Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học môn giáo dục công dân 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.83 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ KIM DUNG

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI
PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
PHẦN “CƠNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ
GIỚI QUAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
(QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
NGHI LỘC 4, HUYỆN NGHI LỘC TỈNH NGHỆ AN)
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ mơn giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Viết Quang


2
Nghệ An, 2012


LỜI CẢM ƠN
Với tính cảm chân thành và lịng kính trọng, tác giả xin chân thành cảm
ơn sâu sắc tới ban giám hiệu, phòng đào tạo sau đại học, khoa giáo dục chính
trị - trường đại học Vinh; quý thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
và tạo điều kiện cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, đội ngũ giáo viên giáo dục công
dân các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ


An đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình điều tra và làm thực
nghiệm tại trường.
Để hồn thành luận văn của mình, tơi cịn nhận được sự động viên, giúp đỡ
nhiệt tình của gia đình, các đồng nghiệp và toàn thể bạn bè.
Đặc biệt xin chân thành cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
Tiến Sĩ Trần Viết Quang – người đã trực tiếp giảng dạy và trực tiếp giúp đỡ,
hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu để tơi có thể hồn thành luận văn.
Trong q trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn
khơng tránh khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy
giáo, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả

Nguyễn Thị Kim Dung


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH
DH
ĐC
GDCD
GD - ĐT
GV
HS
PP
PPDH
SGK
SGV

SVHT
TN
XHCN

Chủ nghĩa xã hội
Dạy học
Đối chứng
Giáo dục công dân
Giáo dục – đào tạo
Giáo viên
Học sinh
Phương pháp
Phương pháp dạy học
Sách giáo khoa
Sách giáo viên
Sự vật hiện tượng
Thực nghiệm
Xã hội chủ nghĩa


5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp xây dựng và và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ hội nhập
quốc tế, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của giáo dục và đào tạo. Mục
tiêu của giáo dục - đào tạo (GD- ĐT) là tạo ra được những con người phát
triển toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tư duy độc lập, sáng tạo, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất tốt đẹp, v.v..
Môn Giáo dục công dân (GDCD) trong hệ thống các trường phổ thơng
trung học có vị trí rất quan trọng trong việc bồi dưỡng thế giới quan, nhân

sinh quan mới, góp phần hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học
sinh. Đây là mơn học mang tính trừu tượng và khái quát cao, bao trùm nhiều
lĩnh vực khoa học cả tự nhiên và xã hội. Đặc biệt, phần “Cơng dân với việc hình
thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” trong chương trình GDCD lớp
10 có nội dung liên quan trực tiếp tới việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học cho người học. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc dạy
và học môn học này cịn có những hạn chế nhất định, nhất là về mặt PP.
Trong hệ thống các PPDH, PP thuyết trình là một PP đã và đang được
sử dụng phổ biến ở tất cả các cấp học, ngành học. Bên cạnh việc mang lại
hiệu quả dạy học thiết thực, PP này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định,
không khơi được tính tích cực, sáng tạo của người học. Vì thế, vấn đề đặt ra là
phải phát huy những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của PP thuyết
trình và phải kết hợp PP này với các PP khác, đặc biệt là PP nêu vấn đề nhằm
nâng cao chất lượng DH.
Thực tế cho thấy, việc kết hợp PP thuyết trình với PP nêu vấn đề đã
được thực hiện ở nhiều trường PTTH, trong đó có trường THPT Nghi Lộc 4,
tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ


6
quan, việc kết hợp giữa hai PP này nhiều khi chỉ mang tính hình thức, ngẫu
nhiên tùy hứng, chứ chưa mang tính chủ động, dựa trên những cơ sở khoa học
và thực tiễn. Do vậy, chất lượng dạy và học mơn GDCD hiện nay trong các
trường THPT, nhìn chung chưa cao.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn vấn
đề Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy
học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học” môn GDCD lớp 10 (Qua khảo sát tại trường THPT Nghi lộc 4,
huyện Nghi lộc, tỉnh Nghệ An) làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

PP thuyết trình và PP nêu vấn đề là hai PP được sử dụng rất nhiều trong
quá trình DH. Các PP này đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và
thực tiễn. Khi nói đến PP thuyết trình đã có nhiều tác giả trong và ngồi nước đề
cập đến như:
- Trong cuốn “Lý luận dạy học môn GDCD ở trường THPT”, tác giả
Phùng Văn Bộ chỉ ra rằng, trong hệ thống các PP, PP thuyết trình gần như giữ
vai trò then chốt. Một bài giảng lý luận triết học, kinh tế chính trị, CNXH, đạo
đức, pháp luật đều phải sử dụng lời giảng thuyết minh, diễn giảng của GV, cái
đó phải là chủ đạo.
- Tác giả Vương Tất Đạt trong cuốn “Phương pháp giảng dạy GDCD” đã
khẳng định tầm quan trọng của PP thuyết trình. Tác giả cho rằng, nếu GV sử dụng
tốt PP thuyết trình để truyền thụ các khái niệm, phạm trù quy luật mang tính trừu
tượng và khái quát cao sẽ giúp cho HS nắm vững chúng. Do đó, tránh được sự
đơn điệu, gây hứng thú học tập, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của họ.
Bên cạnh đó, để nâng cao tính tích cực, tự lực, năng động và sáng tạo
cho HS trong thời kỳ hội nhập. Các GV cần phải thấm nhuần tư tưởng đổi


7
mới PPDH, biết sử dụng các PPDH tích cực, trong đó PP nêu vấn đề là một
trong những PP có khả năng đáp ứng được tính thực tiễn đó.
Với tư cách là một PP dạy học nêu vấn đề xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, là
một PPDH mới, hoàn tồn khác với cách DH truyền thống. Các cơng trình như:
“Những cơ sở dạy học nêu vấn đề” của V.Ôkon, Nhà xuất bản Giáo dục năm
1976; “Bước đầu tìm hiểu và vận dụng dạy học vào chương trình tốn lớp 10 các
tỉnh phía nam” của Đỗ Thành Tích “Xây dựng tình huống có vấn đề trong giảng
dạy vật lý nhằm nâng cao chất phương học tập” của Nguyễn Hồng Việt đã đề cập
PP nêu vấn đề trên cả bình diện lý thuyết và thực nghiệm.
Tác giả Trần Văn Hà với 2 tác phẩm “Dạy học giải quyết vấn đề - một
phương hướng đổi mới trong mục tiêu và trong đào tạo”(năm 1995), “Tiếp

cận nền kinh tế tri thức thế kỉ XXI - phương pháp giải quyết vấn đề - phương
pháp xử lý tình huống, hành động” (năm 2002) đã trình bày các khái niệm:
vấn đề tình huống, tình huống có vấn đề, lý thuyết tình huống, bốn giai đoạn
của phương pháp xử lý tình huống hành động: điều tra, nghiên cứu, phân tích,
hành động. Trong báo cáo “Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề, phương
pháp xử lý tình huống hành động”, tác giả nêu ra ba công đoạn để giảng một
bài theo PP tình huống bao gồm: giới thiệu lý thuyết và nguyên tắc cơ bản, tài
liệu, sách mà HS cần đọc; giới thiệu tình huống và DH tình huống theo kiểu
cá nhân hoặc nhóm; GV tổng kết buổi tranh luận, củng cố nâng cao. Đồng
thời tác giả cũng đưa ra quy trình chuẩn bị tình huống là: xác định rõ mục
đích, yêu cầu của bài học; thu thập, phân loại các tình huống có thật, thu thập
thơng tin mới trong đời sống, sách báo; nghiên cứu, thảo luận tìm ra phương
án tối ưu. Đặc biệt tác giả đã dày cơng sưu tầm, xây dựng hơn 2500 tình
huống và thực nghiệm giảng dạy ở trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên,
trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội và một số nước trên thế giới.
Trong tác phẩm “Dạy học hiện đại- lý luận, biện pháp, kĩ thuật” tác giả


8
Đặng Thành Hưng đã trình bày khá tồn diện và sâu sắc về các vấn đề: tính có
vấn đề của dạy học, phân biệt tình huống dạy học và tình huống có vấn đề.
Ở tác phẩm “200 bài tập tình huống và thuật quản lí”, tác giả Vũ Huy
Từ đã sưu tầm, thiết kế 200 bài tập tình huống với nội dung phong phú, khoa
học, đem lại biện pháp hữu ích trong cơng tác quản lí nói chung và đặc biệt
trong lĩnh vực kinh doanh.
Như vậy, trên bình diện lý luận, cho đến nay chúng ta thấy hầu hết các
công trình chỉ đề cập đến một PPDH cụ thể, riêng biệt hoặc là PP thuyết trình
hoặc là PP nêu vấn đề. Trong phạm vi tài liệu mà chúng tơi có được, có rất ít
cơng trình bàn về việc kết hợp PP thuyết trình với PP nêu vấn đề.
Trong quá trình tìm kiếm, khảo cứu tài liệu cho luận văn, chúng tơi tìm

thấy giáo trình “phương pháp dạy học CNXH khoa học” do PGS. TS Nguyễn
Văn Cư (chủ biên). Bên cạnh việc đánh giá cao PP thuyết trình tác giả đã
nhận thấy hạn chế của PP thuyết trình truyền thống cần phải khắc phục. Trong
giáo trình này PGS. TS Nguyễn Văn Cư đã nêu rõ: “Để bài thuyết trình có
hiệu quả, cần có sự đổi mới lấy người học làm trung tâm hạn chế bớt phương
pháp thuyết trình thơng báo, tái hiện tăng cường phương pháp thuyết trình
theo hướng giải quyết vấn đề; thuyết trình xen kẽ vấn đáp thảo luận hợp lí;
thuyết trình có minh họa đặc biệt thuyết trình gắn liền với công nghệ thông tin
hiện đại để bài giảng sinh động hơn”.
Những gợi ý và chỉ dẫn này là những gợi mở ban đầu rất quan trọng mở
ra hướng nghiên cứu mới về kết hợp các PP trong dạy học nói chung và kết
hợp PP thyết trình và PP nêu vấn đề nói riêng. Việc sử dụng PP thuyết trình
và PP dạy học nêu vấn đề nhằm nâng cao chất lượng DH đã được các nhà
nghiên cứu các nhà giáo dục quan tâm, mặc dù cịn ít nhưng bước đầu cho
thấy ý nghĩa của việc kết hợp giữa hai PP này.


9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn của việc kết hợp PP thuyết trình
với PP nêu vấn đề, luận văn đưa ra quy trình và giải pháp kết hợp hai PP này
trong dạy học phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học” chương trình GDCD lớp 10.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của sử dụng PP thuyết trình, PP nêu vấn đề và
sự kết hợp hai PP này trong q trình dạy học mơn GDCD ở trường THPT.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng kết hợp PP thuyết trình với PP nêu vấn
đề trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương

pháp luận khoa học” chương trình GDCD lớp 10 tại Trường THPT Nghi Lộc
4, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất quy trình và giải pháp kết hợp PP thuyết trình với PP nêu vấn
đề trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học” môn GDCD lớp 10.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đề tài sử dụng các PP phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgic... nhằm xác
lập những quan điểm lý luận cơ bản của vấn đề nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng PP điều tra, phỏng vấn, quan sát, tổng kết kinh nghiệm, PP
chuyên gia nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng vận dụng PPDH thuyết trình và
PP nêu vấn đề của GV trong q trình dạy học mơn GDCD ở trường THPT.
Các phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý các kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình nghiên cứu.


10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề kết hợp PP thuyết trình với PP nêu vấn đề
trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học” chương trình GDCD lớp 10.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu PP thuyết trình, PP nêu vấn đề và việc
kết hợp hai PPDH này trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học” trong chương trình GDCD lớp 10 tại
địa điểm cụ thể là Trường THPT Nghi Lộc 4, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
6. Giả thuyết khoa học
Dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương

pháp luận khoa học” môn GDCD lớp 10 ở các trường THPT hiện nay có
những hạn chế nhất định về mặt phương pháp. PP thuyết trình và PP nêu vấn
đề nếu được kết hợp chặt chẽ, hợp lý trong dạy học phần “Cơng dân với việc
hình thành thế giới quan phương pháp luận khoa học”, sẽ phát huy được tính
tích cực học tập của HS, nâng cao chất lượng dạy học mơn GDCD.
7. Đóng góp mới của đề tài
Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về PP thuyết trình và PP nêu
vấn đề trong DH; phân tích sâu thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp
hai PPDH này. Đồng thời luận văn tìm ra những điều kiện kết hợp và quy trình
kết hợp hai PPDH này trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế
giới quan phương pháp luận khoa học” trong chương trình GDCD lớp 10.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc DH môn
GDCD ở các Trường THPT.


11
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề
tài được chia làm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp PP thuyết trình
với PP nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học” môn GDCD lớp 10.
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp PP thuyết trình
với PP nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học” mơn GDCD lớp 10.
Chương 3. Quy trình và giải pháp kết hợp PP thuyết trình với PP nêu
vấn đề trong dạy học phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học” môn GDCD lớp 10.



12
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN
ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH
THẾ GIỚI QUAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
1.1. Lý luận về phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề
1.1.1. Phương pháp thuyết trình
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp và phương pháp thuyết trình
* Khái niệm phương pháp
Trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, con người ln tìm tịi,
sáng tạo nhiều phương thức, cách thức, hay gọi chung là PP, tác động vào đối
tượng nhằm giảm bớt công sức, thời gian và tăng hiệu quả hoạt động. Vì vậy,
PP trước hết là một thuật ngữ và sau đó là một khái niệm xuất hiện từ rất sớm
trong ngôn ngữ, nhận thức và tư duy của con người.
Thuật ngữ PP bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là “method” có nghĩa là con
đường, cách thức để đạt đến mục đích. PP theo nghĩa chung nhất là cách thức
đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Theo
nghĩa khoa học, PP là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về
các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Theo quan điểm triết học, PP là hệ thống những nguyên tắc được rút ra
từ tri thức về thế giới khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra.
PP là phạm trù gắn với hoạt động có ý thức của con người, phản ánh hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người trong từng hoàn cảnh cụ


13

thể, nó là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt
động nhận thức và cải tạo của thế giới của con người. Do vậy, đây là một phạm
trù hết sức quan trọng, có tính chất quyết định đối với mọi loại hoạt động.
PPDH là cách thức hoạt động truyền thụ tri thức của GV kết hợp chặt chẽ
với hoạt động học tập, lĩnh hội kiến thức của HS nhằm đảm bảo mục tiêu giáo
dục đề ra. Dạy và học là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa hai chủ thể người GV
và HS, trong đó GV là người định hướng, tổ chức mọi hoạt động nhằm giúp HS
nắm được các kiến thức mới; đối với HS phải tập trung suy nghĩ, chú ý lắng
nghe và trao đổi cùng với GV để có thêm những kiến thức mới cho mình. Sự kết
hợp hài hịa giữa GV và HS sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhưng để nâng cao chất lượng giáo dục thì địi hỏi những người dạy
cần phải linh hoạt, nhạy bén, nắm chặt các kĩ năng lên lớp để có cách truyền
đạt phù hợp giúp người học nắm được các nội dung kiến thức bộ mơn, tức là
phải có PPDH hợp lí. Tùy theo từng nội dung và đối tượng người học mà ta
có cách thể hiện, giảng giải khác nhau, nội dung và đối tượng nào thì sử dụng
PP nấy để hoàn thành mục tiêu giáo dục là nâng cao hiểu biết cho HS.
Tuy được đề cập ở dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung, khi
nói tới PP các nhà khoa học đều cho rằng đó là cách thức, con đường để đạt
được mục đích đề ra.
PP là phạm trù gắn với hoạt động có ý của con người phản ánh hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, do đó PP là nhân tố quyết định
thành công hay thất bại của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Để nhận thức được
bản chất và quy luật của SVHT cũng như cải tạo hiện thực một cách có hiệu quả
địi hỏi con người cần phải có PP tối ưu. Đây là vấn đề có tính quy luật.
Q trình dạy học nói chung và dạy học phần “Cơng dân với việc hình
thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” nói riêng cũng phải tuân
theo tính quy luật này. Trên thực tế trong q trình DH, khơng có người GV


14

nào chỉ sử dụng thuần túy một PP mà thường căn cứ vào nội dung DH cụ thể
để kết hợp nhiều PP khác nhau.
* Khái niệm phương pháp thuyết trình
Hiện nay có nhiều quan niệm về PP thuyết trình. Thuyết trình là một
trong những PP được sử dụng khá phổ biến và đem lại nhiều thuận lợi trong
quá trình DH, nhất là trong DH các môn xã hội. Điều này đã được lịch sử giáo
dục chứng minh. Tuy nhiên mỗi nhà giáo dục lại có một quan niệm khác nhau
về PP thuyết trình. Trong khn khổ luận văn, chúng tơi xin đưa ra một số
quan niệm cơ bản sau:
“PP thuyết trình là một PP giảng dạy mà người dạy dùng lời nói sinh
động, gợi cảm, thuyết phục để truyền thụ kiến thức cho học sinh theo mục đích
nhất định, khiến cho HS tiếp thu một cách có ý thức, có hiệu quả” [4;108].
“Phương pháp thuyết trình là phương pháp GV sử dụng ngôn ngữ và
phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về nội dung học
tập. Người học tiếp thu hệ thống thơng tin đó từ người dạy và xử lý chúng tùy
theo chủ thể người học và yêu cầu của họ” [ 9;55].
“ Thuyết trình là phương pháp GV dùng lời nói để trình bày, giải thích
nội dung bài học một cách có hệ thống lơgíc, theo chủ đích nhất định, nhờ vậy
người học sẽ tiếp thu bài giảng một cách có ý thức” [16;58].
Mặc dù có nhiều cách quan niệm khác nhau về PP thuyết trình. Tuy nhiên,
tựu chung lại có thể khẳng định thuyết trình là PP mà ở đó GV sử dụng lời nói cử
chỉ của mình để cung cấp cho người học một hệ thống tri thức xác định.
1.1.1.2. Các hình thức thuyết trình và cấu trúc của một bài giảng trình
bày sử dụng phương pháp thuyết trình
* Các hình thức thuyết trình
PP thuyết trình trong DH thường thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau
như thuyết trình kể chuyện, thuyết trình giảng giải, thuyết trình diễn giảng.


15

- Thuyết trình kể truyện
Kể chuyện là hình thức của PP thuyết trình, trong đó GV dùng lời nói
biểu cảm và các thao tác dẫn dắt HS tiếp cận và làm nổi bật nội dung của tri
thức truyền thụ. Thông qua câu truyện, GV có thể nêu lên những sự kiện,
những hiện tượng hay nguồn gốc phát sinh, phát triển của những tri thức mà
HS cần tiếp thu. Nội dung của câu truyện phù hợp với nội dung của bài giảng
kết hợp với lối kể chuyện sinh động của GV sẽ giúp cho HS tiếp thu bài một
cách nhẹ nhàng, thấm sâu, thu hút được sự chú ý của HS trên lớp.
- Thuyết trình giảng giải
Giảng giải là hình thức, trong đó GV dùng lời nói với những luận cứ,
số liệu để giải thích, chứng minh. Hình thức này rất hữu ích khi dạy các vấn
đề trừu tượng như các khái niệm, phạm trù (vật chất, ý thức, duy vật, duy
tâm) và các quy luật, nguyên tắc, nguyên lý. Giảng giải thường được sử dụng
khi dạy tri thức mới, bởi vì tri thức mới bao giờ cũng được xây dựng trên cơ
sở của các khái niệm, phạm trù, quy luật.
- Thuyết trình diễn giảng
Diễn Giảng là hình thức truyền thụ tri thức theo một hệ thống lôgic chặt
chẽ bao gồm khối lượng tri thức lớn và thực hiện trong một thời gian tương
đối dài thông qua lời giảng của GV. Diễn giải thường được áp dụng đối với
những bài có nội dung tri thức phức tạp, khó, trừu tượng và khái quát cao.
* Cấu trúc của một bài giảng trình bày sử dụng phương pháp thuyết trình
Khi dùng PP thuyết trình để trình bày vấn đề nào đó cần thực hiện qua
4 bước sau:
- Đặt vấn đề: Là bước đầu tiên nhằm thông báo vấn đề dưới dạng tổng
quát để kích thích sự chú ý ban đầu của HS.
- Phát biểu vấn đề: Là bước nêu lên những câu hỏi cụ thể nhằm vạch ra
phạm vi những vấn đề cần phải xem xét.


16

- Giải quyết vấn đề: Bước này có thể thực hiện theo lơgíc quy nạp hay
lơgíc diễn dịch.
+ Lơgíc quy nạp là con đường nhận thức từ sự kiện, hiện tượng cụ thể
đến cái chung, cái khái qt.
+ Lơgíc diễn dịch là con đường nhận thức từ nguyên lý chung đến cái
cụ thể. Theo lơgíc diễn dịch, bắt đầu đưa ra các kết luận sơ bộ khái quát, sau
đó tiến hành giải quyết, có thể theo 3 cách: phân tích từng phần, phân tích
phát triển hoặc phân tích so sánh đối chiếu.
- Kết luận: Là bước kết thúc việc trình bày vấn đề. Nó là sự kết tinh dưới
dạng xúc tích, chính xác những khái quát bản chất của vấn đề đưa ra xem xét.
Cách đặt vấn đề và phát biểu vấn đề có thể tiến hành bằng cách thơng báo
tái hiện hoặc có tính vấn đề. Cách giải quyết vấn đề có thể bằng lơgíc quy nạp hay
lơgíc diễn dịch, đều đó chứng tỏ cấu trúc của PP thuyết trình đã phản ánh mặt bên
trong và mặt bên ngồi của PPDH nói chung và PP thuyết trình nói riêng.
1.1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thuyết trình
* Ưu điểm của phương pháp thuyết trình
- Cho phép GV truyền đạt nội dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp,
chứa đựng nhiều thơng tin mà HS tự mình khơng dễ dàng tìm hiểu được một
cách sâu sắc.
- Giúp HS nắm được hình mẫu về cách tư duy lơgíc, cách đặt và giải
quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề khoa
học một cách chính xác, rõ ràng, súc tích thơng qua cách trình bày của GV.
- Tạo điều kiện thuận lợi để GV tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình
cảm của HS qua việc trình bày tài liệu với giọng nói cử chỉ, điệu bộ thích hợp
và diễn cảm.


17
- Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư
duy của HS, vì có như vậy HS mới hiểu được lời giảng của GV và mới ghi

nhớ được bài học.
- Bằng PP thuyết trình, GV có thể truyền đạt một khối lượng tri thức
khá lớn cho nhiều HS trong cùng một lúc vì vậy, đảm bảo tính kinh tế cao.
* Hạn chế của phương pháp thuyết trình
Một là, khi dùng PP này quá nhiều, GV thu được ít thơng tin phản hồi
từ phía người học. GV ít chú ý đến việc kiểm tra, đánh giá kết quả lĩnh hội tri
thức của từng HS.
Hai là, nếu nội dung thuyết trình chủ yếu chỉ dựa vào SGK hoặc tài
liệu có sẵn thì có thể là một sự lãng phí thời gian của GV vì những nội dung
ấy HS có thể tự học ở nhà.
Ba là, với một lượng thời gian ngắn mà thu nhận một lượng thơng tin
q lớn khi sử dụng PP thuyết trình sẽ làm cho khả năng lưu giữ thông tin của
người học thấp vì trí nhớ q tải.
Bốn là, PP này có thể hạn chế tính tích cực của người học hay nói cách
khác, PP này có thể hạ thấp quá trình cá thể hóa của người học. Người học
gần như thụ động tiếp nhận thơng tin từ phía người dạy, ít có cơ hội thể hiện
và áp dụng những ý tưởng của mình trước những tri thức lĩnh hội được. Do
đó, PP thuyết trình có thể làm cho bài giảng trở nên đơn điệu, nhàm chán,
người học không hứng thú học tập.
1.1.1.4. Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp thuyết trình
Khi sử dụng PP thuyết trình GV cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Yêu cầu về bố cục của bài giảng
Nội dung thuyết trình phải được kết cấu theo một hệ thống lơgíc và
khoa học. u cầu này được thực hiện thông qua việc sử dụng một số thao


18
tác tư duy như phân tích - tổng hợp, quy nạp - suy diễn, lơgíc - lịch sử, trừu
tượng - cụ thể...
+ Phân tích – tổng hợp

Phân tích tổng hợp là sự phân chia kiến thức khái quát, phức tạp, trừu
tượng thành những kiến thức đơn giản hơn, dễ hiểu hơn, cụ thể hơn, nhờ đó
mà HS tiếp thu bài giảng một cách có hiệu quả. Nhưng phân tích khơng phải
là mục đích cuối cùng của việc truyền thụ ý thức. Giảng dạy nhằm cung cấp
tri thức hoàn chỉnh, đầy đủ cho HS hiểu và nắm vững kiến thức cơ bản. Mục
đích ấy được thực hiện bằng cách tổng hợp kiến thức. Tổng hợp sự kết hợp,
tái tạo các mối quan hệ của tri thức riêng lẻ trong tri thức chung và nắm lấy
toàn bộ trong sự thống nhất của chúng. Khơng giảng các tri thức riêng lẻ nhờ
phân tích thì HS khơng thể hiểu được tri thức cơ bản chung. Không giảng các
tri thức cơ bản chung nhờ tổng hợp thì HS khơng nhận thức đầy đủ và sâu sắc
tri thức riêng lẻ. Đó là lý do vì sao cần sử dụng kết hợp thao tác tư duy phân
tích và thao tác tư duy tổng hợp trong thuyết trình.
+ Quy nạp – Suy diễn
Trong day học, quy nạp được xem như PP chuyển từ tri thức về các sự
kiện riêng lẻ sang tri thức về cái chung; Khái quát các tri thức thành nguyên
lý chung phản ánh quy luật hoặc mối liên hệ cơ bản và tất yếu khác. Tuy
nhiên, quy nạp không đủ luận cứ để chứng minh, rút ra kết luận vì vậy GVcần
kết hợp quy nạp với suy diễn. Suy diễn không chỉ là PP chuyển từ tri thức
chung sang tri thức riêng mà còn từ mỗi kết luận đúng đắn trong số các chân
lý đã biết rút ra những chân lý mới nhờ các quy luật và các quy tắc của lơgíc
học. Quy nạp và suy diễn vận động theo hai hướng khác nhau, đối lập nhau. Sự
đối lập đó khơng chỉ ở chỗ: Quy nạp sự vận động từ cái riêng đến cái chung, còn
suy diễn từ cái chung đến cái riêng mà còn ở chỗ tri thức trong quy nạp mang
tính xác suất cịn tri thức trong suy diễn có tính chắc chắn. Song trong giảng dạy


19
chúng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau. Vì thế, GV cần kết
hợp hai thao tác tư duy này nhằm mang lại hiệu quả dạy học cao.
+ Lịch sử - lơgíc

Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan diễn ra theo trình tự thời gian và khơng gian nhất
định với tất cả tính nhiều vẻ, đa dạng của nó, bao gồm tất cả các bước quanh co,
phức tạp, tất yếu và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng. Lơgíc là phạm trù dùng
để chỉ cái chung cái tất yếu, cái bản chất và quy luật của quá trình phát triển lịch
sử của sự vật. Hay nói cách khác, lịch sử là phong phú là hiện tượng sinh động,
cịn lơgíc là bản chất, là sâu sắc. Hai thao tác trên bổ sung, hỗ trợ cho nhau giúp
chúng ta nhận thức sự vật ngày càng đầy đủ hơn, chính xác hơn.
+ Trừu tượng – cụ thể:
Cái cụ thể được dùng với hai nghĩa: Một là, cái cụ thể với nghĩa là sự
vật được nhận thức bằng cảm tính. Nó là tiền đề xuất phát của sự nghiên cứu.
Hai là, cái cụ thể với nghĩa là tri thức khoa học về cái cụ thể được nghiên cứu.
Nó được xem xét trong mối quan hệ với cái trừu tượng bởi vì nó phản ánh cái
cụ thể trong hiện thực bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù và quy luật. Cái
trừu tượng ngoài ý nghĩa là quá trình vận động của nhận thức, từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, cịn có ý nghĩa trừu tượng như là kết quả của
quá trình trừu tượng hóa để có khái niệm, phạm trù, nguyên lý. Cái trừu tượng
này chính là cái đã được khái quát hóa các thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Nó
là những nấc thang của sự nhận thức cái cụ thể. Vì vậy, cái trừu tượng này
khơng phải là mục đích của nhận thức mà chỉ là công cụ của tư duy để đi từ
trừu tượng đến cụ thể, nhằm phản ánh sự vật một cách đầy đủ hơn. Do đó, cái
cụ thể và cái trừu tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Tuy chúng có
khác nhau nhưng chỉ là khác nhau tương đối, bởi vì trong quá trình nhận thức,
giữa chúng ln ln có sự chuyển hóa lẫn nhau.


20
- Yêu cầu về nội dung:
Lựa chọn những kiến thức cơ bản và thiết thực. Trong mỗi bài giảng
bao giờ cũng có trọng tâm trọng điểm. Đó chính là những kiến thức cơ bản và

thiết thực của bài mà GV cần truyền thụ. Kiến thức cơ bản và thiết thực là
những kiến thức khái quát nhất, nêu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng và mối
quan hệ của chúng với nhau hoặc với các sự vật, hiện tượng khác, những kiến
thức giúp HS hiểu được những kiến thức khác và có thể lý giải, vận dụng vào
thực tiễn. Những kiến thức đó là những “Điểm nút”, “Sợi chỉ đỏ” xuyên suốt
toàn bài, giúp cho HS tư duy năng động và sáng tạo. Do đó, khi thuyết trình
bài giảng, GV luôn luôn phải bám sát kiến thức cơ bản và thiết thực, tránh
giảng lan man không đi sâu vào những chi tiết, dù đó là những chi tiết hấp
dẫn, dễ gây hứng thú cho HS. Để lựa chọn chính xác kiến thức cơ bản và thiết
thực của từng bài, GV cần phải nắm vững chương trình bộ mơn, kiến thức của
từng chương từng bài, vị trí, vai trị của từng bài trong chương và trong
chương trình, tìm ra mối liên hệ tất yếu giữa chúng...
- Yêu cầu về ngôn ngữ
Trong PP thuyết trình, lời giảng của GV giữ vai trị quyết định tới việc
lĩnh hội tri thức của HS. Lượng thông tin đầu tiên và cuối cùng về tri thức khoa
học và tư tưởng do GV cung cấp trực tiếp cho HS đều thông qua lời giảng.
+ Lời giảng phải chính xác rõ ràng
Tính chính xác, rõ ràng của lời giảng thể hiện ở việc sử dụng từ ngữ,
thuật ngữ chính xác, phát âm chuẩn mực, câu nói đúng ngữ pháp, ngắn gọn
mà xúc tích. Trong khi giảng khơng được sử dụng từ ngữ mập mờ, không rõ
nghĩa; Không nên dùng nhiều ngôn ngữ văn học thay cho thuật ngữ khoa học.
Tuy nhiên, GV cũng không nên hạn chế quá mức việc dùng từ ngữ làm cho
bài học nghèo nàn, không sinh động, không thể hiện đầy đủ nội dung bài học.


21
+ Lời giảng phải gợi cảm
Sức gợi cảm của lời giảng có tác dụng mạnh mẽ đến tình cảm và ý chí
của HS. Nếu GV khơng có cảm xúc đối với những nội dung trong lời giảng
của mình thì khơng thể hướng HS nhận thức đúng đắn tri thức khoa học, say

mê tìm tịi chân lý cái đúng sức gợi cảm của lời giảng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có tính hình tượng của lời giảng. Trong giảng dạy mơn
GDCD, GV có thể và cần sử dụng ngơn ngữ văn học, kể cả ca dao, thành ngữ,
tục ngữ làm cho bài giảng thêm sinh động, cuốn hút HS. Song khơng nên lạm
dụng vì đây là một bài giảng GDCD chứ không phải một bài giảng văn học.
Sức gợi cảm của lời giảng còn thể hiện ở ngữ điệu của GV. Thực tế cho
thấy, cùng một từ, một ý được GV diễn đạt theo những ngữ điệu khác nhau sẽ
đem lại ngữ điệu khác nhau. Đôi khi GV chỉ cần thay đổi giọng nói một chút
có thể làm cho HS tiếp thu bài thoải mái, nhẹ nhàng và sâu sắc hơn.
+ Tốc độ và cường độ của bài giảng phải phù hợp với đối tượng và
trình độ nhận thức của HS.
Yêu cầu của dạy học không chỉ làm cho HS hiểu kiến thức mà còn phải
hiểu sâu, rộng, nắm vững và vận dụng kiến thức vào hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Do đó, trong q trình giảng dạy, GV phải đảm bảo tốc
độ và cường độ của lời giảng sao cho HS nghe rõ ràng, ghi chép đầy đủ kiến
thức cần thiết. Tùy theo tri thức cần truyền thụ và lĩnh hội, GV có thể thay đổi
tốc độ và cường độ lời giảng để HS thu nhận được thơng tin một cách rõ ràng
và chính xác nhất.
1.1.2. Phương pháp nêu vấn đề
1.1.2.1. Khái niệm phương pháp nêu vấn đề
Trong lý luận dạy học PP nêu vấn đề cịn được gọi là PPDH giải quyết
tình huống có vấn đề, PP giải quyết vấn đề, PPDH nêu vấn đề là PP khơi dậy


22
cho người học khả năng độc lập trong tư duy, trong nhận thức nhằm hướng
tới mục tiêu biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Theo cuốn “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu
triết học” do thầy Phùng Văn Bộ (chủ biên) thì: “phương pháp nêu vấn đề là
phương pháp giảng dạy dùng lời nói hướng HS vào tình huống có vấn đề, nêu

vấn đề và tạo những điều kiện cần thiết để giải quyết vấn đề, cuối cùng kiểm
tra lại những vấn đề đã được giải quyết để đi đến kết luận” [4;91].
PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là hình thức
dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt
động một cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp những PP dạy và học có những
nét cơ bản của sự tìm tịi khoa học. Nhờ đó nó đảm bảo cho HS lĩnh hội vững
chắc những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực, năng lực sáng
tạo và hình thành cơ sở thế giới quan cho họ” [1;41].
Qua đây, chúng ta thấy dù các học giả trong và ngồi nước có cách tiếp
cận PPDH nêu vấn đề ở các khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung các quan
niệm đó đều khẳng định PP nêu vấn đề là một PPDH sáng tạo thơng qua các
tình huống có vấn đề. Qua đó người học thực hiện q trình tìm tịi khoa học
một cách tích cực, tự lực, sáng tạo dưới sự dẫn dắt giúp đỡ của GV. PPDH
nêu vấn đề có thể hình thành nhu cầu phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh,
kích thích óc sáng tạo của HS.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học, chúng tôi cho rằng:
PP dạy học nêu vấn đề là PP trong đó GV căn cứ vào nội dung dạy học để đặt
ra hay nêu lên cho người học một hay một số tình huống có vấn đề, sau đó
u cầu, kích thích, hướng dẫn HS tìm hiểu và giải quyết vấn đề của tình
huống đã cho nhằm kích thích tính tích cực, chủ động của HS và qua đó thực
hiện tốt nhiệm vụ dạy học của mình.


23
Thực chất của PPDH nêu vấn đề là GV phải tạo ra tình huống có vấn
đề, rồi từ đó tổ chức, điều khiển hoạt động của HS, giúp các em hình thành
thói quen tích cực, chủ động và độc lập suy nghĩ giải quyết vấn đề học tập.
PP nêu vấn đề chú trọng vào mục tiêu phát triển năng lực sáng tạo, tính
tự giác, tích cực của người học góp phần nâng cao hiệu quả của dạy học trong
bối cảnh hiện nay.

Dạy học nêu vấn đề đặt ra yêu cầu cao đối với GV khơng chỉ về trình
độ chun mơn mà còn cả về yếu tố đạo đức và nghiệp vụ nghề nghiệp. Bản
chất của dạy học nêu vấn đề là tạo ra bầu khơng khí sáng tạo trong học tập.
Do đó, GV khơng những phải biết khơi dậy các ý kiến phát biểu mà cịn phải
biết tơn trọng ý kiến của HS. Với mục đích tạo lập tính tích cực, chủ động
của HS nên GV không những cần chuẩn bị kỹ lượng cho việc tổ chức,
hướng dẫn HS mà cịn phải tạo ra khơng khí thân thiện để các em tranh luận,
phát biểu ý kiến.
Dạy học nêu vấn đề khơng chỉ đặt ra u cầu cao về trình độ nghiệp vụ,
về tri thức mà còn đặt ra yêu cầu cao về kỹ năng sư phạm của người dạy.
GV phải nắm vững tri thức trong giáo trình, am hiểu phương pháp luận của q
trình nhận thức khoa học nói chung và đặc thù nhận thức của bộ mơn mình
đảm nhận. Trong khi theo dõi cách thức triển khai và lơgíc giải quyết vấn đề
của HS, GV có thể đặt ra những câu hỏi phân biệt để HS bảo vệ ý kiến của
mình hoặc nhận thấy ý kiến của mình là chưa hợp lý. GV khơng đóng vai trị là
trọng tài khoa học mà chỉ đóng vai trị là người dẫn dắt, chỉ hướng.
PPDH nêu vấn đề có tác dụng kích thích tư duy độc lâp, sáng tạo, tìm tịi
phát hiện và giải quyết vấn đề. Khi HS tự khám phá ra những điều mới mẻ của
môn học họ sẽ hứng thú học tập, tự tin vào khản năng của mình. Hơn nữa, thông
qua phát biểu ý kiến, tranh luận; PPDH nêu vấn đề cịn góp phần rèn luyện khả
năng diễn đạt thuyết trình của HS.


24
Như vậy, bản chất của PP nêu vấn đề trong dạy học là tổng hợp những
hoạt động tương hỗ của GV và HS trong việc tạo ra tình huống có vấn đề của
GV; việc tìm hiểu, nhận thức, giải quyết vấn đề và trình bày, diễn đạt sự hiểu
biết và cách giải quyết vấn đề của HS.
1.1.2.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp nêu vấn đề.
* Ưu điểm của phương pháp nêu vấn đề:

Khi sử dụng PPDH nêu vấn đề thu hút sự chú ý của HS tới vấn đề đặt
ra hoặc lôi cuốn HS tự đưa ra các giả thuyết dưới sự gợi ý của GV. Khuyến
khích óc sáng tạo, say mê khoa học của HS, tạo điều kiện phát triển năng lực
tư duy tinh thần tự giác cũng như động cơ học tập và tinh thần trách nhiệm
của người học ngày càng nâng cao.
Với PPDH này GV đóng vai trị là người hướng dẫn, gợi mở cịn HS là
người chủ động tìm tịi và giải quyết vấn đề và thơng qua đó lĩnh hội được
kiến thức do chính mình phát hiện ra, nên khi sử dụng PP này sẽ đảm bảo cho
HS nắm được tri thức một cách vững chắc, sáng tạo, linh hoạt, đồng thời nắm
được cả PP tự học, từ đó, tạo nên sự nhiệt tình, hứng khởi cho HS trong quá
trình học tập, đồng thời sẽ ghi nhớ kiến thức đó lâu hơn.
Bên cạnh đó, với PPDH nêu vấn đề cịn giúp cho HS phát hiện tư duy và
khả năng điều tra khoa học. Đây là một trong những công việc bước đầu rèn
luyện khả năng nghiên cứu khoa học của HS khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
* Hạn chế của phương pháp nêu vấn đề:
Trong quá trình sử dụng PPDH nêu vấn đề thì GV cần nhiều thời gian
hơn, phải trang bị nhiều cơ sở vật chất hơn cho phòng học. Người GV khó
chủ động về mặt chương trình, kế hoạch và thời gian. PPDH này nếu người
dạy áp dụng mà khơng có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước và nếu khơng có tài
quản lý lớp tốt thì sẽ dễ rơi vào trường hợp thiếu thời gian, xa rời chủ đề và
kết luận không thỏa đáng.


25
Phương pháp dạy học nêu vấn đề không phải lúc nào cũng có thể áp
dụng cho tất cả các mơn học, nhất là những mơn học có tính trừu tượng và
khái quát cao. Đặc biệt, PP này sẽ chỉ phù hợp cho những HS có khả năng
làm việc độc lập, sáng tạo cao. Nếu GV quá lạm dụng PP này sẽ dẫn đến tình
trạng khơng đảm bảo chất lượng đồng đều trong HS. Những HS có chất lượng
học tập kém sẽ có tâm lý lo sợ, chán nản trong quá trình tiếp thu kiến thức.

1.1.2.3. Tình huống có vấn đề
* Khái niệm tình huống có vấn đề
- Theo I.Ia.Lecne: Tình huống có vấn đề là một khó khăn được chủ thể
ý thức rõ ràng hay mơ hồ mà muốn khắc phục thì phải tìm tịi tri thức mới,
phương pháp hành động mới. [19;138].
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: “Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lý
của sự khó khăn về trí tuệ xuất hiện ở con người khi họ trong tình huống của vấn
đề mà họ phải giải quyết nhưng khơng thể giải giải thích một sự kiện mới bằng tri
thức đã có trước đây mà họ phải tìm mọi cách thức hành động mới”[2;43].
Tình huống bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ với chủ thể nhận
thức, trong sự tác động lẫn nhau giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận
thức. Tình huống khoa học hoặc tình huống thực tiễn được cấu trúc lại một
cách sư phạm mà GV đưa ra để HS học tập được gọi là bài toán nhận thức
hay vấn đề học tập. Vấn đề học tập phải là vấn đề chứa đựng những kiến thức,
phương pháp của bài học mới sẽ trang bị cho HS thì mới tạo ra được sự thiếu
hụt về kiến thức và PP hiện có của HS trong giải quyết vấn đề. Điều đó làm
nảy sinh sự băn khoăn, day dứt trước vấn đề được nêu, nảy sinh lòng ham
muốn nhận thức, giải quyết vấn đề.
Như vậy, tình huống có vấn đề trong dạy học phải là những tình huống
chứa đựng những yếu tố mới mà HS phải có kiến thức mới (thuộc nội dung
dạy) hoặc tạo lập mối liên hệ những kiến thức đã học mới giải quyết được


×