Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TU NHIEP TAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.26 KB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHIẾP TÂM - AN TRÚ TÂM</b>


<b>1.- Điều Kiện Nhiếp Tâm – An Trú Tâm</b>


Giai đoạn này tập luyện để đạt cho được sự tĩnh giác trong chánh niệm, nghĩa
là nhiếp tâm trong hơi thở, trên bước đi kinh hành và trong Thân Hành Niệm.
Nhiếp cho được, đừng để bị thất niệm, tức là đừng quên. Quên không theo dõi
hơi thở hay bước đi hay thân hành một tí xíu thơi thì cũng là bị thất niệm rồi.
Dù niệm đó là thân hành, hơi thở hay bước đi đều là niệm của thân là Thân
Hành Niệm. Vì vậy Thầy nói tập luyện từng hơi thở, từng hành động của niệm
thân hành.


Nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu thôi, đừng nghĩ xa hơn là nhiếp tâm vào trong
hơi thở để đi vào định. Chưa tới giai đoạn định đâu. Đây chỉ là giai đoạn tập
luyện để được tĩnh giác và nhiếp được tâm vào trong niệm của thân hành để có
được niệm thôi.


Khi nhiếp được tâm trong niệm của thân hành, rồi sau đó mới tập làm sao để an
trú tâm trong niệm thân hành. Nghĩa là tập để tâm nhiếp được vào trong hơi
thở, rồi làm sao cho tâm được an trú trong hơi thở. Tức làm cho cả thân và tâm
được an trú. Để đạt được điều này thì phải tập luyện trải qua hai giai đoạn : một
là nhiếp phục tâm, hai là an trú tâm. An trú khơng có nghĩa là giữ đừng cho
có niệm kéo dài trong thời gian thật dài. Khơng phải vậy. Khi biết hơi thở hít
vơ thở ra mà cảm thấy tồn thân an ổn vơ cùng thì lúc đó là đã an trú trong hơi
thở.


Nhưng muốn an trú tâm kéo dài ổn định thì điều kiện là đời sống phải sống cho
đúng giới luật. Sống không đúng cách, sống khơng đúng giới luật thì nó khơng
chịu kéo dài an trú đâu. Tại sao vậy? –Tại vì tâm khơng thanh tịnh. Khi tiếp
dun, nói chuyện, làm động tâm, phá hạnh độc cư, thì khơng an trú được. Nếu
có cảm giác an là tại vì tập luyện có tưởng, chỉ an trú tưởng. Khi khơng ức chế,
tức khi trở về 4 Niệm Xứ mà có an trú thì đó mới thật được an trú.



Nhiều người mới tập luyện mà có trạng thái hỉ lạc an trú thì các trạng thái đó
đều là tưởng hết. Trong tập 5 Giáo Án Tu Tập của Người Cư Sĩ, những người
trình kết quả tập luyện của họ, đó là những sự an trú tưởng, khơng phải an trú
thật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Bây giờ cần nhớ kĩ việc tập luyện chính của con là nhiếp phục tâm trong hơi
thở hay trong bước đi kinh hành và an trú cho được thân và tâm vào trong hơi
thở và trong bước đi, chỉ cần 5 phút. Chỉ bấy nhiêu thôi. Nhiếp phục được tâm
trong 5 phút hay 3 phút tức là chế ngự được tâm trong thời gian chỉ 5 hay 3
phút để được an trú mới hội đủ điều kiện tập luyện cái khác. Không phải nhiếp
phục được tâm kéo dài trong 1 giờ, hay 2, 3 giờ là để cho hết vọng tưởng.
Không phải vậy. Chỉ vào tới Lậu Tận Minh mới hết vọng tưởng.


Tập luyện nhiếp phục và an trú tâm là mục đích phải đạt trong thời gian này.
Nếu chưa nhiếp phục tâm và chưa an trú tâm là cịn lấy sức của mình để tập
luyện tức còn bị hao năng lượng. Khi nhiếp phục và an trú tâm được rồi thì bắt
đầu từ đó sự tập luyện sẽ phát sinh ra năng lượng, khơng cịn bị hao hụt năng
lượng nữa. Lúc đó nó sẽ tự động làm cho con giảm giờ ngủ lại, tăng giờ tập
luyện lên. Con sẽ đạt được kết quả vững vàng, sung mãn và thâm sâu trong các
pháp và sức tĩnh giác tăng cao.


Để nhiếp phục tâm mà phải trải qua thời gian dài tập luyện thì bị hao năng
lượng. Và cố gắng tập nhiều giờ thì năng lượng tiêu hao nhiều hơn. Hậu quả là
buồn ngủ, ngủ gật, ngủ mê, sức khoẻ suy kém, lần lần sự tập luyện bị thối
chuyển, hoặc là cảm thấy yếu đuối, mất sức nhiều vì phải vận dụng tập luyện
nhiều giờ. Phải tránh không để xẩy ra tình trạng này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Khi đã nhiếp phục được tâm thì cũng có thể an trú được tâm. Nếu thời tu nào
tập cũng nhiếp tâm được như vậy thì Thầy sẽ dạy thêm để an trú trong hơi thở


hay trên bước đi cũng trong 5 phút đó. Cịn tập luyện nhiều mà chưa an trú thì
năng lượng bị hao nhiều. Đó là cái sai, con cần tránh.


Bây giờ con chỉ cần tập luyện cho đạt được sự an trú đó, cịn nhiếp tâm thì đã
nhiếp được rồi vì theo sự trình bày cách tập luyện hơi thở thì con đã nhiếp tâm
được. Dù tập luyện ít mà nhiếp được tâm trong hơi thở, như đức Phật nói đừng
để thất niệm, là đã nhiếp tâm được rồi. Thầy nghĩ chỉ nên tập làm sao trong thời
gian 5 phút phải đạt được sự an trú tâm. Khi hết 5 phút thì phải nghỉ một vài
phút rồi tiếp tục tập 5 phút khác. Nếu kéo dài lâu hơn 5 phút thì hao năng lượng
nhiều quá. Cố gắng nhiếp phục và an trú tâm lâu như thế sẽ trở thành ức chế
chứ không phải chế ngự tâm. Tập luyện 5 phút là chế ngự, nhiều hơn 5 phút là
ức chế.


<b>2.- Mục Đích Nhiếp Tâm và An Trú Tâm</b>


Mục đích nhiếp tâm và an trú tâm để làm gì? – Đó là khi nhiếp tâm và an trú
tâm được thì mới đẩy lui được chướng ngại pháp trên 4 chỗ thân, thọ, tâm,
pháp, tức là đủ năng lực để chuyển qua tập luyện 4 Niệm Xứ.


Đức Phật nói <i>“Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; trên thọ quán thọ </i>
<i>để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu; trên pháp </i>
<i>quán pháp để khắc phục tham ưu”</i>. Tham ưu là các chướng ngại pháp, tức là
những gì xẩy tới trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp làm cho con khó chịu, phiền
não, đau khổ, nhức nhối gì đó thì làm sao đẩy lui cho được bằng pháp 4 Niệm
Xứ. Đẩy lui được mới gọi là khắc phục tham ưu. Nếu chưa có khả năng an trú
tâm này thì hãy khoan, đừng tập luyện 4 Niệm Xứ.


Điều này không mấy ai biết, cho nên ở nơi khác dạy 4 Niệm Xứ mà các con
khơng được dạy để có khả năng khắc phục tham ưu. Người ta cứ nghĩ khắc
phục tham ưu là cứ ở trên đó mà qn. Thí dụ qn bất tịnh, quán từ bi hoặc là


hít thở này kia. Thật sự khơng phải vậy. Hồn tồn khơng phải vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Khi ngồi mà ngủ gục tới gục lui thì đó là mất tĩnh giác, khơng cịn được tĩnh
giác. Quên tập trung vào đối tượng, mới ngủ gục. Nếu không đẩy lui được
chướng ngại quên tập trung này, khơng có cách thức nào để đẩy nó lui thì chỉ
ngồi đó mà gục tới gục lui rồi ngủ thơi. Khi cịn ngủ gục thì khơng phải là lúc
tập luyện 4 Niệm Xứ. Không thể tập luyện trong tình trạng như vậy được. Cho
nên buộc lòng phải tập nhiếp tâm và an trú tâm cho đến khi được rồi thì mới tập
luyện 4 Niệm Xứ.


Đó chính là hướng buộc lịng phải đi để có khả năng đẩy lui cho được các
chướng ngại pháp. Chừng đó mới đủ năng lực để tập luyện 4 Niệm Xứ trong
thời gian 7 ngày, 7 tháng, 7 năm giúp đạt được chứng quả. Chỉ có pháp 4 Niệm
Xứ mới chứng quả được thơi, khơng có pháp nào khác. Trong bốn chỗ thân,
thọ, tâm, pháp mà được thanh thản an lạc vô sự, và tất cả thời đều thanh thản an
lạc vô sự không bị gián đoạn, kéo dài từ ngày thứ nhất cho tới lâu lắm là ngày
thứ bảy thì chứng đạo.


Nếu ngày thứ nhất trong suốt từ 12 giờ cho đến 24 giờ mà trạng thái thanh thản
kéo dài được như vậy, không bị gián đoạn, tâm khơng cịn phóng niệm phóng
dật nữa, thì năng lực của 7 Giác Chi, tức 7 trạng thái Bồ Đề, cũng là 7 trạng
thái Giải Thốt xuất hiện. Chỉ khi năng lực đó xuất hiện thì mới sử dụng nó để
tập luyện 4 Như Ý Túc. Bởi 4 Như Ý Túc mà khơng có năng lực 7 Giác Chi thì
khơng tập luyện được. Chỉ có năng lực 7 Giác Chi này mới tạo thành được 4
Như Ý Túc, mà chỉ có 4 Niệm Xứ mới làm xuất hiện năng lực 7 Giác Chi này.
Còn pháp Thân Hành Niệm kiên cố như cỗ xe sẽ sử dụng tới, nếu sau khi giữ
tâm thanh thản an lạc vô sự kéo dài liên tục suốt thời gian 24 giờ nói trên mà
năng lực 7 Giác Chi này chưa xuất hiện, lúc đó cần phải dùng pháp Thân Hành
Niệm, con tác ý trong từng hành động của thân để lực tác ý sanh khởi lực
hướng tâm đặng nó làm cho năng lực 7 Giác Chi xuất hiện. Nếu ngồi 4 Niệm


Xứ giữ tâm thanh thản an lạc vô sự được mà năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đủ
thì khỏi tập luyện Thân Hành Niệm. Thân Hành Niệm là pháp trợ giúp cho
năng lực 7 Giác Chi xuất hiện nhanh lên thôi.


Nhưng pháp Thân Hành Niệm không phải là pháp có thể thực hành tập luyện
ngay liền bây giờ được, bởi vì khi thực hành tập luyện nó mà 4 Niệm Xứ chưa
viên mãn thì bị phản ứng. Nếu tập luyện nhiều thì bị đau này kia, bởi vì các tâm
dục ác pháp cịn mà dùng Thân Hành Niệm là ức chế quá độ nên nó phản ứng
bằng cách làm bị đau. Cho nên bây giờ tập luyện pháp này là chỉ để biết cách
thức, tập làm quen, rồi để dành cho phần sau khi đã tập luyện 4 Niệm Xứ rốt
ráo sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Chữ an trú trong kinh và sự an trú trong các pháp tập luyện có ý nghĩa như thế
nào? Cụ thể là trong Kinh Hành Tĩnh Giác sự an trú là sao, làm thế nào để
không bị ức chế?


An trú vào hơi thở khơng có nghĩa là ngồi xuống rồi hít thở ngay liền. Đó chỉ là
biết hơi thở. Đi mà tập trung hết tâm ý vào bước đi để các niệm khơng có thể
khởi ra là đang hoạt động nhiều. Đó chỉ mới trú mà chưa an.


Đây là điểm mà đức Phật dạy là thiện xảo an trú. Khi đi biết bước chân đang đi
là TRÚ chứ chưa an. Phải AN TRÚ mới đúng nghĩa. Đầu tiên phải trú cho
được, sau mới tới an. Trú tức là cái tâm ở trong niệm kinh hành hoặc hơi thở,
tức là nhiếp tâm vào bước đi hay hơi thở. Khi ngồi hay đi mà chốc lại có niệm
này, chốc lại co niệm kia, tức là khơng trú được, chưa trú được. Nó phải nhiếp,
phải ở được một thời gian cần thiết mới có trạng thái yên ổn, tức an trú.


Muốn được an trú vào trong hơi thở hay khi kinh hành thì phải biết thiện xảo.
Trú là phải dẹp hết, không làm gì nữa, nhưng chưa vơ hơi thở đâu. Mọi việc
phải từ từ, khơng gì vội vàng. Phải làm cho rảnh rang cả tâm và thân, phải tập


như vầy:


Trước tiên ngồi thẳng lưng, kiết già, thu xếp tay chân thân mình cho n ổn,
khơng cịn chướng ngại gì, với mục đích là phải an trú. Ngồi yên lặng cho thân
yên ổn rồi quan sát tâm thấy cũng yên tịnh, một lúc độ 3 – 5 phút, giữ cho thân
tâm đều an, khơng có gì hết, sau đó tác ý để cho tâm nhiếp vào trong hơi
<b>thở thì nó sẽ an trú vơ trong hơi thở. Tức ngồi giữ thân bất động, giữ tâm </b>
<b>không niệm khởi, rồi tác ý an trú. Con phải biết và nhớ điều này. Đó là cách </b>
an trú. Khi mới vơ ngồi thì giữ tâm dễ lắm, chưa có vọng tưởng đâu. Còn nếu
vừa ngồi xuống, tâm còn lăng xăng mà đã lo chú tâm hít thở thì tâm không
nhiếp được, không an trú được.


Khi làm đúng vậy thì con sẽ an trú nghĩa là lúc đó cảm thấy an lạc thật sự. An
trú đúng thì có trạng thái an lạc, trạng thái của sự an trú. Một giờ mà an trú
được thì đó mới đạt kết quả của một giờ tập luyện. Nếu an trú không được mà
cố gắng làm cách này cách kia cho an thì chẳng qua ức chế mà thơi. Khơng
phải ngồi yên là có sự an trú. Ngồi yên chỉ có sự n ổn thơi. Cho nên nói an
trú trên hơi thở hay an trú trên thân hành thì trước tiên phải làm cho thân tâm
an tịnh hoàn toàn, rồi mới vào an trú được.


Thầy chỉ rõ cách thức an trú như thế, chừng áp dụng vào tập luyện vài lần thì
con sẽ biết cách vào an trú được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

luyện cho đạt được sự nhiếp phục và an trú tâm. Ngay cả khi đang đi mà vọng
tưởng tới dồn dập thì nên đứng lại, giữ yên lặng một lúc cho tâm ổn định rồi tập
trung tâm ý tập luyện lại. Tập luyện đi 20 bước xong đứng lại chuẩn bị cho 20
bước kế tiếp. Làm vậy là tập luyện kĩ, rất kết quả, hơn là đi liên tục suốt 30
phút hay liên tục từng 20 bước. Đó là cách thiện xảo để an trú cho được tâm
trên thân hành. Có nhiều cách thức để thiện xảo tùy theo đặc tướng của mỗi
người.



Khi đi Kinh Hành Tĩnh Giác, nếu có tạp niệm xen vào nhiều, con đã sử dụng
câu tác ý <i>“An tịnh tâm hành tôi biết tôi đang đi”</i> thì đúng rồi. Đó là những câu
mà đức Phật trang bị sẳn để khi tâm không an dẫn cho nó an, tâm khơng tịnh
dẫn cho nó tịnh. Cũng như khi thân khơng an thì cũng có pháp trang bị làm cho
an. Đức Phật trang bị đủ hết mọi điều kiện, chỉ có mình chịu ơm pháp tập luyện
hay không thôi. Phải siêng năng và tập luyện đúng pháp thì mọi chướng ngại,
chướng pháp sẽ bị dẹp hết.


Người muốn tu tập theo đạo Phật cần có 5 điều kiện, trong đó có điều kiện
người này phải có trí. Có nghĩa là khi được nghe nói thì phải tư duy, phải hiểu
ý nghĩa của điều được nghe. Trong kinh, đức Phật nói các danh từ nghe dường
như rất dễ hiểu nhưng thật ra rất khó thực hành.


<b>4.- Tinh Tấn Tập Luyện</b>


Vừa tập luyện xong Định Niệm Hơi Thở thì chuyển qua Định Thư Giãn để có
thời gian nghỉ ngơi, rồi Chánh Niệm Tỉnh Giác, rồi Định Thư Giãn lại. Như
vậy là tập luyện liên pháp, liên tục, khơng có nghỉ. Nghỉ là tập luyện Định Thư
Giãn. Giữa hai pháp kia xen Định Thư Giãn vào. Cách thức thư giản không
phải dễ thực hành đâu, coi chừng bị ức chế mà không hay.


Khi đã ấn định thời gian 30 phút cho mỗi pháp thì chỉ tới 30 phút thơi, khơng
nên vượt quá. Phải tập cho quen sự nghiêm chỉnh giờ giấc này. Đó cũng là sự
tập luyện: tập luyện sự làm chủ. Nếu ấn định 30 phút thì trong 30 phút đó dù có
cái gì, thọ lạc, thọ khổ, cũng cứ ôm chặt pháp đủ trong giới hạn thời gian đó.
Gặp trường hợp gì cũng phải giữ, phải ơm chặt pháp trong 30 phút. Khi có thọ
lạc, muốn đi kinh hành lâu hơn cũng không được đi, nhất định phải ngừng. Hay
ấn định một giờ là chỉ một giờ, đúng 1 giờ, không vượt quá, cũng không dưới
xa mức ấn định đó. Dù khó khắc phục cũng phải vượt tới 1 giờ, tức dù đau


chân, tê chân, cũng phải đến một giờ mới được xả nghỉ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

luyện tốt lành hay yếu dở cũng phải ráng giữ cho đúng giờ. Đừng nghĩ rằng khi
tốt lành thì tập luyện thêm là có lợi ích. Khơng phải vậy đâu. Chừng nào con
thấy đủ sức tăng lên thì mới tăng lên cho tất cả mọi thời tu. Phải chủ động điều
khiển tập luyện trên pháp.


<b>5.- Phải Tĩnh Giác Trong Khi Tập</b>


Muốn được lúc nào cũng tĩnh giác thì phải lúc nào cũng nhiếp phục được tâm
trong thân hành nội là hơi thở, và trong thân hành ngoại là hành động của tay,
chân, thân hình. Để được vậy thì phải luyện sự an trú tâm trong thân hành
đạt chất lượng ít nhất phải trong 30 phút , mà phải là không ức chế. Ức chế là
sai, quá sức rồi, không được.


Khi nhiếp tâm và an trú tâm là phải thấy thoải mái trong thân hành trong 30
phút. Tập luyện tĩnh giác thì phải tĩnh giác trên niệm thân hành. Đầu tiên phải
đạt cho được sự tĩnh giác tức là nhiếp phục và an trú tâm trên các thân hành. –
Đó mới chỉ tĩnh giác thơi. Sau đó khi xả ra và trong sự phịng hộ của con thì đó
là tỉnh thức, có nghĩa là khi có TĨNH GIÁC mà được phịng hộ thì đó là TỈNH
THỨC , tức là khi áp dụng 3 cái Thánh: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các
Căn, Thánh Chánh Niệm Tĩnh Giác, đó là Thánh Tỉnh Thức. Thiếu tĩnh giác thì
khơng áp dụng được, khơng đạt được kết quả gì cả. Cần phân biệt rõ hai giai
đoạn này trong khi tập luyện.


Khi đi Kinh Hành, hay Định Niệm Hơi Thở hãy sử dụng cái biết rõ ràng, đừng
để cái gì xen vào làm cái biết không rõ, bị lờ mờ. Trạng thái tĩnh giác sẽ phát
<b>sinh khi tập luyện với cái biết thật rõ, thật tỉnh táo, đầy đủ ý thức. Tập </b>
luyện kinh hành trong đêm tối thì cũng thật tỉnh táo, sáng suốt như ban ngày.
Đừng luyện các pháp cùng chung với tưởng nhiều dù tập luyện trong bóng tối


hay trong ánh sáng. Phải dùng tối đa sức cảm biết trong ý thức sáng suốt để
<b>tập luyện . Ban ngày tập luyện như thế nào thì ban đêm như thế ấy.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Thầy hay nhắc nhở. Giai đoạn này khơng nên làm cho ý thức bị chìm đi, tạo cơ
hội để tưởng hiện ra. Cho nên con phải luôn luôn dùng ý thức mà tập luyện.
Tập luyện với sức tĩnh giác cao, đừng để lọt vào tưởng, cũng đừng để bị buồn
ngủ, ngủ gật. Chậm lại để có sự quan sát kĩ. Con tập ít, tập kĩ. Thì giờ cịn lại,
ngồi quan sát, tư duy suy nghĩ, hoặc ngồi chơi cho thư giãn xem có những niệm
nào khởi. Đó là suy tìm đạo lý.


<b>6.- Suy Tìm Đạo Lý</b>


Đâu phải tập luyện Chánh Niệm Tĩnh Giác chuyên suốt hoài được. Sau khi xả
ra thì bắt đầu suy tìm đạo lý. Ngồi mà tư duy, bởi tư duy giúp triển khai tri
kiến, làm cái biết được thực hiện trên đạo đức. Triển khai tri kiến ra mới thấy
được cái sai cái đúng của con từ xưa tới giờ nó như thế nào. Con nhớ lại, thấy
lại những việc xẩy đến trong cuộc đời của con. Khi ngồi tư duy thấy suốt từ hồi
mới biết cho đến bây giờ có những cái thiện, cái ác như thế nào. Với sự tư duy
đó làm cho tri kiến được mở rộng ra, có tầm nhìn đúng. Hồi nào tới giờ sống
mà chưa có cái nhìn như vậy cho nên thấy cái nào cũng đúng. Bây giờ ngồi lại
suy tư mới thấy những cái sai trong số những cái đó. Thí dụ cách đây 5, 10 năm
có chuyện gì đó có cái sai này mà bây giờ con mới thấy. Chính sự tư duy đó
làm cho con có lợi ích hướng tới tương lai và đồng thời thấy được hướng áp
dụng cho tương lai mà niệm không bị ác pháp chen lấn vơ. Có tư duy những cái
gì đã xẩy ra thì mới có cái nhìn hiểu thấu suốt. Cịn nếu không chịu quán quá
khứ để thấy được cái sai cái đúng thì tương lai khơng định hướng được đâu.
Đây là dùng tri kiến làm chủ trong giai đoạn Giới.


Đó là cách thức suy tìm đạo lý. Thấy cái sai thì con cố gắng khắc phục; cịn
thấy đúng mà con đã làm được thì khơng khoe khoang với ai hết. Chính đó là


chỗ chủ động bằng ý thức và tri kiến giải thoát để nâng cao giá trị đạo đức,
nâng cao được tâm li dục li ác pháp để rồi lấy ý thức mà tập luyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Phải có nền tảng để tư duy, phải dựa trên những gì đức Phật dạy, để có cơ bản,
có tầm nhìn theo đạo giải thốt. Hiểu sự giải thốt theo lời đức Phật dạy, lấy đó
làm tiêu chuẩn để nắm vững mà tư duy. Nên con cần nghiên cứu, học đọc kinh
Nguyên Thủy Nikaya. Nếu không lấy kinh Nguyên Thủy Nikaya làm nền tảng
thì vẫn theo thói quen tư duy theo thế gian, thế tục, hay thế tục hóa theo các lập
luận Phật giáo phát triển, chứ không tư duy theo hướng giải thốt tri kiến đúng
của Phật.


Vả lại có những việc xẩy ra mà trong kinh khơng nói tới cho nên khơng phân
định được thiện hay ác thì con cần phải có vị Thầy tu chứng, có đủ trí tuệ mới
nhìn thấy chỗ thiện chỗ ác. Có những bài kinh nhìn ra thì đúng mà sao ở trường
hợp này con khơng truy tìm ra tiêu chuẩn để nhìn lại hồn cảnh đang xẩy ra thì
hãy mau mau hỏi vị Thầy của con; đừng hỏi ai khác vì họ đưa ý kiến của họ,
coi chừng bị lạc hướng. Chỉ vị Thầy tu chứng mới xác định đây là cái gì thì con
mới quyết định được đâu thiện đâu ác, rồi mới tăng trưởng nó hay ngăn và diệt
nó. Có vậy mới đem lại niềm.


<b>7.- Luyện Thân Tâm An Tịnh</b>


Phật dạy Định Niệm Hơi Thở đề mục 5 <i>“An tịnh thân hành tơi biết tơi hít vơ; </i>
<i>an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”</i> và đề mục 7 <i>“An tịnh tâm hành tơi biết tơi</i>
<i>hít vơ; an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”</i>. Vậy thì “an tịnh” là gì, bằng cách
nào, làm thế nào để được an tịnh? Nương vào hơi thở là thế nào, làm sao để
nương vào hơi thở. Từ đó những căn bản được đặt ra, suy nghĩ làm sao cho nó
an. Cho đến khi đạt được kết quả an tịnh thì đã phải nhiều lần suy tư, quán xét,
áp dụng cách này cách khác. Nhờ có sự suy tư và tập luyện như vậy cho nên
khi nghe lời vị Thầy nói kinh nghiệm của ơng thì mình mới thấy, mới biết cách


thức để thiện xảo. Cịn nếu khơng suy tư, khơng tập luyện thì khi nghe vị Thầy
nói mình khơng lưu ý đâu; có chăng thì chỉ hiểu chung chung thơi, chứ khơng
hiểu rốt ráo để tập luyện.


Khi muốn cho thân an tịnh thì làm sao? Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, còn an là
an ổn. Giai đoạn này chỉ tập luyện để có trạng thái an tịnh của thân, chưa đến
giai đoạn an tịnh của tâm. Trong Định Niệm Hơi Thở, phần an tịnh của thân có
đề mục riêng, phần an tịnh của tâm có đề mục riêng. Bây giờ những cảm thọ
của thân là đau nhức chỗ này chỗ kia trong thân mà muốn cho nó an tịnh, tức là
muốn khơng cịn đau nữa thì phải an trú cho được các cảm thọ này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

ngồi đến với thân. Khơng phải nó đến mà tự con lắng nghe thấy rõ ràng thân
<b>có an thật sự, khơng động đậy, khơng nhúc nhích chỗ nào hết. Tịnh là yên </b>
lặng mà thanh tịnh, tức là không bị động chút nào hết, hồn tồn n lặng. Đó
là thân vừa an mà vừa tịnh, không bị chướng ngại gì hết. Như vậy là tốt.


Do đó khi hít vơ con lắng nghe theo hơi thở thì thấy thân an; thở ra cũng như
hít vơ, thấy thân an. Lắng nghe đủ 5 hơi thở, tác ý lại lần nữa. Lắng nghe để
xem thân an tịnh. Con đang chú ý sự an tịnh thì cứ tác ý để sự an tịnh lúc nào
cũng hiện khởi trong thân, không để nó bị mờ dần. Mỗi lần tác ý là một lần
“hâm nóng lại”, làm cho nó đứng lại đó. Khơng tác ý, khơng lắng nghe thì sự
an tịnh lịm dần và sẽ biến mất. Khi lắng nghe như vậy thì niệm vọng tưởng, tức
là niệm khơng phải niệm an tịnh mà ta đang lắng nghe, sẽ không có, khơng
được có. Và khi đó, khi con đang lắng nghe và thấy an tịnh, thì dường như từ
trong thân phóng xạ một từ trường bảo vệ thân khơng bị muỗi mịng quấy phá.
Do đó phải tập luyện từng hơi thở và lắng nghe. Nếu con có được hơi thở dài
thì dễ đủ thời giờ lắng nghe toàn thân hơn.


Trạng thái an của thân khi lắng nghe được rồi thì khi nhiếp vào hơi thở nó sẽ
rất an tịnh. Rất an tịnh có được rồi thì sự lắng nghe sự an tịnh đó làm cho tâm


gom rất mạnh, tức là nhiếp phục tâm. Chỉ khi an tịnh có được rồi thì thân mới
có cảm giác im lặng mà sáng tỏ, lại yên ổn. Thật khó diễn tả bằng lời trạng thái
này ngoại trừ con cũng vào được trạng thái an tịnh này mới hiểu biết rõ. Lúc đó
thấy thân khoẻ khoắn lạ thường, khơng có một chút gì gọi là mỏi mệt, dù ngồi
bao lâu hay ngồi cả ngày đi nữa cũng khơng có dấu hiệu khó chịu nào, mà chỉ
thoải mái dễ chịu thơi. Khi đó khơng có cảm thọ nào trên thân đánh mình được.
Đó là trạng thái hoàn toàn an trú trong sự an ổn của thân.


Để thân được an tịnh thì con cịn lắng nghe. Đó là giai đoạn an tịnh của thân.
Nhưng khi thân có sự an trú thì khỏi cần lắng nghe nữa, tự nó có an trú rồi.
Nếu tập luyện mà khơng chịu lắng nghe sự an tịnh tức là sự thanh tịnh an ổn
trong thân (cũng như sự thanh tịnh của tâm) thì – mặc dù chúng có đó – nhưng
do con không nhận ra, hay không biết được sự an ổn thanh tịnh đã hiện khởi,
nên chúng bị mờ nhạt và biến mất, hay chúng không hiện khởi trong thân cho
con tập luyện. Còn con cố cơng lắng nghe, từ phút này qua phút khác thì càng
ngày sự an ổn thanh tịnh càng hiện ra. Chúng là những cái cần thiết phải đạt
cho được trước khi có thể li dục li ác pháp. Nhờ có chúng, tức sự thanh tịnh an
ổn trong thân và sự thanh tịnh của tâm, cho nên khi cảm thọ đến thì con làm
chủ cảm thọ được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thức của ta nó vừa biết vật này là nó khởi lên ái dục liền, nên nó bị dính. Có sự
ham muốn là có dính. Khi phịng hộ được mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thì dù có
thấy vật nhưng mắt khơng bị dính là do tâm khơng muốn. Đó là li dục (tâm
khơng muốn chính là tâm xả li). Làm cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sáu
căn và sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp khơng dính là li. Tâm li dục và
li ác pháp được rồi thì lúc đó tâm thanh thản an lạc vô sự; tâm trở về trạng thái
an ổn vô sự (là tâm 4 Niệm Xứ).


Khi tập luyện được vậy rồi, tức là khơng cịn dính mắc nữa, thì đương nhiên có
sự an trú. Có được sự an trú thì lúc bấy giờ con khơng cịn buồn ngủ bởi vì


buồn ngủ là sự an trú của dục. Ăn mà có sự an trú của dục mới tìm sự ăn ngon.
Ngủ mà có an trú của dục mới tìm cầu ngủ nghỉ. <i>“Chính vì không biết cách tập</i>
<i>luyện để an tâm cho nên chúng sanh mới đi tìm lạc của dục”</i>, Đức Phật nói hay
quá!


Trong Tu Viện, người nào an trú được thì họ sống một mình thơi, cịn ai chưa
thì họ phải đi tìm dục lạc, họ đi nói chuyện này kia. Đó là vì khơng an trú. Ta
thấy thì biết liền.


Trong các bộ kinh, Thầy thích đọc nhất là bộ Tương Ưng (Samyutta Nikaya, do
HT. Minh Châu dịch) vì trong kinh này chuyên dạy li dục li ác pháp. Chính bộ
Tương Ưng cứu Thầy khỏi tự sát.


<b>8.- Thất Niệm</b>


Trong kinh đức Phật thường dạy ta đừng để thất niệm.


Trên thân có ác pháp mà tác ý đẩy lui thì khơng phải thất niệm, vì ta chủ động.
Cịn khi đang ngồi tập Định Niệm Hơi Thở, bổng dưng có một niệm khởi thì
niệm theo dõi hơi thở bị gián đoạn, bị mất thì đó là thất niệm, thất cái niệm
đang tập luyện.


Ác pháp thì phải đẩy lui, hoặc ngăn hoặc diệt. Có ác pháp mà cố gắng chịu
đựng, cam chịu đựng trong khi có thể tránh được là ức chế, là sai với đường lối
của Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>tịnh thân hành tơi biết tơi hít vô; an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”</i> để làm
cho thân cảm nhận sự an tịnh mà qn đi cảm nhận của con muỗi đốt thì đó là
thay đổi niệm chứ khơng phải thất niệm. Đó là chủ động khắc phục tham ưu,
không phải là thất niệm.



Con tập luyện từ từ theo lời Thầy dạy, làm thế nào để đạt cho được sự nhiếp
tâm và an trú tâm trong thời gian tu tập ngắn. Đừng tu tập dài lâu, dài là ức chế.
Tập luyện Định Niệm Hơi Thở chỉ 5 hơi, tác ý xả, rồi tập luyện 5 hơi khác.
Kinh Hành Tĩnh Giác cũng vậy, đi 10 bước, hay 20 bước, đứng lại tác ý xả. Có
ác pháp thì tác ý đẩy lui. Cứ tác ý dù chúng có lui hay khơng. Bây giờ thì chưa
có sức gì, nhưng chắc chắn ngày nào đó tác ý sẽ có sức đẩy lui ác pháp, miễn là
liên tục tập luyện bền chí tác ý không gián đoạn.


Điều quan trọng là làm sao tập nhiếp tâm và an trú tâm trong hơi thở cho quen.
Thầy biết con đã quen được sự nhiếp tâm trong bước đi, cũng như trong hơi thở
rồi, bây giờ tiếp tục tập an tịnh cho được. An tịnh được mới tới an trú.


Khi đi kinh hành con tập tĩnh giác cho tâm lắng trong bước đi, có nghĩa là khi
<b>đi khơng tác ý gì khác ngồi sự chú tâm theo dõi bước đi. Đi đủ 20 bước </b>
đứng lại tác ý.


Thầy nhắc lại, ở vị trí của người mới tập luyện, sự nhiếp tâm và an trú tâm là
phần cơ bản nhất cần đạt cho được. Đức Phật dạy ta phải chế ngự tâm, làm sao
cho thân tâm an trú được trong hơi thở. Muốn được vậy thì thân và tâm phải an
tịnh tức là quán sát thân tâm để nhận biết ngay lúc nó vừa có được an tịnh. An
tịnh được thì an trú mới được.


Chỉ tập cho đạt sự an trú kéo dài trong 10 phút thơi, sau đó chuyển qua các đề
mục khác của Định Niệm Hơi Thở là quán li tham... quán li sân... Mục đích của
các đề mục này là khi có ác pháp tham, sân, si thì ở trên hơi thở dùng đề mục
đo mà đẩy lui; cịn khơng có thì khơng cần tập luyện, chỉ cần giữ tâm thanh
thản an lạc vô sự (tâm 4 Niệm Xứ).


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đừng nghe nói li dục li ác pháp nhập Sơ Thiền rồi tập li dục li ác pháp nhập Sơ


Thiền. Không phải vậy đâu. Ức chế thấy nó im lặng vậy chứ sự thật khơng phải
là Sơ Thiền. Chưa hồn mãn Chánh Niệm tức chưa sung mãn 4 Niệm Xứ thì
đừng mong thực hiện Chánh Định. Pháp 4 Niệm Xứ mà sung mãn được rồi thì
phải có năng lực 7 Giác Chi.


<b>9.- Thời Giờ Tập Luyện</b>


Các pháp mơn tập luyện, khơng bó buộc chúng có giờ tập luyện bằng nhau. Thí
dụ một pháp nào tập luyện 30 phút thì khơng bó buộc các pháp khác cũng tập
luyện trong 30 phút.


Định Niệm Hơi Thở nhiếp tâm được trong 30 phút thì pháp này tập luyện kéo
dài trong 30 phút, còn Kinh Hành Tĩnh Giác nhiếp tâm lâu hơn, thí dụ là 1 giờ
thì đi 1 giờ được.


Tuỳ pháp nào con tập luyện mà được an lạc an trú thì pháp đó tăng dần lên.
Cịn pháp nào chưa an trú được thì cứ giữ giờ tập luyện cho đến khi được an
trú. Thí dụ có pháp con tập luyện 10 phút mà vẫn chưa an trú, trong khi có pháp
đã an trú được nên con tập nó trong 1 giờ. Cái này được, không sao, không e
ngại. Hay có thể an trú lên hơn nữa, thí dụ 2 giờ, 3 giờ thì con cũng tăng lên tới
mức đó. Cịn pháp kia chỉ 10 phút mà chưa được an trú thì khơng được tăng lên
thêm, đủ 10 phút phải nghỉ xả, tập luyện pháp khác. Pháp tập luyện mà an trú
được, hợp với con thì mặc dù giờ tập tăng dần lên nhưng con vẫn nhiếp tâm
trong đó, ơm chặt pháp đó.


Giữ thời gian đã tăng cho cố định, không lùi lại sau khi đã tăng lên. Không
bỏ pháp môn nào. Khi pháp này tăng lên được thì chẳng bao lâu sau pháp kia
cũng tiến bộ được nhờ sự trợ giúp của pháp này. Ví dụ hơi thở tập luyện hồi
10 phút mà không thấy tốt trong khi pháp kinh hành tốt, được tăng lên thì rồi
pháp hơi thở cũng nhờ đó mà càng tốt ra.



Nhưng không phải pháp nào cũng tập luyện với thời gian bằng nhau. Thí dụ 30
phút đều tất cả các pháp. Không phải vậy. Phải linh động khéo léo. Bởi có
người đi kinh hành rất tốt nhưng có người kinh hành dở thì họ phải ngồi lâu.
Chỉ tuỳ theo đặc tướng của từng người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

là nâng pháp đó lên, chứ khơng phải nâng giờ pháp này lên mà giảm giờ các
pháp kia lui.


Làm vậy là thất bại, không tiến bộ. Các pháp kia phải giữ y giờ đã tập luyện
chúng từ trước cho đến đó; cịn pháp này thêm giờ thì nâng đều trong các thời
khóa lên bằng vậy. Cho nên giờ của thời khóa phải tăng thêm. Chừng khi các
pháp kia cũng được tăng, thì giờ tập luyện của thời khóa lại tăng thêm lên nữa,
lâu hơn nữa, có thể mỗi thời khóa kéo dài đến 3 giờ 30 hay 4 giờ và thời nào
cũng dài như vậy.


Do sự tăng thêm giờ này mà tâm con hết phóng dật dần dần nhờ nương vào giờ
tập luyện được kéo dài trong mọi thời khóa. Và đến chừng khoảng nghỉ xả hơi
giữa hai thời khóa khơng cịn nữa là con đã tập luyện liên tục 8 giờ mỗi khóa và
chỉ cịn tập luyện hai khóa trong ngày, nghỉ xả hơi có hai lần trưa và khuya,
trong mỗi lần cũng chỉ nghỉ 2 giờ. Lúc đó tâm con đã gần được thanh tịnh.
Pháp tập luyện được tốt tức là phù hợp với đặc tướng, hay không được tốt cũng
phải tập luyện cẩn thận kĩ lưỡng, không được bỏ pháp nào mà cũng không chỉ
ôm pháp nào vì pháp của Phật là 37 Phẩm Trợ Đạo, cái nào cũng quý, cũng lợi
ích rất lớn nhưng vì đặc tướng của con mà dễ tiến bộ ở pháp này, chậm tiến bộ
ở pháp kia. Cho nên phải giữ hết, không được bỏ một pháp nào.


Điều đặc biệt quan trọng cần lưu ý là chỉ nâng giờ tập luyện pháp môn nào lên
khi trong suốt thời gian tập luyện của pháp mơn đó hồn tồn được nhiếp tâm
và an trú tâm, không một phút giây nào bị thất niệm. Nếu chưa được vậy mà


nâng lên thì sẽ bị nó quật ngược trở lại làm thành những chướng ngại rối loạn,
tập luyện không tiến được.


Trong thời gian đầu đang tu tập Tứ Chánh Cần này, tập luyện mỗi pháp 30 phút
là lâu rồi, không được cho cái nào lên hơn 30 phút hết. Sau đó khi thấy pháp
mơn nào nhiếp tâm vơ dễ dàng con nâng nó lên, các pháp kia vẫn giữ ở thời
gian cũ đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Muốn thấy rõ được sự tập luyện tiến bộ như thế nào thì con có thể so sánh mức
độ hiện nay với tháng trước hoặc nhiều tháng trước, chứ so sánh sau một vài
ngày thì khơng nhận ra rõ ràng được.


<b>10.- Phá Buồn Ngủ, Ngủ Gục</b>


Khi bị ngủ mê khá nặng, Thầy sẽ chỉ dạy cách thức để đối trị nó. Con đã áp
dụng câu tác ý <i>“Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành”</i> nhưng chưa có kết
quả. Vậy trước khi ngủ, vừa nằm xuống, nên tác ý câu<i>“Thân và tâm phải hoàn </i>
<i>toàn định tỉnh khi ngủ cũng như khi thức, phải biết đúng giờ giấc!”</i> Con cứ tác
ý mỗi khi đi ngủ, lâu dần tâm sẽ rõ biết. Cứ tác ý mãi cho đến khi nào có kết
quả. Phải bền chí.


Ngun nhân khác khiến bị ngủ mê là do tập luyện chưa đạt được sự an trú của
tâm vào các pháp môn. Khi được an trú, khi mất nên nội lực chưa đủ, chưa phát
triển, bị hao năng lực nhiều nên mỏi mệt và ngủ mê. Khi tập luyện đã an trú
được thì nội lực có, sẽ khơng hoặc ít bị hao năng lực của bản thân. Vậy thì làm
sao cho khi mới vô tập luyện phải an trú được ngay liền thì nội lực đã khơng
mất mà nó cịn được bồi bổ thêm.


Lại nữa tập luyện càng có tiến bộ nhiều thì chướng ngại – cịn gọi là ác ma – tới
quấy phá, làm mình khơng tập luyện được, làm mình vi phạm giới luật để rồi


thối thất tập luyện. Khi tập luyện thì cần quyết tâm chiến thắng các ác ma
(buồn ngủ, ngủ mê, tâm phóng dật, phá hạnh độc cư,...). Lúc đầu thì có thể nhờ
người giúp để giữ đúng giờ giấc, nhưng phải tập dần dần để quen tự chủ.


Con áp dụng câu tác ý và thực hành với sự tĩnh giác cao trong lúc tập luyện như
vậy là tốt. Nếu không bị căng đầu, căng mặt là hợp với đặc tướng của con, sức
chịu đựng được, đủ khả năng, đủ lực để nhiếp phục tâm, để dẫn nó vào an trú.
Không căng mặt, không kéo dài thời gian tập luyện quá lâu là nhiếp phục. Nếu
căng mặt, nặng đầu là ức chế, là trật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Ngủ gục là hôn trầm. Đang ngồi tập luyện mà buồn ngủ, thiếp gục xuống. Ngủ
gục thì chỉ mới gục xuống là giật mình tỉnh lại. Buồn ngủ, ngủ gục dễ biết nên
khơng bị nó kéo dài.


Khi có tướng trạng buồn ngủ xẩy ra thì đừng ngồi nữa, ngồi tiếp sẽ bị gục tiếp,
gục hoài. Phải đứng dậy đi kinh hành, hay dùng pháp môn khác mà phá cái
buồn ngủ này. Khơng nên ngồi lì.


Làm sao để biết là mình đã phá được buồn ngủ? Đó là lúc ngồi tập luyện các
pháp mơn mà khơng cịn bị thiếp gục xuống, thời tập nào cũng tỉnh táo suốt
toàn thời. Ngày nào, thời nào cũng được vậy thì đó là đã hết bị buồn ngủ, phá
được buồn ngủ, ngủ gục. Nếu còn gục là phá buồn ngủ chưa xong. Nhưng cần
lưu ý khi buồn ngủ hết thì bắt đầu mất ý thức tới. Hãy tĩnh giác mà đề phịng.
Ma chướng khơng đánh chúng ta bằng sự ngồi ngủ mê (thùy miên) mà đưa
chúng ta vào mất ý thức (ngoan không).


Ngồi ngủ mê là ngủ thật, nghẻo cổ ngủ, gục đầu ngủ, gập người ngủ, ngủ say
mê. Trước khi ngủ mê như vậy thì có dạng hơi thở lặng lặng kiểu như ru ngủ.
Hơi thở đi nhè nhẹ vô. Khi thấy hơi thở thay đổi thì coi chừng sắp chìm vào
cơn ngủ mê. Khi đã bị chìm vào cơn ngủ mê rồi thì phải sau ít ra nửa giờ, hay


20 phút mới biết đã bị ngủ mê. Nó lặn vơ lặng im làm mình thấy an ổn, rồi đi
ln với an ổn đó. Đến chừng giật mình thức dậy thì đã qua nửa giờ, 20 phút
rồi. Ngủ ngon lành; ngủ ngon thiệt! Nhưng ít khi bị ngồi ngủ mê, thường bị ngủ
gật nhiều hơn.


Ngồi ngủ mê thì đã bị ngủ rồi mới tỉnh thì đâu có cách nào phá nó; chỉ tập cho
quen để biết tướng trạng báo động bằng hơi thở lặng lặng mà đứng dậy, đi kinh
hành để phá, không được ngồi tiếp. Hay khi thấy hơi thở thay đổi nhẹ nhẹ của
cơn ngủ thì hãy thở mạnh lại để phá nó. Dùng hơi thở thì con ra khỏi trạng thái
ngủ mê liền, cho nên khỏi phải đi kinh hành để phá ngồi ngủ mê. Nếu không
biết đây là ngủ mê thì người ta thường đi kinh hành. Cái gì cũng đi kinh hành là
người không biết phân biệt tướng trạng để dùng cách thức khác nhau mà đối trị.
Người tập luyện sắp bị ngồi ngủ mê có trạng thái báo biết trước khi ngủ. Đó là
hơi thở lặng lặng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

cịn mình ngủ khơng ngáy thì hơi thở nhè nhẹ, chứ không phải giống như lúc
thức.


Nắm vững các trạng thái cùng cách đối trị thì nó khơng đánh được.


Mất chú ý : Bị giật mình là bị mất chú ý tức là bị quên, quên pháp đang tập
luyện. Bị mất chú ý là khi bị thất niệm nó mới vơ được. Mất chú ý là dạng của
thất niệm, quên. Mất chú ý còn bị xem là khơng tĩnh giác.


Trạng thái mất chú ý thì hay giật mình. Khi thấy như thế thì hãy đứng dậy đi
kinh hành, đừng ngồi nữa. Khi giật mình thì tự rõ biết sự mất chú ý tới, mà mất
chú ý thì khơng bao giờ dẹp hết vọng tưởng đâu. Mất chú ý là quên tập trung ý
thức trên đối tượng nên vọng tưởng xẹt vô. Đứng lên đi kinh hành để đừng mất
chú ý nữa. Chú ý bước chân hoặc tác ý liên tục từng hơi thở thì khơng có kẽ hỡ
để mất chú ý xen vơ được.



Mất ý thức là ngồi tỉnh nhưng nó khơng ngơ, khơng biết gì hết, giống như ngủ,
nhưng con thấy con tỉnh. Ngủ thì có dạng khác của sự buồn ngủ, cịn khơng
ngơ là mình ngồi tập luyện mà như nhập định. Đó là mất ý thức.


Mất ý thức thì báo động bằng trạng thái an lạc. Tỉnh và an lắm. Bị vài lần thì
con sẽ nhận ra được sự an lạc của mất ý thức. Khi cịn biết thì thấy nó an lạc
lắm nhưng cái an này nó sẽ đẩy mình vào khơng.


Khi biết được sắp bị mất ý thức thì gồng mình lên cho mất cái an đó. Cái an sẽ
đưa liền tới cái khơng, giờ mình phá cái an đó thì cái không không tới được.
Gồng cho cơ bắp tay chân mất an, cho trở lại trạng thái bình thường, rồi ôm
pháp tập luyện lại.


<b>11.- Giữ Giới – Giữ Tâm Bất Động</b>


Nếu con hiểu được đường lối tập luyện của đức Phật, của Thầy, con tập luyện
và sống cho đúng giới hạnh thì mới vơ thiền định dễ. Bí quyết thiền định
<b>chính là hạnh sống. Nó là Thánh Giới Đức, thuộc về Thánh Hạnh. Sống không</b>
đúng Thánh hạnh thì tập luyện li dục khơng được. Đúng giới mới li dục được.
Cho nên Giới sanh Định là đó. Giữ gìn giới đúng, tu tập đúng pháp thì tâm tự li
dục chứ khơng có cách nào khác mà li được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta biết mục đích giải thốt là Bất Động Tâm, </b>
<b>là Tâm Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Tập luyện để trước các ác pháp, trước </b>
các đối tượng của tâm mà tâm bất động là đúng. Nhưng phải nhớ kĩ không tập
luyện sai để kết quả không sai. Ức chế là vô tưởng, là hỏng. Tập luyện phải
hiểu sức mình ở mức độ như thế nào.


Bất kỳ trạng thái nào xẩy ra cũng phải đừng chấp. Trạng thái thân khinh an, hay


có thần thơng gì gì thì phải dẹp nó đi. Kinh hành mà có cái lực gì đẩy thì thơi
dừng dừng. Các cái đó không phải của Phật đâu. Không đúng đâu. Pháp giải
thoát của Phật là tâm bất động, là tâm thanh thản an lạc vơ sự. Sơ thiền thì li
dục li ác pháp nhưng nó có 5 chi thiền. Cịn Tâm Bất Động là đối trước các ác
pháp, các cảm thọ mà tâm không giao động, thản nhiên, cho nên gọi là Tâm
Thanh Thản An Lạc Vô Sự. Phải nắm vững chỗ này mới biết kết quả tập luyện,
chứ khơng rõ thì coi chừng vơ các trạng thái khơng đúng mà chấp đúng, là sai.
Như có những người tự thấy mình chứng Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ
Thiền. Họ biết gì về bốn Thiền đó mà dám tuyên bố. Khi chưa đủ năng lực để
nhập các Thiền, tức là sức tĩnh giác chưa có, Chánh Niệm chưa xong tức 4
Niệm Xứ chưa hoàn tất, thì làm sao có đủ năng lực nhập định mà họ dám nói
họ nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền... Những người đó thấy có trạng thái an trú, họ
lầm tưởng đó là Sơ Thiền, Nhị Thiền... Nếu đọc được những gì Thầy giảng ra
thì họ bắt chước nói theo. Họ tập luyện chưa chứng mà nói vọng ngữ. Cho nên
Thầy chỉ giảng Thiền Căn Bản ở chỗ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, còn sự
chứng nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, chưa nói tới để tránh
cho họ khỏi vọng ngữ. Họ hay nói theo tưởng để lịe, để họ lừa đảo người khác.
Cái đó nguy hiễm cho cả người nói và người nghe.


<b>12.- Thánh Giới Uẩn</b>


Giới là ranh giới, là phạm vi. Qua khỏi ranh giới là phạm giới. Ở trong ranh
giới của pháp tập luyện thì khơng bị phạm. Giới là như vậy.


Thánh Giới Uẩn là lấy 5 uẩn làm giới để giữ gìn tâm. Nói uẩn thì nói cả 5 uẩn.
Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Uẩn gồm tất cả 5 uẩn này mà Thánh
Giới là cách thức giữ gìn cả 5 uẩn đó. Đó gọi là Thánh Giới Uẩn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

ngoài tiếp xúc với mọi duyên. Còn khi ở trong thất, khi tập luyện các pháp thì
các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi trong khi tập luyện phải giữ gìn sắc giới uẩn


của chúng ta sao để đi, đứng, nằm, ngồi đúng với các pháp. Thí dụ tập luyện
Thân Hành Niệm, 4 Niệm Xứ thì thân phải như thế nào, thì đó là giữ gìn sắc
giới uẩn.


Cho nên người đang tập luyện, mỗi khi cầm muỗng để ăn cơm, hoặc mang bát,
mặc y thì phải giữ gìn, tư duy. Nếu oai nghi nào khơng đúng thì khơng nên làm,
chỉ làm oai nghi nào đúng. Lần lượt trong thất tự rèn luyện thì con sẽ thành tựu
những giới hạnh. Nếu bộ Giới Hạnh Thầy soạn viết xong, con nghiên cứu về
Sắc Giới Uẩn thì mới có thể đầy đủ chứ khơng thể nói trong 10 phút, nửa giờ
mà đủ được giới hạnh, giới hành của Sắc Giới Uẩn này được.


Vậy trong khi chờ có sách, con về thất nhập tu thì tự con sáng ý ra mà tập
luyện. Đến khi Thầy viết xong bộ Giới Hạnh mà đức Phật đã dạy thì lúc đó con
nghiên cứu kĩ để giữ gìn Sắc Giới Uẩn khi ở trong thất cũng như khi đi ra
ngồi. Đó là cách thức tập luyện về Thánh Giới Uẩn. (Năm 2006, Thầy Thông
Lạc đã viết xong tập 1 và 2 trong số 6 tập thuộc bộ Giới Hạnh và đã được Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo cho in dưới tựa “Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống”)
Về thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, ln ln cẩn thận dè dặt giữ gìn như Sắc
Giới Uẩn để không hề bị vi phạm. Khi đau thì khơng nên vì lý do nào để trở
nên như người thế tục, như đi nhà thương, đi bác sĩ, hay giải phẩu. Phải gan dạ
hơn, giữ gìn thọ giới uẩn để đừng làm theo kiểu phàm phu tục tử khi có thọ
thân hay khi có thọ tâm. Khi chúng ta lo lắng sợ hãi, thương ghét, phiền não thì
phải phịng hộ cho kĩ ngũ uẩn của chúng ta.


Thầy nói tổng quát đại ý như vậy, con theo đó mà giữ gìn cho trọn vẹn thì ở
trong thất tập luyện càng ngày càng kết quả. Chừng khi sách dạy về Giới Luật
Tỳ khưu viết xong Thầy sẽ gởi cho con. Con nên ráng học tập rèn luyện trong
những Thánh Hạnh đó, nhất là giới luật về thân giới uẩn của người đang tập
luyện. Giữ cho được trọn vẹn thì sự li dục li ác pháp sẽ thực hiện rất rõ ràng.
Nhờ những Thánh Giới Uẩn đó chúng sẽ giúp cho con rất tĩnh giác trên từng


hành động của thân, của tâm khi có pháp tác động vào. Chúng giúp con bình
tỉnh, rất vững vàng, khơng bị rối loạn, không bị sa ngã hay sợ hãi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

quyền là khơng đúng Thánh Giới Uẩn. Phá buồn ngủ thì phải đi đúng cách của
pháp cùng với các tác ý là đúng.


Chứ có người đã dùng các cách khơng đúng Thánh Giới Uẩn như là lấy kim
chích vào thịt cho đau cho tỉnh ngủ, hoặc cách này cách khác là không giữ
đúng Thánh Giới Uẩn, sai pháp, không đúng cách. Phải áp dụng Thánh Giới,
Thánh Hạnh vào tất cả 5 uẩn cho đúng với pháp tập luyện và cho đúng với đặc
tướng. Vậy mới gọi là giữ gìn Thánh Giới Uẩn.


Khi tập luyện các pháp mơn mà con có những tư tưởng gợi lại tình cảm hay
nhớ lại hình ảnh hành động bất tịnh thì phải mau mau tác ý để phá trừ vì nó là
những điều kiện phạm giới, khơng để chúng lưu lại trong tâm một phút giây
nào. Phải giữ gìn Thánh Giới Uẩn trong từng tâm niệm. Phải dùng tất cả những
phương pháp con đã tập luyện để diệt trừ tâm niệm ác pháp khi chúng vừa xuất
hiện. Diệt chúng càng sớm càng tốt, đừng để kéo dài 5, 3 phút là quá lâu, là vi
phạm giới.


Đối với người đang tập luyện thì phải giữ gìn Thọ Giới Uẩn, phải luôn cẩn
thận, thấy tâm niệm nào phạm giới thì phải phá trừ nó cho tan liền. Xác định
được tâm niệm nào là phạm giới thì phải phá trừ để khỏi bị các hậu quả về sau
làm cho ta bị phạm giới. Đây là căn bản tập luyện Thánh Giới Uẩn.


Thánh Giới Uẩn lúc nào cũng kèm theo Thánh Hộ Trì Các Căn, tức là các căn
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, là những cánh cửa mở tiếp xúc các pháp. Thánh
Phòng Hộ là phịng hộ như Thánh để ác pháp khơng chiếm sáu căn của chúng
ta. Tất cả ba cái: Thánh Giới Uẩn, Thánh Phòng Hộ Các Căn và Thánh Chánh
Niệm Tĩnh Giác lúc nào cũng đi chung nhau, không thể thiếu một Thánh nào


mà đạt thành kết quả được. Hiểu biết Thánh Giới Uẩn thì sẽ Thánh Phịng Hộ;
phịng hộ muốn được thành đạt thì phải tập luyện Thánh Chánh Niệm Tĩnh
Giác. Mà khi có được sự tĩnh giác của bậc Thánh thì phịng hộ các căn như là
một bực Thánh; mà phòng hộ các căn theo bậc Thánh là giữ gìn được Thánh
Giới Uẩn.


Con nhớ khi trở về trú xứ thì phải hoàn toàn sống độc cư mà tập luyện trọn vẹn
cả ba Thánh đức hạnh này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

hạnh đó nhờ pháp hành. Nhưng vì khơng đưa pháp hành nên không ai sống tu
đúng Thánh hạnh được.


Những pháp mà Thầy đã giảng dạy cho con tập luyện đều giúp thực hiện các
Thánh đức hạnh này. Bây giờ con cần phối hợp để hiểu đây là Thánh đức hạnh
nó như vầy như vầy, hằng ngày phải làm như vậy. Muốn làm được như vậy thì
phải sống cho đúng, đừng vi phạm.


Từ đầu Thầy đã dạy 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở và Thân Hành Niệm,
những cái đó giúp cho con sống đúng Thánh hạnh, tâm hoàn toàn li dục li ác
pháp. Sau khi đọc Mười Giới Đức Thánh Sa Di con sẽ biết giới đó là Thánh
hạnh như thế.


Từ lâu nay con biết đức Phật cấm ca hát và nghe ca hát nhưng đâu hiểu giới
đức này để làm gì. Nay mới biết đó là Giới Độc Cư. Một tu sĩ sống độc cư mà
ca hát, nghe ca hát thì đâu cịn sống độc cư; hay gõ mõ tụng kinh thì đâu cịn
trầm lặng.


<b>Mục đích trầm lặng độc cư là để tâm khơng phóng dật. Đó là bí quyết </b>
<b>thành công của thiền định.</b>



Con tu hành mà không thực hiện pháp hành này thì tập luyện chỉ uổng cơng.
Một ông Thánh mà ngồi ca hát thì không phải là ông Thánh rồi. Con có thấy
ông Thánh nào ngồi ca hát khơng?


Đức Phật cấm uống rượu, khơng cho mình uống rượu là muốn cho mình có
Thánh Hạnh Minh Mẫn. Một người minh mẫn thì khơng ham thích loại dục lạc
đó cho nên khơng uống rượu. Trái lại, người đời thì ham thích say mê dục lạc,
lấy rượu làm vui nên người ta gọi là tiên tửu. Thật sự làm gì có tiên tửu. Ở
Trung Hoa có nhà thơ Lý Bạch, mỗi khi uống rượu say thì ơng làm thơ rất hay
cho nên người đời gọi ông là ông tiên. Thật sự ông ta đâu phải là tiên gì, chẳng
qua ơng chỉ là một “tửu thi sĩ”, rượu kích thích ơng làm thơ hay. Ông ta chỉ là
một phàm phu. Tiên có khi nào phạm giới tiên. Tiên cũng có giới luật của tiên
chứ!


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

muốn gì có nấy thì chắc chắn đó khơng phải là cõi tiên, khơng phải là chư Tiên.
Tiên thì phải hết dục, chứ đâu cịn nhiều dục quá vậy?


Vậy khi đã tu tập thì con phải giữ giới luật cho nghiêm chỉnh. Sống tu tập mà
khơng giữ giới thì tập luyện khơng tới đâu hết. Giới là Thánh hạnh. Muốn tập
luyện thiền định là muốn làm Thánh. Chỉ có Thánh mới có chánh thiền định.
Phàm phu làm sao có chánh thiền định là thiền định của bậc Thánh được. Do
vậy muốn đạt được chánh thiền định thì Thánh hạnh phải có. Cho nên giới luật
của nhà Phật ai đụng đến cũng sợ hết, sống khơng đúng giới được. Nhưng mình
muốn làm Thánh thì khơng sợ. Ơm tồn bộ giới đi vào. Vững vàng, chững
chạc, chắc chắn, tự tin.


<b>13.- Cách Ôm Pháp</b>


Nếu trong lúc tập luyện ở giai đoạn đầu này mà có thọ khinh an thì nguy hiểm,
khơng có lợi đâu vì nó thuộc tưởng. Đức Phật khơng chấp nhận 3 loại cảm thọ:


thọ lạc, thọ bất lạc bất khổ, thọ khổ; chỉ chấp nhận pháp mà thôi, tức là sức tĩnh
giác trên niệm thân hành của chúng ta. Nghĩa là niệm thân hành của chúng ta
làm sao thì chúng ta phải tĩnh giác trên niệm thân hành đó là đúng, cịn bất kỳ
cái gì khác tới cũng khơng chấp nhận vì có thể bị sai. Bởi khi chấp nhận nó,
nếu là thọ lạc sẽ sinh ra thích rồi ơm thọ lạc đó trong khi thọ lạc đó là tưởng
thọ, nguy hiểm. Chỉ ơm pháp, biết rõ ràng pháp thôi (đi biết bước chân đi; Định
Niệm Hơi Thở đề mục 1 biết hơi thở vô ra; đề mục 2 hay 3 biết độ dài độ ngắn
của hơi thở; đề mục 4 biết cảm giác tồn thân,...), tức là ơm phao vượt biển; tất
cả các cái khác chỉ là sóng, chỉ là gió. Dù sóng gió có đem tới an lạc cũng đừng
vì vậy, ơm nó mà bỏ pháp. Thọ lạc làm chúng ta thấy an lạc, thích thú nên vừa
vào thấy nó khơng niệm rồi chúng ta cho như vậy là đạt được, rồi ôm cảm thọ
lạc này. Không phải vậy.


Đức Phật nói lấy pháp làm hịn đảo, pháp là chỗ nương tựa. Chúng ta nương
tựa pháp, không nương tựa thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ. Khổ là đau
nhức, mõi mệt, đi không nổi; thọ lạc thì thoải mái thích thú. Cả hai khơng nên
ôm cái nào, chỉ ôm pháp thôi. Hãy nhớ kĩ điều này thì khơng bao giờ tập luyện
mà bị lạc đường lạc lối, xa rời pháp.


Và điều quan trọng nhứt cần lưu ý là khi tập luyện thì phải ôm pháp; khi
<b>không tập luyện, ở trạng thái bình thường thì phải bình thường.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>như cục đất, li tham, li sân, li si ra!”</i>. Thầy thường thường ngồi như vậy mà khi
khởi có một niệm thì khơng để nó dừng ngang hay tác ý cho nó dừng mà suy
tìm niệm đó xem nó có đúng đạo lý khơng, nghĩa là suy xét xem niệm đó có
mang tính chất tham sân si, có mang tính chất thương ghét giận hờn khơng.
Nếu có thì phải lập tức bỏ liền không được để trong tâm giây phút nào (tức xả
tâm). Cứ như vậy mà 6 tháng thì Thầy thành cơng.


Tâm khơng cịn niệm thì đó là tâm hết phóng dật, là thành cơng, khơng cần tập


luyện các pháp kia. Cái này rất quan trọng. Nghĩa là tâm khơng ở pháp nào cho
nên tâm bình thường như mọi người nhưng nó khơng phóng dật (tức nó tự động
khộng khởi bất kỳ niệm nào, đó là tâm xả). Thường tâm ta có hai trạng thái,
một là động, hai là tịnh. Khi có khởi niệm là động. Tịnh là khơng khởi niệm
nhưng vì vậy mà rất dễ ngủ gật, ngồi ngủ mê (hôn trầm, thùy miên).


Bây giờ con an trú trong pháp, khơng phóng niệm phóng dật gì hết, nhưng tâm
cịn “bị pháp”. Nhưng nếu khơng luyện tập giai đoạn này thì giai đoạn quan
trọng vừa nói trên con khơng xả được; vì vậy con phải tập các pháp đó. Giai
đoạn sau cùng lúc tâm bình thường rất khó duy trì (duy trì tâm xả) nếu khơng
tập luyện thật thuần thục các pháp của giai đoạn Tứ Chánh Cần này.


Con ngồi mà suy tìm đạo lý, xem tâm có cơng đức gì, tức thiện pháp, hay tâm
có ác pháp nào tức là có dục, có tham ái. Có ác pháp thì ngăn, thì diệt, mà có
cơng đức thì nhất định khơng nói. Nếu có ác pháp mà đuổi khơng được, nó cứ
trở lui trở tới hồi, khơng chịu đi, là do cịn có kiến chấp gì đó mà con khơng
hiểu biết được thì phải mau mau tìm thiện hữu tri thức, tìm Thầy, để thưa hỏi,
để được dạy cách thức đuổi ác pháp đó đi.


Cho nên cần hiểu nghĩa của câu: có lỗi lầm nào (tức là có ác pháp) thì


phải phát lồ sám hối , tức đuổi mà nó khơng đi là chúng ta có lỗi lầm. Cịn có
<b>cơng đức gì (tức là tập luyện mà thấy thanh thản an lạc vô sự) thìkhơng nói ra </b>
cho ai biết hết, im lặng như Thánh. Đó là điều kiện giữ tâm. Như vậy đó, con
sống bình thường chứ khơng có ơm pháp gì hết. Khi luyện rốt ráo các pháp 4
Chánh Cần rồi thì cũng phải từ pháp tâm bình thường này mà đắc Đạo, diệt tận
lậu hoặc. Cho nên Thầy thường nói ngồi tựa cửa mà nhìn trời là tập luyện cái
đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Nhưng nếu khơng tập luyện các pháp kia, thí dụ như đức Phật khơng qua 6 năm


khổ hạnh mà vào ơm pháp tâm bình thường này tập luyện thì khơng tập luyện
nổi. Nghĩa là ngồi khơng mà ơm pháp thì bị ngủ gật, ngồi ngủ mê nên khơng
đạt kết quả giải thốt được.


Ngồi không mà giữ độc cư, không tiếp duyên ai hết, rất dễ bị ngủ gật, ngủ mê.
Ngồi một hồi là ngủ. Nếu tập luyện các pháp kia cho thật sự thuần thục một
thời gian để phá ngủ gật, ngủ mê cho thật sạch thì ngồi mới tỉnh, ngồi khơng
mới được.


Chín năm trời Thầy tập luyện pháp Tri Vọng lọt trong thiền tưởng rồi Thầy
ngồi mới chịu nổi. Giờ con cịn lơ mơ mà ngồi thì nó vật ngã liền. Cho nên con
phải nỗ lực tập luyện trong những ngày này cho đến lúc đó, lúc đã TỈNH


THỨC, con vô mới chịu nổi. Nghĩa là khi tâm bình thường mà nó bất động,
chứ khi có ơm pháp thì bất động mà khi rời pháp thì nó động là chưa phải thời.
Đó chỉ mới tĩnh giác thôi.


Con phải tập luyện đầy đủ hết các đề mục Định Niệm Hơi Thở, mới qua pháp
này được.


<b>14.- Ba Lần Tuôn Trào Tâm</b>


Khi tâm vào 4 Niệm Xứ thì thấy tâm thanh thản an lạc vơ sự. Sau đó sẽ trải qua
ba giai đoạn tn trào của tâm, tức là những niệm ký ức ẩn chứa trong tâm,
hiện bày trở lại. Có trải qua tn trào tâm thì mới vào được trạng thái kéo dài
thời gian liên tục tâm khơng phóng niệm, khơng phóng dật. Chưa tn trào thì
tâm khơng bao giờ hết phóng niệm phóng dật. Dù con có kềm chế mức độ
mạnh mẽ thì nó chỉ khơng có niệm khi nào ở trong pháp tập luyện chứ xả ra thì
có niệm liền. Cịn trái lại khi tâm tn trào rồi thì bất cứ lúc nào, dù là khi ngồi
thiền hay khi xả ra ngồi chơi tâm cũng vẫn im re, khơng có niệm nào.



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Rồi chừng một tháng sau thì nó lại bắt đầu tn trào lần thứ hai. Lần này nó
kéo dài ít hơn, độ 24 giờ hay 3, 4 ngày thì dứt. Cũng vậy, khi tâm dứt tuôn trào
con thấy yên lặng thoải mái, luyện 4 Niệm Xứ thấy sung mãn, lúc nào tâm cũng
ở trên thân hành, cũng ít buồn ngủ. Đây là lúc si bị phá. Hiện giờ con chỉ mới
phá si ở tầng thơ bên ngồi, chứ gốc si, mà kinh gọi là si tùy miên hãy còn
nguyên vẹn. Chỉ tới lúc này si tùy miên mới bị phá.


<b>Lần thứ ba của tn trào tâm thì nhanh hơn, độ chỉ trong vòng một ngày hay </b>
một đêm, hoặc cả một ngày đêm, 24 giờ thôi. Cũng không buồn ngủ. Thời gian
này thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện đầy đủ dần. Và khi niệm dừng lại, trở
vào, khơng tn trào phóng ra nữa thì cùng lúc toàn bộ năng lực đầy đủ của 7
Giác Chi xuất hiện. Con cảm thấy có thần lực lạ lùng, cơ thể thì nhẹ nhàng, sức
lực nghe tràn đầy. Như con đưa tay ra thì cảm thấy tay nhẹ như bông chứ
không cảm thấy nặng nề như trước. Lúc đó cơ thể rất nhẹ nhàng, rất thanh tịnh.
Khơng thể diễn tả được trạng thái này đâu, khó nói đúng lắm.


Khi như vậy nếu con hướng tâm cái gì thì nó làm theo cái ấy liền. Đến lúc này
con biết là con đủ lực rồi. Đủ lực tức là con có Định Như Ý Túc, thì đi vào 4
Định. Lúc bấy giờ muốn nhập Sơ Thiền thì con chỉ cần hướng tâm thơi.


Lúc đó con nên nhanh chóng về gặp Thầy. Nếu khơng đủ dun về thì con nên
như thế này: Để tâm cho nó tự nhiên muốn làm gì thì làm, cứ giữ tâm thanh
thản thôi. Rồi từ trong 4 Niệm Xứ sung mãn đó con nhẹ nhàng hướng tâm vào
các tầng Định theo các câu pháp hướng như trong kinh dạy thì nó dẫn con vào
Định. Con khơng cần làm gì hết. Các Định nào nó chưa làm được thì bây giờ
nó tự dẫn con vào Định, nó làm theo sự hướng tâm của con. Cho nên kinh nói
nhập 4 Thánh Định: <i>“Khơng khó khăn, khơng mệt nhọc, khơng phí sức”</i>. Tâm
con khơng cịn phàm phu nữa. Nó li dục li ác pháp rồi. Nó bất động. Nó có
hướng đi rõ ràng lắm, vì thế nó khơng đi sai đường. Tâm hồn tồn thanh tịnh,


sạch rồi nên nó dẫn con đi tới chỗ sâu xa, tới ba Minh, tới chỗ chấm dứt luân
hồi.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×