LỜI NÓI ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết định đến sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế,
nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy động tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển do vậy
lượng vốn huy động được bằng con đường tài chính trực tiếp thông qua phát hành
cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của
nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực
hiện thông qua các ngân hàng thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt
Nam hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Do
đó vai trò của Ngân hàng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế là cực kỳ
quan trọng.
Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng. Trong thời gian
học tập tại trường và thời gian thực tập chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến
Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An tôi đã cố gắng nghiên cứu và tìm hiểu kỹ
về công tác huy động vốn và chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp: “Giải pháp tăng
cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành
Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An”
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các phương thức huy động vốn của ngân hàng
thương mại, các nhân tố ảnh hưởng đến các phương thức đó. Thực trạng về công
tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bến Thuỷ (các phương thức huy
động vốn mà ngân hàng áp dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới nó), từ đó đưa ra các
giải pháp và kiến nghị.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được hình thành gồm có 3 chương.
Chương I. Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
Thương mại.
Chương II. Thực trạng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Công
Thương Bến Thuỷ.
Trang 1
Chương III. Giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh Ngân
hàng Công Thương Bến Thuỷ.
Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập còn ngắn với trình độ hiểu biết
còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự
đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và các bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn thầy
GS.TS. Lê Đức Lữ đã tận tình chỉ bảo và các cô chú, anh chị công tác ở phòng kinh
doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán và các cán bộ nhân viên khác trong ngân
hàng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Rất chân thành cảm ơn.
Vinh tháng 5 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Lê Anh Tú
Trang 2
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NHỮNG NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát sinh, phát triển của ngành Ngân hàng được quyết định
bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồng thời cũng còn
những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển của hệ
thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền, điều kiện chiến tranh và tình trạng khủng
hoảng kinh tế, tài chính...
Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất hiện
những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ nhưng chưa
có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một ngân hàng theo đúng chức danh của
nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này đã phải trải qua bao
nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát triển được. Phải chờ cho
đến đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế hàng hoá đã có bước phát
triển, nhất là khu vực Tây âu. Khi đó, một tổ chức được mệnh danh là ngân hàng
được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 1171, tuy về thực chất chỉ là một tổ chức
tài chính được thiết lập để thực hiện sự tài trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung hoạt
động của nó đã bao hàm cả nghiệp vụ ngân hàng.
Cho đến đầu thế kỷ 15, một số tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập, được
xem như những ngân hàng thực thụ như: Ngân hàng Barcelone, Ngân hàng Valenee
của Tây Ban Nha, những tổ chức này đã thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền ký thác,
cấp tín dụng, chuyển ngân và làm các nghiệp vụ thu- chi tiền cho khách hàng với ý
nghĩa là những nghiệp vụ kinh doanh cơ bản.
Sự phát triển của Ngân hàng Thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và đặc
biệt là từ khoảng thế kỷ 17 cho đến nay. Thời kỳ kinh tế hàng hoá phát triển nhanh
Trang 3
chóng, mạnh mẽ, nền thương mại không ngừng mở rộng, các quan hệ hàng hoá- tiền
tệ phát triển bao trùm đời sống kinh tế- xã hội đã tạo ra những tiền đề kinh tế phát
sinh và phát triển nghề Ngân hàng.
Ở Việt nam, trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền
sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp không phân biệt quan
hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước
pháp luật. Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những
tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức
tín dụng. Từ năm 1986, hoà vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất
nước theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại
theo Nghị định 53/HĐBT được tách ra làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nuớc đảm nhận
công tác phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ, còn chức năng kinh doanh
được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại.
Năm 1991, sự ra đời của các Ngân hàng Thương mại cổ phần cùng các Ngân hàng
Thương mại quốc doanh đã góp phần rất lớn vào công cuộc phát triển đất nước.
Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam ban hành vào ngày 12/12/1997 đã định nghĩa
Ngân hàng Thương mại như sau:
“Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là
một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một
doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi
nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại.
Trang 4
So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng
Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá
này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó
chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi
nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu
của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với
thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá
mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán giảm
thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịch vụ
trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại phát triển
mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng và
phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng Thương mại trở thành
một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được
các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi
của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi
cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở
ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên
quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán
bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc
trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và
ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong
nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản
xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng
phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Trang 5
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt năm
thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dụng các dự án mới có quy
mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt
nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân
khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có tài
sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Trang 6
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện
bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo
định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng
không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được
nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh
toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch
thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm đáp
ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ còn
góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập khẩu,...
Trang 7
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển
tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân
hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền
hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ
khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.
- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái
khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu nhập
dưới hình thức hoà hồng phát hành. Ngân hàng có thể tham gia mua bán chứng
khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với tư cách là một trung gian môi
giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
II. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục đích khác
nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để
chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn
và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vốn đóng vai trò chi phối và
quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
Trang 8
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.2.1. Vốn chủ sở hữu :
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng mới
đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc
bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. Vốn điều lệ quy
định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt động của nó. Tuỳ theo loại
hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có thể khác nhau. Vốn điều lệ của
ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân sách nhà nước cấp phát ban đầu nếu là
ngân hàng thương mại quốc doanh, còn nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì sẽ
do các cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ sung hằng
năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật các tổ chức tín
dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc trích lập các quỹ từ lợi
nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5% trên
tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do ngân hàng nhà nước quy định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ ăn
mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng
được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 100% vốn
điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được dùng các
quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành trích lập
các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của đại hội cổ đông hoặc theo chỉ đạo
của nhà nước.
Trang 9
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các phương tiện
cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 50% vốn tự có, để
tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử dụng để hùn vốn liên
doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm một
phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động:
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân hàng
được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Đây là khoản
vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn
tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng:
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi này luôn
luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả
năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những khoản
tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi tiền mà không tôn trọng
một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường xuyên biến động ngân hàng
không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ dựa vào kinh nghiệm quản
lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép. Mục đích của người gửi tiền
là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại như giữ
hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải trả lãi hoặc có trả lãi nhưng với một mức
lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất tượng trưng. Kinh nghiệm trong quản lý ngân
hàng cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của từng khách hàng có biến
động do khách hàng thường xuyên có những khoản thu và những khoản chi, nhưng
trên tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân tương đối ổn định. Vì vậy
Trang 10
ngân hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản
không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ
được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang tính chất
ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách hàng. Ngân hàng
sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi này mà ngân hàng
phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng thương
mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ chức và các
tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu ngân hàng, nhưng phải
được ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành rộng rãi.
Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực tiếp cho ngân hàng vay với lãi suất cố
định thông báo trước. Các tờ giấy nhận nợ này sẽ được ngân hàng thanh toán khi tới
hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể vay ở ngân
hàng nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu
chứng từ có giá. Vay của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác
thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay
ở ngân hàng nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân hàng
thương mại đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và với trách
nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Do
vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân hàng nhận được trước đó
trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa là ngân hàng thiếu tiền trả cho khách
hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng.
Trang 11
Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi có khách
hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì
ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên, với những khoản vay với số lượng lớn, thời gian
dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số tiền mình có để đầu tư cho dự án
này (vì rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy
ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát hành trái phiếu nhằm thu gom tiền trong nền
kinh tế để phục vụ cho dự án. Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà
dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay.
Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các ngân hàng,
nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông. Để tăng lượng
tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền gửi
ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một ngân hàng tăng lãi suất tiền
gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác cũng sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm
chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay đổi không đáng kể. Do vậy khi
thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà ngân hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ
thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động không đồng đều giữa các ngân
hàng về huy động vốn và sử dụng vốn nên những ngân hàng thiếu vốn có thể vay
vốn ở những ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết. Mặt khác khi ngân hàng dự
đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương lai mà nguồn vốn thì có xu
hướng tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong thời kỳ tới thì ngân hàng
cũng sẽ đi vay.
- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.
Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó
lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ
có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu nhắn hạn trả lãi trước
nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Trang 12
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của tổng
công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh ngân hàng
trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất hiệu quả hiện nay
là chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã hội của các vùng hoạt
động của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi nhánh ngân hàng mà hoạt
động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên ngân
hàng mẹ và xin được nhận một lượng vốn điều hào cần thiết cho hoạt động sử dụng
vốn của mình. Những ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử
dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về ngân hàng
mẹ để được hưởng một lãi suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm
điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân hàng trong nền
kinh tế. Chi phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động
nhưng tại sao các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã lập kế hoạch
về lượng vốn huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó với ngân hàng
mẹ. Đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp dụng nhiều trên thế
giới hiện nay.
1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư.
Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong cơ cấu
vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Khoản vốn này
hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính nước ngoài, trong nước uỷ
thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng thực hiện cho vay các dự án của
mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ được uỷ thác.
Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động là
nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng
thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động tối đa không vượt quá
hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải chấp hành tốt các quy định về
tỷ lệ dự trữ...
Trang 13
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến hành cần
phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ
nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt động tìm kiếm tư liệu
sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy động vốn. Như vậy, huy động
vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vì vốn phản
ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay
của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau khi
đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh
hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân hàng nào có
khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh trong kinh doanh.
Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng,
hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh toán của các
ngân hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn
có những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho
vay của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các ngân hàng lớn hoạt động
trên phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ
yếu trong một khu vực nhỏ, trong nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi
dào thì ngân hàng có thể mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được
nhu cầu về vốn của khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư...
Ví dụ như :
- Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.
Trang 14
- Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có.
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có.
Bên cạnhvốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn định
của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc hoạch định
việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương đối chính xác
lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong tương lai khá chính
xác.
Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ hoàn
toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán...
Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, ngân hàng sẽ phụ thuộc
hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số lượng vay và chi phí vay cao.
Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Ngược lại, ngân hàng có
lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của
mình, không phụ thuộc vào ai, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy
động lớn cũng làm tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng
hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập, đạt mục tiêu
cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lợi.
Thứ tư : Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín
của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều quan trọng.
Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng càng lớn. Mặt khác,
uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng
(ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân hàng có
nguồn vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Với tiềm năng vốn và khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh
Trang 15
doanh với quy mô ngày càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa giữ chữ
tín vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
Bên cạnh đó, một trong những công cụ lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy tín
trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ chừng nào thì
càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng từng nấy. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn
thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế - xã hội và
tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân
hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế cả về quy
mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm chí trong khi quyết định
lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng
đến với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên trong tương lai
và ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của ngân hàng
lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng trên thị
trường không chỉ cho vay mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh, liên kết,
thực hiện dịch vụ thuê mua... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp phần phân
tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng, đặc biệt là
tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu (Thường chiếm tỷ trọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn) các ngân hàng phải chú trọng tới việc tăng trưởng
nguồn vốn nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn.
III. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan
trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mô lớn.
Trong vòng ba thập niên từ sau cuộc đại suy thoái 1930, hầu hết các Ngân hàng
thương mại trên thế giới đều quan tâm nhiều nhất tới việc quản lý tài sản có, hay nói
Trang 16
khác đi là kế hoạch và phương hướng đầu tư các nguồn đã có. Tuy nhiên, từ thập
niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài sản nợ
trở nên đa dạng và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các Ngân hàng thương mại với nhau
trong việc tìm kiếm vốn hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng chú ý đến sự
giao động của tài sản nợ. Vả lại từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển nhanh của
các thị trường tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định
và thanh khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển. Cho
nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là làm thế nào có đủ vốn cho
đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ thống ngân hàng thế giới.
1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại.
Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế,
các nhân,...trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán hộ, các
khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tuỳ thuộc vào các tiêu
thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn.
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có
thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược
dự trữ phù hợp.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, người
gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi không kỳ hạn là
một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo
về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Hình thức này chủ
yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì, các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng
mục đích chính không phải để nhận lãi mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp; đó là các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu chi hộ,...
Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của những
khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực sự an tâm về
Trang 17
việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào đó với lượng tiền
hiện còn nhành rỗi.
Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần
trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và ngân hàng
muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do vậy,
quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong các
ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và
ngân hàng về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự xác định rõ
ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự ổn định cao, ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một
phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý do này mà lãi suất của
các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi
vì mục đích chính của việc gửi tiền vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi
suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và
ngược lại.
1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành.
- Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ trực tiếp
chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền bán
hàng,... Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được ngân hàng
tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích và kỳ hạn khác
nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi, các doanh nghiệp
thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân hàng
cho khách hàng vay tiền thì ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay lập
tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với thời hạn rất ngắn.
Trang 18
1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục đích là
tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm có khối
lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối tượng giảm
chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu trong tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát
triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. Người gửi
để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản tiết kiệm đều đặn
hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định. Đây là hình thức
huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính ổn định, đồng thời có tác dụng
tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà cửa, phương tiện.
- Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu nhập mà là
hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có
khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa sử dụng thì ngân hàng
có thể sử dụng vào kinh doanh.
1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi.
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó phụ
thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng tiền gửi.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới
dạng ngoại tệ như USD, GBP,DEM,... những khoản ngoại tệ này cũng rất quan
trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất
nhập khẩu, thanh toán quốc tê,...
2. Chứng thư tiền gửi loại lớn.
Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra để vay
tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này:
Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo hợp
đồng với ngân hàng, ngân hàng phát lại chứng thư này cho họ. Hoặc ngân hàng có
thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu tư hoặc muốn gửi
Trang 19
tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, họ có thể nhận loại
chứng thư này. Nhưng chứng thư loại này không có những đơn vị quá nhỏ bằng tiền
mặt.
- Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay tiền của
thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay này. Đồng thời
trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1 năm,...) và lãi suất
người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng, người sở hữu chứng thư
đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại cả vốn theo giá trị bề mặt và
tiền lời.
- Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn không
qúa 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được sử dụng,
chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất mà Séc và tiền
mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất
đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình.
Tuy nhiên, khả năng vay vốn từ thị trường thông qua việc phát hành chứng thư
tiền gửi hay tín phiếu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố: Mức độ chấp nhận của nhân dân đối
với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông- Sự khuyến khích hay không
của Ngân hàng Trung ương- Hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn đã vay được- Sự
phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ.
3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung Ương.
Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá nhiều, sự
thiếu hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối với các ngân
hàng thương mại. Trong khi có một số ngân hàng thương mại thiếu dự trữ, thì nó
cũng có một vài bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của
Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại điện thoại hoặc liên lạc bằng
Computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay
được tiến hành qua Fax hoặc điện tín.
Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng thương
mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ
Trang 20
này thường rất ngắn không quá một tuần, và thường là chỉ một hay hai ngày vì mọi
ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài thời gian gây khó khăn cho
ngân hàng có thiện chí giúp mình.
4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại.
Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng thương
mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những thượng vụ
đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là chuyện không
có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài những biện pháp nêu trên, trong
những trường hợp cấp thiết, ngân hàng thương mại có thể vay của thị trường trong
vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành hợp đồng mua lại.
Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh doanh
chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty tài chính, tổ
chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh và môi giới chứng
khoán.
Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là chứng khoán mà ngân hàng đang đầu tư.
Không phải là phiếu nợ do nó phát hành như các trường hợp vừa rồi. Những loại
chứng khoán mà ngân hàng thường đầu tư nhất và có thể đem bán theo loại hợp
đồng này là trái phiếu Kho bạc- hối phiếu Kho bạc- cổ phiếu Kho bạc và một số loại
trái phiếu, cổ phiếu khác của thị trường.
Hợp đồng mua lại có những đặc điểm sau:
- Hợp đồng thuyết minh rõ ràng, ngân hàng chỉ bán ra trong một ngày, hai ngày
hay một tuần, hai tuần. Sau đó, ngân hàng được phép mua lại chính các loại chứng
khoán mà nó đã bán ra với giá đúng bằng giá gốc cộng thêm chi phí giao dịch. Đó là
lý do người ta gọi đây là thoả thuận hoặc hợp đồng mua lại. Người đã mua chứng
khoán của ngân hàng, chỉ được bán lại cho chính ngân hàng này vào một thời gian
ngắn sau đó. Không được phép bán cho ai khác.
- Do đó, đây là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho ngân
hàng thương mại. Thời gian bán tối đa không quá 2 tuần( ở các nước công nghiệp
hiện nay).
Trang 21
- Khi ngân hàng bán chứng khoán ra theo loại hợp đồng này nó thu tiền mặt về
lượng tiền mặt này xuất hiện như một khoản vay ngắn hạn từ thị trường vì lượng
chứng khoán xuất ra vẫn được xem như một bộ phận tài sản có mà ngân hàng sẽ thu
hồi. Khoản vay ngắn hạn này là một bộ phận của tài sản nợ.
- Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay. Ngân hàng phát ra chứng khoán là
chủ thể đi vay. Ngân hàng không bao giờ áp dụng hình thức bán này cho nhân dân.
Bởi lẽ bán ra cho nhân dân dưới hình thức như phát hành lẻ và sau này mua lại sẽ
tốn rất nhiều thời gian và hiệu quả rất chậm không giải quyết những nhu cầu tiền
mặt gấp trong ngắn hạn. Hầu như phương thức này chỉ áp dụng cho các đại lý lớn
mà thôi.
- Chi phí giao dịch mà ngân hàng sẽ trả cho đại lý chính là tiền lãi từ thương vụ
cho vay này đứng về phía người mua là các đại lý. Thông thường giá bán và giá mua
lại(gồm cả lãi) đã được thống nhất sắn trong hợp đồng với những khoảng thời gian
đã định trược. Ở các nước có thị trường tài chính phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Pháp, Đức, Anh, ý,... Các ngân hàng thương mại vay nợ dưới hình thức này gần như
mỗi tuần trong tài sản nợ của họ luôn luôn có khoản mục vay ngắn hạn thông qua
hợp đồng mua lại, nằm trong khoản vay ngắn hạn từ thị trường.
5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ.
Đây là khoản mục cuối cùng trong các khoản vay từ thị trường và cũng là loại tài
sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng, với lãi suất khá cao và thời gian
từ ngắn đến rất ngắn, mỗi khi quá kẹt tiền mặt bằng những thoả thuận với các thân
chủ giàu có vẫn quan hệ thường xuyên với ngân hàng như các công ty, các tập đoàn
kinh doanh, các đại lý tài chính khác,...Hình thức vay này được thực hiện thông qua
một hợp đồng trong đó thuyết minh rõ người cho vay chấp nhận rõ khoản tiền mà
họ cho vay sẽ là loại tài sản nợ được đền bù sau chót trong trường hợp ngân hàng vỡ
nợ. Vì sao có thoả thuận này! vì họ đã được lãi suất cao hơn bất kỳ một khoản vay
nào khác.
Chứng thư mà ngân hàng giao cho họ khi vay là một loại giấy nợ của ngân hàng
(Bank debentures). Ở Hoa Kỳ, nó có một tên gọi rộng là giấy nợ phụ (subordinated
Trang 22
debentures). Những khoản vay này khá phổ biến ở Mỹ, và một thời kỳ ở Nhật và
Hàn Quốc.
6. Vay của Ngân hàng Trung Ương.
Các ngân hàng thương mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của Ngân
hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại Ngân hàng Trung ương
trong những tình huống thiếu hụt dự trữ.
Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc Ngân
hàng Trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng, hoặc thậm chí
nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được
đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương.
Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống thật
ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh.
Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba lần,
dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương vẫn là một khoản
mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào mà chưa hề vay
của Ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập.
7. Các khoản vay từ công ty mẹ.
Một hình thức vay vốn khác ngoài các hình thức trên là vốn vay từ công ty mẹ
(parent company). Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập đoàn kinh
doanh có thể là chủ của một đến rất nhiều ngân hàng thương mại. Thay vì ngân hàng
phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị trường bằng các hình thức kể
trên, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc của Ngân hàng Trung ương về dự
trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ của ngân hàng có thể thay thế nó làm
chuyện đó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc các loại
thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động được về cho ngân hàng hoạt động.
Mỗi khi Ngân hàng Trung ương ràng buộc họ quá nhiều điều kiện không thể phát
hành trái phiếu được như ý muốn. Hoặc nếu phát hành được cũng sẽ phải trả chi phí
rất cao. Vậy nên giao cho các công ty mẹ phát hành là cách trốn thoát của họ để đạt
những muc đích ấy. Lý do này giải thích vì sao hầu như ở tất cả các nước phát triển,
Trang 23
các ngân hàng thương mại luôn luôn là con đẻ của một công ty kinh doanh, công ty
tài chính hoặc ít nhất là có quan hệ mật thiết với các đối tượng trên.
Trên đây là các hình thức huy động vốn thường thấy của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên đối với mỗi ngân hàng khác nhau, ở các nước khác nhau và trong các giai
đoạn khác nhau thì có thể có các phương thức huy động khác.
IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NHTM
1. Các nhân tố bên ngoài
1.1: Chu kỳ phát triển kinh tế
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến
mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến hoạt động huy
động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư được đảm
bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy
động được của ngân hàng ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của ngân
hàng cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu nền
kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân chúng
bị giảm sút. Khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng không những bị giảm
xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào ngân hàng cũng có nguy cơ bị rút ra. Và
như vậy ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và
củng cố niềm tin cho khách hàng.
1.2: Môi trường luật pháp
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự
điều chỉnh của luật pháp. Các hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự điều
chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà
nước. Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng thương mại được tổ chức theo
mô hình tổng công ty, do vậy các chi nhánh ngân hàng trong hoạt động của mình
ngoài việc phải tuân thủ theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban
hành còn phải tuân thủ theo các quy định mà ngân hàng mẹ ban hành trong từng thời
Trang 24
kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho vay....Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu
tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của
hoạt động huy động vốn.
1.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh
Khi định ra chiến lược phát triển cho ngân hàng rõ ràng cần phải tính đến điều
kiện về môi trường kinh doanh. Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển,
ngân hàng cần phải định ra chiến lược kinh doanh phù hợp để có thể thắng trong
cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong quá trình cạnh tranh với đối thủ, ngân hàng
buộc phải cải tiến và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp
lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm tốt công tác marketing. Ngân hàng phải bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể làm tốt công việc của mình. Như vậy, cạnh tranh
vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt động
ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn.
1.4. Yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội, tâm lý khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng và
những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển, khách
hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của họ.
Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. Ở khoản
mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và tâm lý
của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà ngân hàng có
thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào
của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm
ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng
tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại
lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng là mức
độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử dụng càng
cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
Trang 25