trờng đại học vinh
khoa giáo dục tiểu học
------------------
đào thị thuỷ
thực trạng nhận thức của sinh viên
ngành giáo dục tiểu học - tr ờng đại
học vinh
về luật giáo dục
khóa luận tốt nghiệp đại học
ơ
ngành giáo dục tiểu học
Vinh, 05/2010
MỤC LỤC
Trang
10. Tờ trình của chính phủ Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Giáo dục, web: duthaoonline.quochoi.vn........55
2
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới tồn diện đất nước do Đảng Cơ ̣ng sản Việt Nam lãnh
đạo đã trải qua hơn 20 năm kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986) của Đảng. Trong quá trình xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển
Giáo dục và Đào tạo, Hô ̣i nghi ̣ lầ n thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) tiế p tu ̣c khẳng định: “Giáo du ̣c và Đào
ta ̣o là quốc sách hàng đầu”.[1].
Như vậy, Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo
thế hệ trẻ thành con người phát triển toàn diện, có đức có tài, có kiến thức
văn hố, khoa học kỹ thuật, có kỹ năng nghề nghiệp, giàu lịng nhân ái,
có khả năng sáng tạo trong lao động. Phát triển Giáo dục và đào tạo
không chỉ là nhiệm vu ̣ của ngành Giáo dục mà còn là nhiệm vụ của toàn
Đảng, Nhà nước, của các cấp các ngành, của đoàn thể, của mỗi người
Việt Nam và là sự nghiệp của tồn dân. Vì phát triển và đổi mới Giáo dục
và Đào tạo là một trong những nội dung quan trọng trong tiến trình đổi
mới tồn diện đất nước.
Để phát triển sự nghiệp Giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
về Giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Ngày 2/12/1998, Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Giáo dục. Để hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục, ngày 30/08/2000, Chính phủ
ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục,
bao gồm những quy định về chương trình giáo dục, sách giáo khoa và
giáo trình, thi và cấp văn bằng; về mạng lưới tổ chức, hoạt động, cơ sở
3
vật chất của nhà trường và các cơ sở Giáo dục khác; về tuyển dụng, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm, thỉnh giảng và khen thưởng đối với nhà giáo;
về chính sách đối với người học; và về các điều kiện tài chính của hệ
thống Giáo dục quốc dân.
Sau 7 năm thực hiện, Luật Giáo dục (1998) đã bộc lộ những ưu điểm và
hạn chế của mình. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những ưu điểm của
Luật Giáo dục 1998, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khoá XI, kỳ họp thứ 7, từ ngày 05/05 đến ngày 14/06/2005, đã họp
và thông qua Luật Giáo dục 2005, Luật này kế thừa, sửa đổi, bổ sung và
thay thế cho Luật Giáo dục 1998, với 9 chương và 120 điều, có hiệu lực
kể từ ngày 01/01/2006.
Tuy nhiên, đất nước ngày càng đổi mới thì cơng cuộc cải cách hành
chính, cải cách giáo dục cũng được đổi mới và kéo theo đó là những đổi
mới về Luật Giáo dục. Từ khi Luật Giáo dục được ban hành đến nay cũng
đã có những đổi mới nhất định nhằm đáp ứng và phù hợp với yêu cầu của
thời đại. Tính đến tháng 10/2009, Luật Giáo dục sửa đổi 2005 vừa tròn 3
năm 10 tháng, trong báo cáo tổng kết 3 năm thi hành Luật Giáo dục
(2006-2008) cho biết: “Xét trong cả ba năm (2006-2008) công tác soạn
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là ban hành văn bản
theo kế hoạch, chưa đáp ứng được yêu cầu đã đề ra, số lượng văn bản đạt
rất thấp; nhiều văn bản thuộc thẩm quyền cấp trên và nhiều văn bản thuộc
thẩm quyền của Bộ trưởng chưa được ban hành, gây khó khăn lớn trong
cơng tác chỉ đạo điều hành, khơng đáp ứng được u cầu địi hỏi cấp thiết
của tình hình thực tiễn, làm chậm quá trình đưa quy định của Luật giáo
dục vào cuộc sống và làm giảm uy tín của Bộ trong cơng tác này”; “Số
lượng văn bản theo kế hoạch soạn thảo quá lớn so với khả năng thực hiện,
trong khi đó nhiều văn bản đã được ban hành ngồi kế hoạch…”.[2].
Trên cở sở đó, ngày 25/11/2009, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố XII, kỳ họp thứ 6, đã thơng qua Luật Sửa đổi, bổ
4
sung một số điều của Luật Giáo dục nhằm hướng dẫn những cán bộ công
chức trong ngành nắm được những quy định để thực hiện tốt vai trị của
mình và cũng là để phù hợp với thực tiễn. Cùng với yêu cầu đó, với nhà
giáo nói chung và giáo viên tiểu học nói riêng cần phải có những hiểu
biết về pháp luật nói chung và Luật giáo dục cũng như Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Giáo dục nói riêng để nắm bắt được những
thơng tin thiết thực nhất phục vụ cho q trình cơng tác của mình.
Xuất phát từ thực tiễn cần thiết đó tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực
trạng nhận thức của sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học, Trường Đại
học Vinh về Luật Giáo dục” nhằm trang bị thêm kiến thức về Luật Giáo
dục và nâng cao hiểu biết của bản thân – là một giáo viên tương lai, cũng
như người học và các đồng nghiệp trong ngành Giáo dục.
2.
Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu những điểm mới và khảo sát nhận thức của sinh ngành
giáo dục tiểu học, trường Đại học Vinh về Luật Giáo dục.
3.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Luật Giáo dục Việt Nam
- Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của sinh viên ngành giáo dục
tiểu học, trường Đại học Vinh về Luật Giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao được hiểu biết cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học
trường Đại học Vinh nếu như thăm dò được khả năng nhận thức về Luật
Giáo dục của họ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về sự ra đời của Luật giáo dục.
- Tìm hiểu nội dung của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục.
- Khảo sát nhận thức của sinh viên ngành Giáo dục tiểu học, trường
Đại học Vinh về Luật Giáo dục
5
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc, nghiên cứu, tổng kết
những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu và thăm dị nhận thức
của sinh viên về Luật Giáo dục
- Phương pháp tốn học: tính các trị số trung bình, phương sai và độ
lệch chuẩn để tìm hiểu mức độ tập trung hiểu biết của sinh viên.
7. Bố cục của khoá luận
A- Mở đầu
B- Nội dung chính
Chương 1: Q trình xây dựng và ban hành của Luật Giáo dục
Việt Nam
Chương 2: Nhận thức của sinh viên ngành Giáo dục tiểu học,
Trường Đại học Vinh về Luật Giáo dục
C- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
6
B- NỘI DUNG
Chương 1
Quá trình xây dựng và ban hành
Luật Giáo dục Việt Nam
1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Luật Giáo dục Việt Nam đã được ban hành năm 1998 là cơ sở pháp lý
đầu tiên thống nhất quan điểm chỉ đạo về quản lý, dạy và học, từng bước
đưa toàn ngành giáo dục đi vào quy mơ. Tính đến năm 2005, Luật Giáo
dục đã được ban hành 7 năm và cũng đã đạt được những thành quả nhất
định. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn khách quan, với sự phát triển
của đất nước, Luật cũng cần phải sửa đổi cho phù hợp đi theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghia xã hội. Cũng
từ đó, sau 3 năm sửa đổi và ban hành, Luật Giáo dục Việt Nam cũng đã
thể hiện được những ưu điểm và hạn chế của mình. Trên cơ sở những đòi
hỏi khách quan của xã hội, cuối năm 2009, Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã họp và thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Giáo dục nhằm từng bước kiện toàn hơn nữa trong toàn
ngành giáo dục. Tuy sau hơn 10 năm ban hành và sửa đổi, Luật đã có
những bước tiến quan trong nhưng vẫn chưa có một cá nhân hay cơ quan,
tổ chức nào tìm hiểu và quan tâm đến Luật một cách đầy đủ, để trau dồi
kiến thức, tạo cơ sở pháp lý trong q trình cơng tác, cũng như chưa có tổ
chức hay cá nhân nào nghiên cứu những nhận thức về Luật Giáo dục.
Chính vì vậy, trong phạm vi hạn chế của mình, tơi mạnh dạn chọn đề tài
này với mong muốn sẽ tìm hiểu được quá trình nhận thức về Luật Giáo
dục cụ thể của sinh viên và sinh viên ngành Giáo dục tiểu học, trường Đại
học Vinh nói riêng để có thể tìm ra nguyên nhân của thực trạng này.
7
1.2. Một số khái niệm cơ bản
Có một số ý kiến khác nhau khi đưa ra khái niệm về Luật, Giáo dục
và Luật Giáo dục nhưng nhìn chung được hiểu như sau:
- Luật: (nói chung) là những qui phạm do Nhà nước ban hành mà
mọi người phải tuân theo và chấp hành,nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội ,đảm bảo các quyền con người và quyền công dân, bảo đảm trật tự xã
hội và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, ở mỗi phương diện, Luật lại được hiểu theo những khía
cạnh khác nhau:
1. Trong khoa học tự nhiên - đó là những phát biểu mô tả lại những
mối tương quan đều đặn, sảy ra thường xun, có tính hiển nhiên giữa
các hiện tượng tự nhiên.
2. Trong logic và toán học - đó là bản chất của những ý nghĩ , tư duy
dựa trên lý trí.
3. Trong kinh tế học và tâm lý học - đó là sự mơ tả bản chất của các
hành động, ứng xử và sự tác động tương tác của con người.
4. Trong xã hội con người - luật là những câu từ, thể chế để qui định
các cư xử và sự trừng phạt các lỗi lầm của con người.
Trong chính trị và pháp luật: luật lệ là các nguyên tắc đạo đức cho
phép và/hoặc cấm đoán những mối quan hệ giữa người với người hay
giữa các tổ chức, cũng như việc trừng phạt những người vi phạm các
nguyên
tắc
đạo
đức.
Trong đạo đức học và triết học đạo đức, những luật lệ này được gọi là
luật pháp của con người để phân biệt giữa các điều luật khác được dùng
cho tất cả các vật thể sống. Cơ sở của những luật này có thể là những
nguyên tắc đạo đức bị bắt buộc một cách hợp pháp hoặc những tiêu chuẩn
đạo đức có từ ngàn đời (thuần phong mỹ tục). [www.hn-ams.org]
- Giáo dục: là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích
khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người
8
dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân
cách cả thầy và trị bằng những tác động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng
các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài người đương đại.
- Luật Giáo dục: là văn bản có tính pháp lý do nhà nước ban hành
quy định đến các vấn đề có liên quan đến giáo dục tạo cơ sở cho hệ thống
giáo dục và quản lý giáo dục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
2. Sự cần thiết phải ban hành Luật Giáo dục
2.1. Yêu cầu khách quan
Ngày nay, cục diện thế giới có nhiều thay đổi, cách mạng khoa học và
cơng nghệ liên tục phát triển với trình độ cao thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội,
cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ diễn ra gay gắt.
Cộng đồng quốc tế phải cùng nhau hợp tác những vấn đề có tính tồn cầu
cần được giải quyết mà không một quốc gia riêng lẻ nào tự có thể giải
quyết được. Hơn nữa, xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và cạnh tranh gay
gắt trong khu vực và trên toàn thế giới đã trở thành thách thức đối với
việc đào tạo nguồn nhân lực ở từng quốc gia.
Bên cạnh đó, khoa học cơng nghệ có những bước phát triển nhảy vọt,
công cuộc cải cách giáo dục đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu, địi hỏi
giáo dục phải tạo ra những con người có phẩm chất mới phù hợp với cuộc
sống xã hội hiện đại: toàn diện về trí thức, năng động, sáng tạo, có khả
năng thích ứng với mọi thay đổi của xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
đã có những chủ chương, đường lối, quan điểm chỉ đạo và chính sách
đúng đắn nhằm chỉ đạo và quy định việc đào tạo, giáo dục con người
cũng như quy định về mọi mặt như quyền và nghĩa vụ của con người hay
cở sở vật chất ở các cấp học, ngành học.
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII (tháng 6/1996)
đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
9
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”.[3]. Có như vậy, mới góp phần
đào tạo ra lớp người lao động phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước và hội nhập quốc tế ở những năm đầu thế kỷ XXI. Do đó, việc ban
hành Luật giáo dục ở tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam ta nói
riêng là hết sức cần thiết.
2.2. Yêu cầu chủ quan
Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hồi
kinh tế và xây dựng đất nước, đất nước ngày càng có những bước phát
triển mới, điều đó đòi hỏi cả xã hội phải quan tâm đến những vấn đề bức
xúc và có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển của đất nước.
Nhân ngày khai trường đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư
gửi học sinh, kêu gọi học sinh học tập: “sau 80 năm nô lệ làm cho nước
nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã
để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp được các nước khác
trên toàn cầu…”.[237, 4]. Hưởng ứng lời kêu gọi đó tồn ngành giáo dục
đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp dạy, học, quản lý và những vấn đề có
liên quan đến giáo dục đã tạo được những bước chuyển biến mới.
Lịch sử phát triển giáo dục của đất nước tuy đã trải qua nhiều thời
gian thử thách và cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng vẫn
cần phải có sự thống nhất về đường lối và quan điểm chỉ đạo để tạo cơ sở
pháp lý cho tất cả các cấp và ban ngành có liên quan thực hiện xây dựng
và phát triển nền giáo dục nước nhà trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố.
Ta ln biết rằng: một con thuyền bao giờ cũng phải có lái thì mới
có thể đi được đến đích mình muốn; nền giáo dục nước nhà cũng như
vậy, muốn thực hiện tốt tất cả các mặt từ khâu dạy và học, quản lý đến
giám sát đạt hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo tập trung, điều đó cần
phải được thể hiện bằng những văn bản pháp quy và có hiệu lực pháp lý.
Cũng vì nhận thức được quan điểm con người chính là một nguồn lực vô
10
tận nên vấn đề “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã được đặt
ra. Trên cơ sở đó, Chính phủ nước Việt Nam chính thức ra quyết định
họp Quốc Hội và thông qua luật Giáo dục số 11/1998/QH10 vào ngày
02/12/1998 quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở
giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính
nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân;
tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.[5].
3. Sự phát triển của Luật Giáo dục từ năm 1998-2005
3.1. Luật Giáo dục 1998
3.1.1 Bố cục
Như vậy, sau hơn 20 năm đất nước thống nhất, non sơng quy về
một mối, chúng ta đã có cơ hội quan tâm đến sự phát triển giáo dục của
nước nhà. Một bộ luật về Giáo dục đầu tiên được ra đời, trên cơ sở thống
nhất quan điểm chỉ đạo về các cấp quản lí, lãnh đạo, các cấp học, ngành
học. Thơng qua Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Luật Giáo dục 1998 ra đời với 9 chương và 110 điều:
Chương I: Những quy định chung (17 điều)
Quy định về: + Phạm vi điều chỉnh
+ Mục tiêu giáo dục
+ Tính chất, nguyên lý giáo dục
+ Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục
+ Ngôn ngữ dùng trong nhà trường
+ Hệ thống giáo dục quốc dân
+ Văn bằng,chứng chỉ
+ Phát triển giáo dục
+ Quyền và nghĩa vụ học tập của công dân
+ Phổ cập giáo dục
+ Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục
+ Đầu tư cho giáo dục
11
+ Quản lý nhà nước về giáo dục
+ Vai trò của nhà giáo
+ Nghiên cứu khoa học
+ Không truyền bá tôn giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác
+ Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục.
Chương II: Hệ thống Giáo dục quốc dân (5 mục,26 điều)
Quy định về: + Giáo dục mầm non
+ Giáo dục phổ thông
+ Giáo dục nghề nghiệp
+ Giáo dục đại học và sao đại học
+ Phương thức giáo dục khơng chính quy
Chương III: Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác (4 mục, 17
điều)
Quy định về: + Tổ chức, hoạt động của nhà trường
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của nhà trường
+ Các loại trường chuyên biệt
+ Tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục
Chương IV: Nhà giáo (3 mục, 12 điều)
Quy định về: + Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà giáo
+ Đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo
+ Chính sách đối với nhà giáo
Chương V: Người học (2 mục, 8 điều)
Quy định về: + Nhiệm vụ và quyền của người học
+ Chính sách đối với người học
Chương VI: Nhà trường, gia đình và xã hội (5 điều)
Quy định về: + Trách nhiệm của nhà trường
+ Trách nhiệm của gia đình
+ Quyền của cha mẹ hoặc người dám hộ của học sinh
+ Trách nhiệm của xã hội
12
+ Quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục
Chương VII: Quản ký nhà nước về giáo dục (4 mục, 18 điều)
Quy định về: + Nội dung quản lý nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước
về
giáo dục.
+ Đầu tư cho giáo dục
+ Quan hệ quốc tế về giáo dục
+ Thanh tra giáo dục
Chương VIII: Khen thưởng và sử lý vi phạm (5 điều)
Quy định về:
+ Phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú
+ Khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân có thành tích về giáo dục
+ Khen thưởng đối với người học
+ Phong tặng danh hiệu tiến sĩ danh dự
+ Xử lí vi phạm
Chương IX: Điều khoản thi hành (2 điều)
Quy định về:
+ Hiệu lực thi hành
+ Hướng dẫn thi hành
3.1.2. Đối với bậc Giáo dục tiểu học
Luật Giáo dục quy định:
- Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ sáu đến
mười bốn tuổi; được thực hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp
năm. Tuổi của học sinh vào lớp một là sáu tuổi.
- Mục tiêu của Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở.
- Về nội dung và phương pháp, giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho
học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người;
có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính tốn; có thói quen rèn
13
luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm
nhạc, mỹ thuật.
Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lai niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh.
- Về sách giáo khoa, do Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức biên soạn và
duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo
khoa để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập
ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác. Nhà nước quản lý việc, in và
phát hành sách giáo khoa.
- Về văn bằng, học sinh học hết chương trình tiểu học có đủ điều
kiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được dự thi và nếu đạt
yêu cầu thì được cấp bằng tốt nghiệp tiểu học. Trưởng phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp bằng tốt nghiệp tiểu
học.[5].
3.2. Luật Giáo dục 2005
3.2.1. Sự cần thiết phải ban hành
Qua gần 7 năm thực hiện, Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua
ngày 2/12/1998 đã tạo cơ sở pháp lý để sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát
triển, hệ thống giáo dục quốc dân từng bước được kiện tồn, trình độ dân
trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển giáo dục, để giải quyết các vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt
ra, cần có thêm một số qui định mới, đồng thời cần sửa đổi, bổ sung một
số qui định đã có nhằm tăng cường cơ sở pháp lý, tạo điều kiện cho sự
nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn để đáp ứng nhu cầu học tập của
nhân dân và phục vụ có hiệu quả cơng cuộc đổi mới kinh tế xã hội của đất
nước.
14
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định những quan điểm và
phương hướng cơ bản về phát triển giáo dục, trong đó nổi bật là các yêu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy và học, hoàn thiện hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục; chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa giáo dục; thực hiện công bằng
trong giáo dục và xây dựng xã hội học tập. Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương khóa IX năm 2002 tiếp tục nhấn mạnh phương hướng,
nhiệm vụ do Đại hội IX vạch ra, đồng thời xác định vai trò nòng cốt để
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong việc thực hiện các
nhiệm vụ về giáo dục. Các quan điểm của Đảng trong các văn kiện nêu
trên về phát triển sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ mới cần được thế chế
hóa trong Luật Giáo dục.
Trong những năm qua, nhận thức quan điểm “phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu” mặc dù đã được nâng lên, song chưa thể hiện đầy đủ
trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở nhiều cán bộ quản lý và cấp
quản lý, nhất là khi phải xây dựng và lựa chọn các phương án đầu tư cho
giáo dục, xây dựng cơ chế, chính sách cho các tổ chức và hoạt động giáo
dục. Trong quản lý nhà nước về giáo dục, sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp cịn có nhiều trường hợp thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ, kém hiệu
quả. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội chưa được triển khai
thực hiện đúng mức. Tình hình đó địi hỏi cần sửa đổi Luật Giáo dục
nhằm xác định rõ hơn hành lang pháp lý để tăng cường sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý giáo dục, giữa các tổ chức
các cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khoa học công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, cơng cuộc cải cách giáo
dục đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu, việc sửa đổi Luật Giáo dục còn
nhằm tạo thêm điều kiện để giáo dục nước ta tiếp cận trình độ phát triển
về giáo dục của các nước tiên tiến, trên cơ sở đó, phục vụ tốt hơn sự
15
nghiệp đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập và
phát triển ở đầu thế kỷ XXI.[6].
3.2.2. Kế thừa Luật Giáo dục 1998
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của Luật Giáo dục
1998, Luật giáo dục 2005 được quốc hội khố X, kì họp thứ 10 sửa đổi,
bổ sung theo nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 được xây
dựng với những nội dung mới bao gồm các quy định nhằm tập trung giải
quyết năm nhóm vấn đề:
•
Một là, để hồn thiện một bước về hệ thống giáo dục quốc dân,
Luật đã khẳng định vị trí giáo dục thường xuyên, phát triển giáo dục nghề
nghiệp theo ba cấp đào tạo, tăng khả năng liên thông, phân luồng giữa các
bộ phận của hệ thống.
•
Hai là, Luật đã xác định rõ yêu cầu về chương trình giáo dục, về
điều kiện thành lập nhà trường, xác định những tiêu chí cơ bản để một
trường đại học hoặc viện nghiên cứu được phép đào tạo trình độ tiến sỹ,
định hướng về công tác kiểm định chất lượng giáo dục, tạo điều kiện
chuyển đổi từ đào tạo theo năm học sang đào tạo theo tích lũy tín chỉ,
tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục.
•
Ba là, để nâng cao tính cơng bằng xã hội trong giáo dục, Luật đã
có những quy định mở rộng cơ hội học tập, xác định các chính sách hỗ
trợ cho con em đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng được hưởng
chính sách xã hội, con em gia đình nghèo.
•
Bốn là, để tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục, Luật đã xác
định những quy phạm nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi tiêu cực, xác
định rõ trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, đặc biệt là các
trường dạy nghề, các trường trung cấp, cao đẳng và đại học.
16
•
Năm là, để khuyến khích đầu tư mở trường ngồi cơng lập, Luật
đã có các quy định bảo đảm sự bình đẳng giữa các loại hình trường và
quy định các chính sách hỗ trợ trường dân lập, trường tư thục.[6].
3.2.3. Cơ sở ban hành Luật Giáo dục 2005
- Luật Giáo dục 2005 thể chế hoá đường lối, quan điểm giáo dục
của Đảng được chỉ ra trong các văn kiện của Đại hội IX, Hội nghị TW6
và Nghị quyết hội nghị TW9 khoá IX, nhằm tạo chuyển biến cơ bản về
chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hố, hiện đại
hố, xã hội hố, góp phần thực hiện công bằng xã hội, hội nhập quốc tế.
- Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và bổ sung năm
2001 là cơ sở pháp lý (Chương III về văn hố, giáo dục, khoa học, cơng
nghệ) để ban hành Luật Giáo dục 2005.
- Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi) được ban hành trên cơ sở những đòi
hỏi khách quan của xã hội, quy định và giải quyết những vấn đề bức xúc,
khó khăn và vướng mắc trong hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục.[7].
3.2.4. Bố cục và nội dung cơ bản của Luật Giáo dục 2005
Luật giáo dục 2005 gồm 9 chương, 120 điều, bỏ bớt 3 điều, bổ sung
13 điều mới, sửa đổi 83 điều (trong đó có 68 điều được chỉnh lý về nội
dung và 15 điều chỉnh lý về kỹ thuật).
Lý do bỏ 3 điều trong mục 4 chương VII là về thanh tra giáo dục là vì
một số nội dung quy định về thanh tra giáo dục đã được quy định tại Luật
thanh tra và do Luật thanh tra điều chỉnh.
Lý do thêm 13 điều mới là nhằm quy định các nội dung về chương
trình, trách nhiệm của cán bộ quản lý, tổ chức kiểm định chất lượng giáo
dục, các hành vi bị cấm đối với nhà giáo và người học, chính sách đối với
trẻ em tại các cơ sở giáo dục mần non, chính sách đối với trường dân lập
và các tổ chức cần có mà trong Luật giáo dục 1998 chưa quy định. Các
điều bổ sung mới gồm quy định về chương trình giáo dục (Điều 6), vai
trị và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục (Điều 16), kiểm định chất
17
lượng giáo dục (Điều 17), chương trình giáo dục mầm non (Điều 24), Hội
đồng trường (Điều 53), mục 4 chương III, chính sách đối với trường dân
lập, tư thục gồm 4 điều : quy định nhiệm vụ, quyền hạn của trường dân
lập, tư thục (Điều 65), chế độ tài chính (Điều 66), quyền sở hữu tài sản,
rút vốn và chuyển nhượng vốn (Điều 67), chính sách ưu đãi (Điều 68),
các hành vi nhà giáo không được làm (Điều 75), quyền và chính sách đối
với trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non (Điều 84), các hành vi bị cấm đối
với người học (Điều 88), ban đại diện cha mẹ học sinh (Điều 96).[8].
Trong đó:
Chương I:
Những quy định chung: gồm 20 điều
Chương II:
Hệ thống giáo dục quốc dân: gồm 27 điều
Chương III:
Nhà trường và cơ sở giáo dục khác: gồm 22 điều
Chương IV:
Nhà giáo: gồm 13 điều
Chương V:
Người học: gồm 10 điều
Chương VI:
Nhà trường, gia đình và xã hội: gồm
Chương VII: Quản lý nhà nước về giáo dục: gồm 15 điều
Chương VIII: Khen thưởng và xử lý vi phạm: gồm 5 điều
Chương IX:
Điều khoản thi hành: gồm 2 điều
3.3. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, năm 2009
3.3.1. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục
Luật giáo dục được Quốc hội ban hành năm 2005 (thay thế Luật
giáo dục năm 1998) và có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2006 đã
tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục xây dựng và phát triển nền giáo dục nước
nhà trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Luật đã tạo được bước
tiến quan trọng, tháo gỡ được nhiều vướng mắc trong hoạt động giáo dục.
Qua 3 năm thực hiện, Luật đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục,
nâng cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, góp phần đào tạo
nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện
Luật đã nảy sinh một số điểm hạn chế, bất cập, một số quy định của Luật
18
chưa đi vào cuộc sống. Một số điểm chưa phù hợp với tình hình thực tiễn
và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước về giáo dục, phát huy tốt hơn hợp tác quốc tế về giáo dục cần được
sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho rõ
ràng hơn để dễ hướng dẫn, dễ thực hiện. Những sửa đổi, bổ sung Luật
giáo dục nhằm tạo cơ sở cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, thực
hiện chế độ chính sách đối với người học, tạo điều kiện cho sự nghiệp
giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn.
Trong những năm qua chủ trương đổi mới, phân cấp quản lý giáo dục
đã từng bước được thực hiện. Một số quy định của Luật cần được sửa đổi
phù hợp với chủ trương này như các quy định về thẩm quyền thành lập
trường đại học, thẩm quyền giao nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ;
quyền và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong đó có việc kiểm
tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục đối với tất cả cơ sở giáo dục trên
địa bàn. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục lần này
nhằm tiếp tục thực hiện phân cấp mạnh mẽ hơn, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục.
Ngày 15 tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị có Thơng báo số 242TB/TW kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020. Các
quan điểm chỉ đạo quan trọng này cần được thể chế thành các nội dung
pháp luật. Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 5
thông qua Nghị quyết số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định hướng
đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học
2010-2011 đến năm học 2014-2015, một số nội dung của Nghị quyết
được thể chế trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục
nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào
19
các quan hệ kinh tế thế giới, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục để phù hợp với các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên, quản lý tốt hơn hoạt động hợp tác,
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục.
Với những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
giáo dục là cần thiết.[9].
3.3.2. Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Giáo dục
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục được thực hiện
theo các quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc sau:
1. Đường lối, quan điểm của Đảng và các chủ trương, chính sách
về giáo dục phải được quán triệt trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giáo dục. Đặc biệt là các quan điểm về giáo dục đã được
xác định trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá X, Nghị quyết Đại hội Đảng
tồn quốc lần thứ X và Thơng báo số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm
2009 kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục đến năm 2020.
2. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục phải xuất
phát từ những đòi hỏi khách quan, lựa chọn những nội dung thực sự cần
thiết, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề thực sự bức xúc trong
thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và
hoạt động giáo dục và trong công tác quản lý giáo dục, góp phần đổi mới
giáo dục và tiếp tục thực hiện "phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu".
3. Các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục phải phù hợp, thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp,
các bộ luật và luật hiện hành; phù hợp với các cam kết và Điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết hoặc là thành viên.[9].
20
3.3.3. Bố cục và nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục liên quan đến 22
điều trong tổng số 120 điều của Luật, bổ sung mới 01 mục vào Chương VII
gồm 03 điều mới. Các nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Điều 1: gồm 31 khoản quy định về các nội dung sửa đổi, bổ sung
Luật giáo dục cụ thể như sau:
+ Sửa đổi Khoản 2 Điều 6 (về chương trình giáo dục) như sau:
“2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính hiện đại, tính ổn định,
tính thống nhất, tính thực tiễn, hợp lý và kế thừa giữa các cấp học và trình
độ đào tạo; tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thơng, chuyển đổi giữa
các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống
giáo dục quốc dân; là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện; đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”.
Sửa đổi, bổ sung này nhằm triển khai thực hiện quy định về chương
trình giáo dục với chất lượng cao hơn trong thực tế, bảo đảm chương
trình giáo dục phải hợp lý và phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế, tạo cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện.
+ Sửa đổi Khoản 1 Điều 11 (về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em
năm tuổi) như sau:
“1. Phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo
dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước”.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội khố XII kỳ họp thứ 5 thơng qua
Nghị quyết số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới
một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011
đến năm học 2014 - 2015 trong đó xác định “phổ cập giáo dục mầm non
5 tuổi”.
Để có cơ sở triển khai giải pháp tập trung cho trẻ 5 tuổi có điều kiện
21
chuẩn bị bước vào học lớp 1, Luật bổ sung quy định “phổ cập giáo dục
mầm non 5 tuổi”. Đây là u cầu có tính pháp lý cao, cần có sự ổn định
và thực hiện lâu dài, huy động nguồn lực lớn các lực lượng xã hội tham
gia. Quy định phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi thể hiện tính ưu việt của
chế độ ta và khẳng định thành tựu Quốc gia trong việc giáo dục và chăm
sóc trẻ em. Theo thống kê, hiện nay tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đi học bình quân
cả nước là 90%, tuy nhiên, nhiều nơi mới đáp ứng được học một buổi một
ngày và nhiều tỉnh có tỷ lệ thấp hơn đáng kể. Việc sửa đổi Luật theo
hướng trên tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư có hiệu quả
cho nâng cao chất lượng giáo dục mầm non nói chung và trẻ em 5 tuổi
nói riêng.
+ Sửa đổi Điều 13 (Đầu tư cho giáo dục) như sau:
“Điều 13. Đầu tư cho giáo dục
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực
giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và
được ưu đãi đầu tư.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục.
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực
đầu tư cho giáo dục”.
Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, được quy định trong Luật
Đầu tư là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Việc sửa
đổi, bổ sung như trên nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ giữa quy định của
Luật Giáo dục với Luật Đầu tư, tạo cơ sở cho việc xây dựng các văn bản
dưới Luật theo hướng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục thực hiện
theo quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành, phù hợp với quy
định tại khoản 2 Điều 5 Luật Đầu tư: “Hoạt động đầu tư đặc thù được quy
định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó”.
22
+ Sửa đổi Khoản 3 Điều 29 (về chương trình giáo dục phổ thông và
sách giáo khoa):
Bổ sung tiếp theo khoản 3 Điều 29 một đoạn như sau:
“... Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn sách
giáo khoa, việc biên soạn sách giáo khoa; việc chọn sách để dạy thí điểm,
tổ chức dạy thí điểm, lấy ý kiến đóng góp của nhà giáo, nhà khoa học, nhà
quản lý giáo dục, hội nghề nghiệp, học sinh; việc thẩm định, duyệt và
quyết định chọn sách để sử dụng làm sách giáo khoa, bao gồm cả sách
giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng dân tộc và sách giáo khoa cho học
sinh trường chuyên biệt”.
Bổ sung quy định trên đây nhằm góp phần bảo đảm chất lượng của
sách giáo khoa và quản lý tốt hơn việc biên soạn, ban hành sách giáo
khoa. Nhiệm vụ của các trường chuyên biệt như trường năng khiếu,
trường giáo dưỡng, trường dành cho người tàn tật, khuyết tật, trường dự
bị đại học có điểm khác so với cơ sở giáo dục phổ thơng nói chung, do đó
sách giáo khoa dùng để giảng dạy trong các trường chuyên biệt cần có
quy định phù hợp với người học tại các cơ sở giáo dục này.
+ Sửa đổi Khoản 2 Điều 35 (về giáo trình giáo dục nghề nghiệp và giáo
trình giáo dục đại học) như sau:
“2. Giáo trình giáo dục nghề nghiệp cụ thể hóa các u cầu về nội
dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi
mơn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục nghề nghiệp, đáp
ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục nghề nghiệp.
Giáo trình giáo dục nghề nghiệp do Hiệu trưởng nhà trường, Giám
đốc trung tâm dạy nghề tổ chức biên soạn hoặc tổ chức lựa chọn; duyệt để
sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức trong cơ sở giáo dục
nghề nghiệp trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do
Hiệu trưởng, Giám đốc trung tâm dạy nghề thành lập; bảo đảm có đủ giáo
trình để giảng dạy, học tập.
23
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước về dạy nghề quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt
và sử dụng giáo trình; tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình sử dụng
chung cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp".
+ Sửa đổi Khoản 4 Điều 38 (về thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ) như sau:
“4. Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối
với người có bằng tốt nghiệp đại học, trong ba năm học đối với người có
bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ
có thể được kéo dài hoặc rút ngắn, thời gian kéo dài không quá bốn năm,
thời gian rút ngắn không quá sáu tháng. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định cụ thể các trường hợp đặc biệt được kéo dài hoặc rút ngắn
thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ.
Nghiên cứu sinh khơng có điều kiện theo học tập trung liên tục và
được cơ sở giáo dục cho phép vẫn phải có đủ lượng thời gian tập trung
theo quy định tại Điều này để hồn thành chương trình đào tạo trình độ
tiến sĩ, trong đó có ít nhất một năm tập trung liên tục.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ quy định cụ thể việc học tập nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ của người đã tốt nghiệp đại học với sự tham gia
đào tạo của cơ sở giáo dục đại học”.
Để bảo đảm chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ, Luật sửa đổi, bổ sung
quy định về thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ tại khoản 4 Điều 38 theo
hướng: quy định thời gian đào tạo tiến sĩ đối với người có bằng thạc sĩ
được thực hiện trong “ba năm học” thay vì “từ hai đến ba năm học” như
quy định hiện hành; bổ sung quy định cụ thể về thời gian đào tạo trình độ
tiến sĩ có thể được “kéo dài khơng q bốn năm”, “rút ngắn không quá
sáu tháng” trong trường hợp đặc biệt và giao Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định cụ thể các trường hợp được kéo dài hoặc rút ngắn thời
gian đào tạo.
24
Quy định này ràng buộc trách nhiệm không chỉ nghiên cứu sinh mà
giảng viên hướng dẫn và cơ sở đào tạo phải đầu tư thích đáng về thời
gian, cơng sức, trí tuệ cho việc học tập và nghiên cứu, tham gia các hoạt
động khoa học cần thiết trong và ngoài nước để đạt tới trình độ tiến sĩ.
Khoản 4 Điều 38 Luật Giáo dục quy định về đào tạo trình độ tiến sĩ
trong đó có quy định đào tạo trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ,
trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc biệt; khoản 6 Điều 43 Luật
Giáo dục quy định về văn bằng giáo dục đại học trong đó có quy định văn
bằng trình độ tương đương với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số
ngành chuyên môn đặc biệt. Các nội dung này được giao cho Thủ tướng
Chính phủ quy định cụ thể.
Tại phiên họp Chính phủ ngày 05 tháng 8 năm 2009, các thành viên
Chính phủ đã thảo luận về nội dung này và thống nhất cao không có văn bằng
tương đương với bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Với những lý do nêu trên, Chính phủ
bãi bỏ quy định về văn bằng tương đương tại khoản 6 Điều 43 Luật Giáo dục.
Để đảm bảo quyền lợi của người học theo học các chương trình giáo
dục nghề nghiệp trình độ cao đặc thù, theo đề nghị của Bộ Y tế, ngày 01
tháng 7 năm 2003 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế đã ban hành Thông
tư liên tịch số 30/2003/TTLT-BGD&ĐT-BYT hướng dẫn việc chuyển
đổi giữa các văn bằng và trình độ đào tạo trong lĩnh vực y tế giữa bằng
chuyên khoa cấp I, cấp II với bằng thạc sĩ, tiến sĩ y học, dược học, vì thế
vấn đề phát sinh trong việc đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ y học, dược
học, đào tạo bác sĩ nội trú, bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp I, chuyên
khoa cấp II đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế thống nhất giải
quyết theo quy định về liên thông.
Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ chun
mơn, nghiệp vụ của người đã tốt nghiệp đại học làm việc ở một số ngành
đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu đặc thù đối với một số vị trí cơng việc
nhất định, Chính phủ sửa đổi quy định “Thủ tướng Chính phủ quy định
25