đã có từ lâu, có một số
nhà quản lý, nhà giáo dục, nhà khoa học,….đã có cơng trình nghiên cứu về vấn
đề NSVH, song ít thấy cơng trình nghiên cứu về vấn đề quản lý NSVH của SV
nói chung, SV ở KTX nói riêng. Và nhiều năm qua tại Hà Nội và tại Trường
Cao đẳng Múa VN chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu sâu về vấn đề quản lý
NSVH của SV ở KTX. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn vấn đề một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSVH của SV ở KTX Trường Cao
đẳng Múa VN để nghiên cứu nhằm mục đích góp phần trực tiếp vào việc quản
lý NSVH của SV ở KTX trường Trường Cao đẳng Múa VN ngày một hiệu quả
hơn.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Quản lý.
1.2.1.1. Khái niệm quản lý.
Quản lý là một hiện tượng trong XH có từ rất lâu đời, được nẩy sinh
trong q trình lao động chung của lồi người. Quản lý vừa là khoa học, vừa là

nghệ thuật, các nghiên cứu đã có nhiều cách định nghĩa về khái niệm quản lý
dựa trên những cách tiếp cận khác nhau.

15


Theo từ điển Giáo dục học: Quản lý là hoạt động hay tác động có định
hướng có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý
(người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức. [16].
Trong thời đại công nghiệp các nhà quản lý phương Tây rất chú ý đến
khía cạnh kinh tế và hiệu quả của hoạt động quản lý, Frederick. Winslow.
Taylo (1856-1925) – nhà thực hành quản lý lao động và nghiên cứu quá trình
lao động cho rằng: Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác
làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hồn thành công việc một cách tốt nhất và
rẻ nhất. [10].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và
khoa học giáo dục đưa ra các khái niệm khác nhau về quản lý như sau:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm nawngg, các cơ hội
của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi
trường. [39].
Các định nghĩa trên cho chúng ta thấy sự phong phú trong cách sử dụng
thuật ngữ, trong cách diễn đạt, trong những cách tiếp cận khác nhau….Theo tác
giả, có thể hiểu khái niệm quản lý như sau: Quản lý là quá trình tác động có kế
hoạch, có tổ chức, định hướng, kiểm tra, điều chỉnh của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu đã dự kiến.
1.2.1.2. Chức năng quản lý
Trong quản lý, chức năng quản lý là kết quả của q trình phân cơng lao
động và là bộ phận tạo thành hoạt động quản lý tổng thể, được tách riêng và có


16


tính chun mơn hóa. Các chức năng cơ bản của quản lý gồm: Kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra.
+ Kế hoạch hóa: là vạch ra kế hoạch hành động theo một thời gian, phạm
vi nhất định trên cơ sở thực trạng, lộ trình, biện pháp thực hiện, dự báo tình
huống có thể xảy ra của tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến.
+ Tổ chức: Là hình thành nên những cơ chế phối hợp giữa các thành
viên, bộ phận trong đơn vị, đảm bảo sự chỉ huy thống nhất, xử lý công việc
hàng ngày của người quản lý nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra. Nhờ việc
tổ chức có hiệu quả người quản lý có thể điều chỉnh, phối hợp các nguồn lực
(vật lực và tài lực) một cách khoa học nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất vận
hành của đơn vị.
+ Chỉ đạo: Là các phương pháp, cách thức tác động của chủ thể quản lý
làm cho tất cả các thành viên của đơn vị phối hợp, đoàn kết với nhau và thực
hiện trách nhiệm của từng người, cống hiến tốt nhất trên từng cương vị cơng
tác, từ đó làm cho tồn bộ tổ chức vận hành một cách hữu hiệu để đạt được
mục tiêu của đơn vị.
+ Kiểm tra: Thông qua một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức để xem
xét thực tế, theo dõi giám sát quá trình và kết quả hoạt động, tiến hành uốn ắn,
điều chỉnh những hạn chế, thiếu sót, sửa chữa những hoạt động sai trái của các
thành viên trong tổ chức, khuyến khích khen thưởng những thành viên thực
hiện tốt kế hoạch đem lại kết quả cao cho tổ chức; đồng thời xem lại những
quyết định quản lý để có sự điều chỉnh quyết định kịp thời phù hợp với tình
hình đơn vị.
Hiểu được khái niệm quản lý, chức năng quản lý giúp chúng ta có cái
nhìn tồn diện hơn về cơng tác quản lý, đồng thời đây là cơ sở quan trọng để


17


nắm được khái niệm quản lý trên một lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như quản lý
NSVH của SV.
1.2.2. Nếp sống văn hóa của SV
1.2.2.1. Văn hóa
Văn hóa do con người sáng tạo ra, đến lượt mình con người lại trở thành
một sản phẩm của văn hóa, của XH. Để có một sự hài hịa giữa XH, văn hóa và
con người, sự tồn tại của một cộng đồng, một dân tộc…buộc phải quy định ra
những khn mẫu, tiêu trí văn hóa cho những con người trong cộng đồng, trong
XH, trong một quốc gia. Sự quy định ấy phải thể hiện bằng pháp chế, bằng dư
luận, bằng cách tạo ra những thói quen, phong tục tập quán truyền thống….
* Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa được nhiều người đề cập, vào năm 1994, trong cơng
trình Văn hóa VN và cách tiếp cận mới, PGS. Phan Ngọc cho biết: “ Một nhà
dân tộc học Mỹ đã dẫn ngót bốn trăm định nghĩa về văn hóa khác nhau” [13].
Do vậy, trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các cơ
quan nghiên cứu…đã nghiên cứu về văn hóa, bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết
sâu sắc của mình trên từng lĩnh vực, với cách tiếp cận khác nhau trên cương vị
cơng tác của mình đã có những khái niệm về văn hóa như sau:
Ơng Federico Mayor, cựu Tổng giám đốc UNESCO cho rằng: “ Văn hóa
là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và các cộng đồng)
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.” [19].
Thập niên 40 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một quan
niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người

18



mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa.”[26].
Nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đã kế thừa tư tưởng của Bác và cho
rằng: “ Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ cùng rộng lớn, bao gồm tất cả
những gì khơng phải là thiên nhiên mà cơ liên quan tới con người trong một
quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử….cốt lõi của
sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và đẹp nhất của nó, bao gồm cả
hệ thống giá trị, tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài
năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo về tài sản và
bản lĩnh các dân tộc cộng đồng, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình
và khơng ngừng lớn mạnh.” [15].
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và XH của mình. [36].
Có thể thấy sự phong phú trong cách sử dụng thuật ngữ, diễn đạt với
nhiều cách tiếp cận khác nhau đã dùng ở một số định nghĩa đã nêu trên, qua
nghiên cứu chúng tôi nghĩ khái niệm văn hóa cũng có thể hiểu như sau: Văn
hóa là toàn bộ những giá trị vật chất hay tinh thần được hình thành theo thời
gian qua sự tác động sáng tạo của con người vào tự nhiên, XH và chính con
người để vươn tới sự hồn thiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển không
ngừng của đời sống XH loài người.

19


Để hiểu rõ khái niệm văn hóa và phân biệt một khái niệm gần với khái

niệm văn hóa (culture) đó là khái niệm văn minh (civilization); bởi lâu nay,
khơng ít người vẫn sử dụng văn minh như một từ đồng nghĩa với văn hóa.
“ Văn minh (văn nghĩa là vẻ đẹp, minh là sáng) là khái niệm có nguồn
gốc từ phương Tây chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương
diện vật chất, nó đặc trưng cho một thời đại và một khu vực rộng lớn hoặc cả
nhân loại.”
[36]. Hai khái niệm văn hóa và văn minh “gần gũi, có liên quan mật thiết với
nhau song khơng đồng nhất” [36]; trong khi văn hóa ln ln có bề dày của
quá khứ thì văn minh chỉ cho biết một trình độ phát triển của văn hóa; thực tế
chứng minh như sau: nếu như vào thế kỷ XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng
là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI nó là biểu
tượng của sự lạc hậu và nhường chỗ cho máy vi tính, máy kĩ thuật số, phi
thuyền bay vào vũ trụ…
“ Ở VN cịn có các khái niệm: văn hiến, văn vật đó là những khái niệm
bộ phận của văn hóa” [36]; hai khái niệm này khác với khái niệm văn hóa ở độ
bao quát các giá trị: “ văn hiến là văn hóa thiên về các giá trị tinh thần, cịn văn
vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất.” ” [36].
*Chức năng của văn hóa: Văn hóa có 4 chức năng: tổ chức xã hội, điều
chỉnh xã hội, giáo dục, giao tiếp. ” [36].
+ Chức năng tổ chức xã hội: “ Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ
ổn định của xã hội, cung cấp cho XH mọi phương diện cần thiết để ứng phó với
mơi trường tự nhiên và XH của mình.” ” [36]. Thể hiện của chức năng này đó
là: tận dụng mơi trường (nếu tác động của mơi trường là tích cực), đối phó vơi

20


môi trường (nếu tác động của môi trường là tiêu cực) và chủ động cải biến,
sáng tạo ra môi trường.
+ Chức năng điều chỉnh XH: Văn hóa định hướng các giá trị, xem xét,

phân loại các giá trị, điều chỉnh các ứng sử của con người, “giúp cho XH duy
trì trạng thái cân bằng động của mình, khơng ngừng tự hồn thiện và thích ứng
với những biến động của mơi trường để tồn tại và phát triển.” ” [36].
+ Chức năng giáo dục: Nhờ chức năng giáo dục mà truyền thống văn hóa
được tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Chức năng giao tiếp: Văn hóa trở thành một cơng cụ giao tiếp quan
trọng bởi văn hóa luôn gắn liền với con người và hoạt động của con người
trong XH, thể hiện cụ thể: “giao tiếp giữa cá nhân trong một dân tộc, giữa
những người thuộc các dân tộc khác nhau, giữa các nền văn hóa khác nhau trên
thế giới.” ” [36,].
1.2.2.2. Nếp sống văn hóa
* Khái niệm nếp sống văn hóa
Trong cuộc sống, những ý nghĩ việc làm, sinh hoạt…được lặp đi, lặp lại
hàng ngày, dần dần trở thành thói quen, thành một hệ thống tập quán tạo nên
nếp sống. Nói cách khác, Nếp sống bao gồm những cách thức, những quy
ước…đã trở thành thói quen trong các lĩnh vực của cuộc sống, ví dụ như: trong
sản xuất có cách thức trồng trọt, chăn ni,…trong sinh hoạt có thói quen ăn,
mặc, ở, giao tiếp…;trong đời sống XH có phong tục tập quán, lễ nghi, pháp
luật…Nhờ có nếp sống mà những kinh nghiệm quý báu của con người và XH
được giữ gìn và phát triển và cũng nhờ có nếp sống mà con người và XH khơng
cần phải đi đường vịng, khơng phải bắt đầu lại q trình lịch sử mà nhân loại
đã trải qua.

21


Trong từ điển Tiếng Việt ” [47], nếp có hai nghĩa: theo nghĩa thứ nhất:
vệt hằn trên bề mặt nơi bị gấp lại của vải, lụa, da, vv…(quần áo còn nguyên
nếp, nếp nhăn trên má): theo nghĩa thứ hai: Lối, cách sống, hoạt động đã trở
thành thói quen (nếp sống văn minh, thay đổi nếp theo suy nghĩ).

Một số tác giả đã có những khái niệm khác nhau về nếp sống như sau:
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: Nếp sống là lối sống đã đi vào nề
nếp được XH quy định bởi những pháp chế, tập tục hay luật lệ được dư luận
đông đảo quần chúng của XH chấp nhận. ” [44]. Theo tác giả Lê Như Hoa:
Nếp sống là những hành vi ứng sử của con người đã được lặp đi lặp lại nhiều
lần thành nếp, thành thói quen, thành phong tục được XH công nhận. ” [30].
Tác giả Lê Thanh cho rằng:” Nếp sống là những quy ước được lặp đi, lặp lại và
trở thành thói quen trong sinh hoạt, phong tục tập quán và hành vi đạo đức.
[23].
Qua tìm hiểu, nghiên cứu chúng tơi hiểu khái niệm nếp sống như sau:
nếp sống là những biểu hiện hành vi ứng sử của con người trong các lĩnh vực
của cuộc sống (sản xuất, sinh hoạt, đời sống XH, gia đình,…) đã được hình
thành, trải nghiệm và ổn định theo thời gian.
* Nếp sống văn hóa
Theo tác giả Đặng Nghiêm Vạn: NSVH tức là nếp sống phù hợp với văn
hóa của một XH, một dân tộc, một tộc người, một đất nước nhất định. [44].
Trong từng thời kỳ lịch sử nhất định, NSVH của một đơn vị, một lứa
tuổi, một thế hệ…là một bộ phận của văn hóa dân tộc, NSVH ấy vừa mang tình
phổ qt, vừa có tính dân tộc và phù hợp với xu thế chung của nhân loại, vừa
mang nội dung của chế độ XH mà đất nước, dân tộc đó lựa chọn.

22


Điều tất yếu và là nhân tố quan trọng quyết định trong việc xây dựng một
NSVH của dân tộc VN đang trên chặng đường quá độ tiến tới một XH XHCN
là: NSVH của con người VN nói chung, của thanh niên nói riêng khơng chấp
nhận lối sống lấy đồng tiền làm thước đo mọi giá trị con người, lấy cạnh tranh
không lành mạnh, lừa gạt, bịp bợm làm lẽ sống, lấy sự chà đạp lên danh dự,
phẩm giá người khác, mua quyền, bán chức làm phương tiện để vươn lên địa vị

cao sang trong XH, lấy sự gian dối, cơ hội, thiếu trung thực để đạt được những
gì mình mong muốn.
Chúng tôi cho rằng: NSVH của SV là những biểu hiện hành vi ứng xử
của SV trong các hoạt động học tập, giao tiếp, hoạt động cá nhân, tập thể…đã
được hình thành, rèn luyện, ổn định theo thời gian, phù hợp với các quy định,
văn hóa của nhà trường, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của XH và được cộng
đồng chấp nhận.
1.2.2.2. Một số khái niệm liên quan
Nếp sống, lối sống là những khái niệm gần gũi, liên quan đến nhau
nhưng không đồng nhất với nhau.
Lối sống của một dân tộc, một đất nước bao hàm một nội dung gắn liền
với những hình thức sinh hoạt của tất cả mọi người trong cộng động trải ra
nhiều lĩnh vực hoạt động, đảm bảo các chuẩn mực văn hóa và do tính chất của
XH, của dân tộc, của đất nước quy định. Trong từng giai đoạn lịch sử, bên cạnh
lối sống chung mang dấu ấn của cả nước, cả dân tộc thì mỗi ngành, mỗi giới,
mỗi thành phần giai cấp…thậm chí từng gia đình, từng cá nhân đều có lối sống
riêng của mình. Sự riêng biệt của những lối sống này chỉ có thể chấp nhận được
một khi nó phù hợp với lối sống chung của cộng đồng, không đi ngược với lợi
ích của cộng đồng.

23


Vì vậy, tùy theo cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã có những khái
niệm về lối sống khơng hồn tồn giống nhau:
Lối sống là tồn bộ những hình thức, hoạt động sinh sống tiêu biểu xuất
hiện trong những quan hệ kinh tế - XH nhất định của các dân tộc, giai cấp, các
nhóm XH, cá nhân trong sản xuất vật chất và tinh thần, trong phạm vi XH –
chính trị và riêng tư thường ngày, trong những mối quan hệ của mội người và
trong đời sống cá nhân. [32].

Lối sống là một phạm trù XH học khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm XH, các cá nhân trong những điều kiện một
hình thái kinh tế - XH nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống:
trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh
hoạt tinh thần và văn hóa. [19].
Có thể nói, lối sống là thước đo về trình độ dân trí, sinh hoạt vật chất,
tinh thần của cong người và của XH, lối sống được thể hiện ở lẽ sống, nếp sống
lành mạnh, con người có thể trở thành con người có văn hóa và XH khơng
ngừng tiến bộ, phát triển.
Lẽ sống là sự lựa chọn chủ quan của con người về một lối sống; nó ln
túc trực và sẵn sàng giải đáp mọi lúc mọi nơi cho con người về ý nghĩa sự tồn
tại hàng ngày của họ. Trong hoàn cảnh dân tộc ta bị áp bức, nhân dân bị nơ
dịch, nước nhà chưa thống nhất thì lẽ sống của con người phải là độc lập, tự
do; mà lẽ sống của con người VN có lương tâm đó là thực hiện theo như lời
Bác Hồ dạy: “ Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, biết làm giàu cho bản
thân, gia đình và cho XH, góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh,
văn minh.

24


Mức sống là một chỉ báo về lối sống, nói lên trình độ sinh hoạt vật chất
(ăn, mặc, ở…) của con người từ mức thu nhập cá nhân và mức hưởng thụ phúc
lợi XH (đi lại, học tập, sinh hoạt văn hóa, bảo vệ sức khỏe, bảo hiểm XH,…)
của cá nhân đó. Mức sống được nâng cao là điều kiện vật chất cần thiết để con
người có thể nâng cao sức khỏe, phát triển tài năng, tổ chức tốt cuộc sống gia
đình nhằm đóng góp nhiều của cải vật chất, tinh thần cho XH. Do vậy, nâng
cao mức sống là nhu cầu chính đáng và cũng là mục tiêu phấn đấu của Đảng,
Nhà nước ta và của mọi người. Tuy nhiên, mức sống không thể đồng nhất với
lối sống. Tức là, mức sống có thể ngang nhau nhưng lối sống có thể khác nhau,

khơng phải mức sống được nâng cao thì mọi mặt của lối sống đều tích cực, tốt
đẹp; thực tế đã xảy ra, đó là có khơng ít những người sống một mức sống rất
cao song họ lại làm những việc bị XH lên án. Ngược lại, có những người sống
trong cảnh nghèo túng, nhưng họ lại vượt qua mọi khó khăn siêng năng, chịu
khó, thường xuyên nâng cao trình độ học vấn và rèn luyện phẩm chất đạo đức
tốt. Như vậy, mức sống của họ thấp song lối sống của họ rất đáng trân trọng.
Nắm được bản chất của khái niệm lối sống, lẽ sống và mức sống sẽ giúp
chúng ta có một thái độ đúng đắn trong việc không ngừng nâng cao mức sống
của nhân dân, đồng thời xây dựng một lối sống tốt đẹp và lẽ sống thật phù hợp
ngay trong lúc đất nước đang chuyển mình sang thực hiện CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế, mặt khác hiểu được khái niệm lối sống, lẽ sống và mức sống sẽ
giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn khái niệm nếp sống, NSVH.
1.2.2.4. Sinh viên
* Một số đặc điểm của SV VN

25


×