Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung cấp nghề kỹ nghệ thanh hóa luận văn thạc sĩ khoa học quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.89 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THẢO

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG
CẤP NGHỀ KỸ NGHỆ THANH HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.05

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN GIA CẦU


2

VINH - 2011
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
“Cũng như sơng có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn.
Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân
dân” [2, 158]. Trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho nhân dân ta, đất nước ta không chỉ
một nền độc lập bền vững, một cuộc sống tự do, hạnh phúc mà còn cả những
tư tưởng vĩ đại, một tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng. Người đặc
biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Tại đại hội Sinh viên Việt


Nam lần thứ 2 (07/02/1958), Người đã từng nói: “Thanh niên bây giờ là một
thế hệ vẻ vang. Vì vậy, phải tự giác, tự nguyện cải tạo tư tưởng của mình để
xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài. Có
tài mà khơng có đức giống như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng
lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội mà
cịn có hại cho xã hội nữa…”. Đến khi viết Di chúc, Người vẫn dành một
phần quan trọng để bàn về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên và yêu
cầu: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa


3
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết [20, 36-37].
Hơn 20 năm kể từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới đất nước đã đem lại những thành tựu to lớn, mở rộng quan hệ quốc tế cả
về chính trị lẫn kinh tế, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách
thức. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (04/2001) tiếp tục nhấn mạnh 4 nguy
cơ, trong đó có nguy cơ: “Tình trạng tham nhũng và suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây
bất bình và giảm niềm tin trong nhân dân” [14, 15]. Thực tế cho thấy, nền
kinh tế thị trường vẫn đang có ảnh hưởng sâu sắc cả theo hướng tích cực lẫn
tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và hệ thống các giá trị, quy
phạm đạo đức nói riêng, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. Điều đáng lo
ngại là các tệ nạn xã hội đã xâm nhập vào trường học làm cho một bộ phận học
sinh chậm tiến bộ, khó giáo dục, thậm chí hư hỏng, phạm pháp... Trước tình
hình đó, việc tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh càng trở nên cấp thiết.
Từ nhận thức giáo dục đạo đức là nhân tố nâng cao giáo dục toàn diện,

Chỉ thị số 22/2005/CT - BGD & ĐT của Bộ Giáo dục - Đào tạo ngày 29 tháng
07 năm 2005 có đoạn: “Triển khai thực hiện Luật Giáo dục 2005 và giai đoạn
2 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010, tạo bước chuyển biến cơ
bản về quản lý giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục, thúc đẩy sự nghiệp
giáo dục phát triển toàn diện nhằm đáp ứng u cầu của cơng nghiệp hố và
hiện đại hoá đất nước…” và Hướng dẫn số 6744/BGD & ĐT ngày 04 tháng
08 năm 2005 chỉ rõ: “Đẩy mạnh giáo dục tồn diện, tăng cường giáo dục
chính trị tư tuởng, đạo đức cho học sinh…”. Đồng thời, Bộ Chính trị - Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động và triển khai rộng rãi cuộc vận


4
động lớn: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” từ ngày
03/02/2007 đến hết nhiệm kì khoá X. Sau hơn 2 năm thực hiện, nội dung và ý
nghĩa của cuộc vận động đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng và
hành động của các tầng lớp nhân dân.
Trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hố với quy mơ đào tạo ngày
càng mở rộng, số lượng HS ngày càng tăng. Vị trí nhà trường lại nằm trong
địa bàn trung tâm Thành phố Thanh Hố, khơng tránh khỏi ảnh hưởng của
mặt trái nền kinh tế thị trường nên vẫn cịn một bộ phận học sinh có kết quả
học tập và rèn luyện đạo đức yếu kém. Hưởng ứng cuộc vận động của Bộ
Chính trị, đội ngũ CBGV và HS nhà trường khơng chỉ tìm hiểu về tấm gương
đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà đã thể hiện sự “học tập”, “làm theo”
bằng những việc làm cụ thể bởi ở Bác; lời nói phải đi đôi với hành động, lý
luận gắn liền với thực tiễn, nói để mà làm. Đây thực sự là một qúa trình lâu
dài với nhiều khó khăn, thử thách; địi hỏi phải có các biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả hơn. Với những lý do khách quan và
chủ quan trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số biê ̣n pháp quản lý nâng
cao chất lượng giáo dục đa ̣o đưc cho học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ
́

nghệ Thanh Hố”.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua viê ̣c nghiên cứu lý luâ ̣n và khảo sát thưc trạng công tác giáo dục
̣
đạo đức học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá, luận văn đề
xuấ t những biê ̣n pháp quản lý giáo du ̣c đạo đức, góp phầ n nâng cao chấ t
lươ ̣ng giáo du ̣c toàn diê ̣n cho ho ̣c sinh của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá
3.2. Đối tượng nghiên cứu


5
Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học
sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hố
4. Giả thuyết khoa học
Cơng tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ
Thanh Hoá đã đạt được những kết quả đáng kể song giai đoạn hiện nay còn
nhiều bất cập. Việc nghiên cứu đề xuất và thực hiện được một số biện pháp
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh
Hoá phù hợp với thực tế của nhà trường thì kết quả giáo dục đào tạo nói
chung và giáo dục đạo đức nói riêng sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1: Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá.
5.2: Khảo sát thực trạng các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức của trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá và lý biện được
nguyên nhân của các thực trạng đó.
5.3: Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo

dục đạo đức cho học sinh của trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá.
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một số biên pháp quản lý nâng cao chất lượng
̣
giáo du ̣c đao đức học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá.
̣
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cưu lý luận:
́
Phương pháp này dùng để nghiên cứu các văn bản tài liệu với các thao tác
tư duy lơgíc như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, văn bản, văn
kiện ..... có nội dung liên quan đến đề tài để xây dựng các khái niệm công cụ
và tổng quan cơ sở lý luận phù hợp với việc quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường Trung cấp nghề trong giai đoạn hiện nay.


6
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp này dùng để nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hố. Từ đó làm cơ
sở cho việc đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức của nhà trường. Phương pháp này bao gồm: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi; - Phương pháp quan sát các hoạt động
giáo dục đạo đức của nhà trường; - Phương pháp phỏng vấn;
7.3. Phương pháp xử lý số liệu: Dùng phương pháp tốn thống kê, xử lý số liệu....
8. Những đóng góp của đề tài:
Dưới góc độ trường Trung cấp nghề lại mang đặc thù đào tạo nguồn
nhân lực kỹ thuật ở các cấp trình độ Trung cấp, sơ cấp nghề, bồi dưỡng thợ
bậc cao và nâng cao dân trí cho cộng đồng dân cư trong tỉnh, thì đây là lần
đầu tiên đề tài được thực hiện. Các biện pháp đề ra nếu được thực hiện thường
xuyên, đồng bộ, huy động được sức mạnh toàn thể CB, GV, NV trong nhà

trường theo đúng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận, có sự phối hợp chặt
chẽ các lực lượng nhà trường, gia đình và xã hội thì chắc chắn sẽ tạo dựng
nên một mơi trường giáo dục lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho các thế hệ HS trong trường. Từ đó khơng chỉ áp dụng riêng
trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh hố mà có thể nhân rộng ra tất cả các
trường Trung cấp nghề khác trên địa bàn tỉnh.
9. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận và kiến nghị, Tài liệu tham khảo,phụ lục,
nội dung của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cở sở lý luận lý luận của đề tài
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh ở trường Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hoá.


7
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Với tư cách là một bộ phận của tri thức nhân loại, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện hơn 20 thế kỷ trước đây trong tri thức Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại. Nó được hồn thiện và phát triển trên cơ sở các chế độ
kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Khổng Tử - nhà hiền triết thế kỷ VI trước cơng ngun đã khun học
trị của mình: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ơng mong muốn xã hội phát triển
bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Để thực hiện

những ý tưởng đó, ơng đề ra ngun tắc vua tơi, ơng bà, cha mẹ, con cháu đều
phải theo luật nước, phép nhà. Khổng Tử không phải là người đầu tiên bàn
đến đạo đức nhưng cơng lao chính của ơng là đã tổng kết được kinh nghiệm
thực tiễn của đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây dựng nên các học thuyết về
đạo đức. Học thuyết này còn nặng về về tư tưởng Nho giáo và ý thức hệ
phong kiến nhưng chứa đựng nhiều vấn đề đạo đức xã hội. Đó là ý thức đối
với bản thân, với xã hội, cách ứng xử và hành vi của con người [26, 15].


8
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo Phật do Thích Ca Mâu Ni
sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi trong đạo đức Phật
giáo là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục
con người được thông qua những truyền thuyết, sử thi, các di sản văn
hoá...nhằm đề cao những giá trị đạo đức con người. Đó là nữ thần Atina đẹp
như mặt trăng, đầy tình nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt (chúa
tể) có tài - đức vẹn tồn. Iliát - Ơđixê là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng
cao đẹp về tính trung thực, lịng dũng cảm, sự trong sáng và cao thượng trong
tình bạn, tình u. Tất cả những hình tượng đó đều là những phẩm giá đạo
đức tốt đẹp của con người [26, 16].
Ở Phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ. Đạo
đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ
đại. “Đạo” là con đường, đường đi, về sau khái niệm “Đạo” được vận dụng
trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. “Đạo” còn có nghĩa là đường
sống của con người trong xã hội. Khái niệm “Đức” lần đầu xuất hiện trong
“Kim văn” đời nhà Chu. “Đức” dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung, “Đức” là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý.
Khi bàn đến con người, C.Mác có một luận điểm khoa học rất tuyệt vời:

Ông coi con người là một hệ thống những năng lực thể chất và năng lực tinh
thần. Theo cách hiểu của Mác, đạo đức của con người thuộc về những năng
lực tinh thần và nhờ chúng mà những năng lực thể chất có định hướng phát
triển đúng đắn. Chủ nghĩa Mác đã khẳng định rằng: "Trong lịch sử phát triển
của xã hội lồi người có sự tồn tại quy luật đạo đức. Vì đạo đức được nảy
sinh, tồn tại, phát triển như là một tất yếu" [26,17]. Đồng thời, chủ nghĩa Mác
cũng khẳng định: "Cội nguồn của đạo đốc là từ lao động, từ những hoạt động


9
thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội, sáng tạo ra những giá trị có ích cho con
người, vì con người. Đó là quy luật sinh thành và phát triển của những quan
hệ đạo đức xã hội" [26,17].
Về nguồn gốc của đạo đức, chủ nghĩa Mác - LêNin đã chỉ ra rằng, đạo
đức không thể tách rời cuộc sống con người. Chính con người bằng hành
động thực tế và quan hệ xã hội, đồng thời qua kinh nghiệm lịch sử của mình
để xây dựng nên những tiêu chuẩn, giá trị của đạo đức. Như vậy, bản chất của
đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời sống con người
trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội.
Các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục cũng đã nghiên cứu, tìm hiểu
nhiều đến GDĐĐ cho học sinh.
GS.TS Phạm Minh Hạc trong cuốn “Phát triển con người tồn diện thời
kì cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội
dung, hình thức giáo dục đạo đức trong các trường học, củng cố ý tưởng giáo
dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong
việc giáo dục đạo đức cho con người, kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với
việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật; tổ
chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện
đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho cán bộ đảng viên, cho thầy cô
các trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã

hội về giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức cho mọi người” [21, 171-176].
GS.TS Đặng Vũ Hoạt - tác giả cuốn “Những vấn đề giáo dục học” nghiên
cứu vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong quá trình GDĐĐ và đưa ra một số
định hướng trong việc đổi mới nội dung và cải tiến phương pháp GDĐĐ cho
học sinh trường THPT .


10
PGS.TS Phạm Khắc Chương, trường đại học Sư phạm Hà Nội nghiên cứu
một số vấn đề GDĐD ở trường THPT, trong đó có cuốn “Rèn luyện ý thức
cơng dân”.
Nhìn chung, các tác giả đã xác định nội dung, định hướng giá trị và các
biện pháp GDĐĐ cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu về các biện pháp quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh ở trường
Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hóa. Vì vậy, đề tài này góp phần đưa ra các
biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh ở trường
Trung cấp nghề kỹ nghệ Thanh Hóa.

1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức.
1.2.1.1. Đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mois– lề thói, một phương
thức điều chỉnh hành vi con người. Đức đạo đòi hỏi các cá nhân phải chuyển
hố những địi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng thành nhu cầu,
mục đích và hứng thú hoạt động của mình. Biểu hiện của sự chuyển hoá này là
hành vi cá nhân tuân theo những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn
mực phù hợp với đòi hỏi của xã hội...Do vậy, sự điều chỉnh đạo đức mang tính
tự nguyện và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa chọn của con người.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của

các mối quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế
độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Trong xã
hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế
thừa nhất định, phản ánh “Những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng
đồng nào” (Lê Nin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình


11
thức liên hệ đơn giản nhất giữa người và người. Mọi thời đại đều lên án cái
ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội...và ca ngợi cái thiện, sự dũng
cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn...“Khơng ai nghi ngờ được rằng nói
chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri
thức của nhân loại” (Enghen). Vì vậy, quan hệ giữa người với người ngày
càng mang tính nhân đạo cao hơn.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức:
+ Tác giả Nguyễn Kim Bôi dẫn quan điểm học thuyết Mác – Lê Nin:
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và
đời sống cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Vì vậy, tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức
xã hội (đạo đức) cũng thay đổi theo. Và như vậy đạo đức xã hội ln mang
tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc” [5, 13].
+ Giáo trình “Đạo đức học” chỉ rõ: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội” [16, 8].
+ Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội) định nghĩa: “Đạo đức là
những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định hành vi quan hệ của con người
đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con
người theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định” [28, 211].

+ Theo tác giả Trần Hậu Kiểm: “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã hội” [24, 31].


12
+ PGS.TS Phạm Khắc Chương cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó
con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ xã hội giữa con
người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [7, 51].
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Tuy nhiên, có thể
hiểu khái niệm này dưới hai góc độ:
Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản
ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực. Đạo đức điều chỉnh
hành vi của con người cho phù hợp với lợi ích của người khác và của xã hội.
Góc độ cá nhân: Đạo đức là những phẩm chất của con người, phản ánh
ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với
người khác và với chính bản thân mình.
Đạo đức có ba chức năng cơ bản:
Chức năng giáo dục:
Chức năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ
bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người. Nó
giúp con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội vì trong
đời sống tinh thần của bất cứ xã hội nào cũng tồn tại hệ thống những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để định hướng cho con người. Hệ thống này
hình thành để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phù hợp với lợi ích
chung và lợi ích riêng của mọi người. Đồng thời, con người dựa vào đó để tự

điều chỉnh mình. Vì vậy, chức năng giáo dục đóng vai trị quan trọng nhất
trong việc hình thành nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên” [21, 20]


13
Chức năng điều chỉnh hành vi:
Chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức có tác dụng làm cho hoạt động
của con người phù hợp với lợi ích của xã hội, của cộng đồng. Thực tế đời
sống đa dạng, phức tạp nên chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành
vi đạo đức có vị trí rất quan trọng và cần thiết trong đời sống xã hội.
Xã hội muốn ổn định và phát triển, địi hỏi tính tự nguyện, tự giác của
mỗi con người. Xã hội càng văn minh thì tính tự giác của con người phải càng
cao. Những chuẩn mực đạo đức giúp con người điều chỉnh ý chí và hành vi
của mình nhằm đáp ứng yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thể hiện bằng hai hình
thức chủ yếu:
- Xã hội và tập thể cần tạo ra dư luận để khen ngợi, khuyến khích chủ thể
có đạo đức, có những hành vi tốt đẹp. Đồng thời, cần phê phán nghiêm khắc
và lên án những biểu hiện không lành mạnh, gây tác hại cho con người.
- Bản thân chủ thể đạo đức phải tự giác, tự nguyện điều chỉnh hành vi
của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Chức năng nhận thức:
Đạo đức là công cụ giúp con người nhận thức xã hội về mặt đạo đức. Các
quan điểm, tư tưởng, những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức vừa là kết quả
phản ánh tồn tại xã hội của con người vừa tác động trở lại đời sống con người.
Các chuẩn mực đạo đức là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp yêu
cầu phát triển của xã hội, tạo nên tính cách tốt đẹp của mỗi con người. Nó
được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những khuôn mẫu về

mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, điều chỉnh
bản thân.
Chức năng nhận thức có vai trị định hướng cho mọi hành vi của chủ thể
đạo đức. Chức năng nhận thức đã trang bị cho con người những tri thức lí


14
luận và thực tiễn đạo đức để con người nhận thức được lẽ phải, tránh những
cái xấu. Để thực hiện tốt chức năng này, mỗi người cần phải rèn luyện mình
trong đời sống để nhận biết những giá trị đạo đức. Đồng thời, xã hội cũng cần
có những biện pháp tuyên truyền, giáo dục cho mọi người có tri thức về đạo
đức, hiểu những chuẩn mực đạo đức trong xã hội.
1.2.1.2. Giáo dục đạo đức
“GDĐĐ là quá trình tác động tới đối tượng giáo dục để hình thành cho
họ ý thức tình cảm và niềm tin đạo đức cuối cùng quan trọng nhất là hình
thành cho họ thói quen đạo đức, đích cuối cùng quan träng nhất của giáo dục
đạo đức là tạo lâp những thói quen hành vi đạo đức”. [44, 157].
GDĐĐ về bản chất là một hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có mục
đích, nhằm biến hệ thống những chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên trong
của mỗi cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu thói quen của đối tượng giáo dục.
GDĐĐ có mối quan hệ chặt chẽ vớii tư tưởng chính trị. Từ đó làm cơ
sở hình thành cho HS, SV thế giới quan, nhân sinh quan Mác- Lênin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và định hướng chính trị theo quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“GDĐĐ là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm
vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, thói quen và hình thành ở học sinh các phẩm
chất đạo đức như lịng nhân ái, u tổ quốc, u lao động, tính trung thực,
khiêm tốn, tự trọng, dũng cảm… GDĐĐ gắn chặt với giáo dục tư tưởng chính
trị, giáo dục pháp luật, giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động hướng
nghiệp.[19, tr 120]

1.2.2. Quản lý, quản lý nhà trường và quản lý trường dạy nghề
1.2.2.1. Quản lý


15
Theo nghĩa chung, quản lý là sự tác động có mục đích, tổ chức, định
hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm tổ chức, phối hợp
hoạt động trong các quá trình sản xuất xã hội để đạt được mục đích đã đặt ra.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục, có
tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý)
lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hoá, kinh
tế … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện
cho sự phát triển của đối tượng” [11, 97].
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “Quản lý lột tả được bản chất của vấn
đề chính đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn và sửa sang, sắp xếp cho cộng
đồng theo sự phân công, hợp tác lao động được ổn định và phát triển” [3, 5].
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trơng coi và giữ gìn theo những
u cầu nhất định” [28, 439].
Như vậy, quản lý bao gồm 4 chức năng cơ bản:
- Chức năng kế hoạch
- Chức năng tổ chức
- Chức năng chỉ đạo
- Chức năng kiểm tra
1.2.2.2.Quản lý nhà trường
Trường học là một hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành q trình giáo
dục đào tạo. Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội trong đó diễn ra
q trình giáo dục đào tạo. Nhà trường là một bộ phận của cộng đồng xã hội
và trong hệ thống giáo dục quốc dân đó chính là cơ sở.
+ Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục

nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để


16
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh” [19, tr 71].
Có thể hiểu quản lý nhà trường bao gồm 2 loại:
- Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà
trường.
- Tác động của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường.
Như vậy, quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ
quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động
giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm
những chỉ dẫn, quyết định của những thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có
liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức
hội đồng giáo dục nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo
điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm
các hoạt động quản lý giáo viên, quản lý HSSV, quản lý quá trình dạy học,
giáo dục; quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học; quản lý tài chính;
quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý mối liên hệ giữa nhà
trường và cộng đồng.
Trường học là một hệ thống xã hội đặc trưng bởi quá trình giáo dục.
Giáo dục là q trình hình thành, hồn thiện nhân cách còn đào tạo là hướng
vào một nghề nhất định. Theo đó, từ trường phổ thơng đến các trường chun
nghiệp, dạy nghề người ta thường dùng là đào tạo. Các thành tố để tạo thành
quá trình giáo viên và đào tạo trong nhà trường, bao gồm:
+ Mục tiêu giáo dục, đào tạo
+ Nội dung giáo dục, đào tạo

+ Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đào tạo
+ Lực lượng giáo dục, đào tạo (gồm giáo viên, CBVC)


17
+ Đối tượng giáo dục đào tạo (người học)
+ Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo
+ Bộ máy tổ chức, quản lý
+ Môi trường đào tạo
Quản lý nhà trường là một bộ phận của QLGD nói chung, khơng có
trường học thì khơng thể có giáo dục đúng nghĩa của nó. Theo tác giả Trần
Kiểm “Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể là một chuỗi tác động hợp
lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức, sư phạm
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường nhằm tác động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham
gia vào mọi hoạt động của trường nhằm làm cho q trình này vận hành tối
ưu tới việc hồn thành những mục tiêu dự kiến” [22, tr 18].
Khái niệm trên cho thấy: Quản lý nhà trường là QLGD được tổ chức,
thực hiện ở trong một phạm vi không gian nhất định của một đơn vị giáo dục
- đào tạo – nhà trường. Quản lý với từng bậc học khác nhau, với loại hình
khác nhau để đảm bảo đạt được mục tiêu quản lý đặt ra. Tuy nhiên dù quản lý
nhà trường ở bậc học nào, loại hình trường nào thì cũng phải bảo đảm những
yếu tố cơ bản chung nhất là:
- Xác định rõ mục tiêu quản lý của nhà trường đó là những mục tiêu
hoạt động của nhà trường được dự kiến trước khi triển khai hoạt động. Mục
tiêu đó được cụ thể hóa trong kế hoạch năm học, chính là các nhiệm vụ, chức
năng mà nhà trường phải thực hiện trong năm học.
- Xác định cụ thể nội dung các mục tiêu, trên cơ sở đó hoạch định các
mục tiêu một cách tổng thể, chủ thể quản lý cụ thể hóa nội dung từng mục
tiêu, đây là những điều kiện để cho mục tiêu trở thành hiện thực khi được tổ

chức thực hiện trong năm học.


18
- Nhà trường là một cơ sở giáo dục - đào tạo, là một đơn vị độc lập, nhà
trường thực hiện sứ mệnh chính trị của mình là dạy học và giáo dục thế hệ trẻ.
Tóm lại: Quản lý nhà trường là một khoa học và mang tính nghệ thuật, nó
được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của khoa học quản lý, đồng
thời nó có những nét đặc thù riêng đó là những quy định ở bản chất của sự lao
động – lao động sư phạm của người giảng viên – bản chất của quá trình dạy
học – giáo dục, mà là đối tượng của nó là học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh
viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể hoạt động của chính bản thân mình. Sản
phẩm giáo dục - đào tạo của nhà trường là nhân cách học sinh, sinh viên được
rèn luyện, phát triển theo yêu cầu của xã hội. Có thể nói rằng quản lý nhà
trường là q trình tổ chức giáo dục - đào tạo hoàn thiện và phát triển nhân
cách học sinh, sinh viên một cách khoa học và có hiệu quả chất lượng tốt đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
1.2.2.3. Quản lý trường dạy nghề
Trường dạy nghề là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân,
thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Trường dạy nghề chịu sự quản lý Nhà nước thống nhất về dạy nghề của Bộ
LĐTB&XH. Trường dạy nghề chịu sự quản lý cơ quan ra quyết định thành
lập, đồng thời chịu sự quản lý theo lãnh thổ của ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở.
Quản lý trường dạy nghề là quản lý hoạt động dạy và học nhằm đạt
được mục tiêu đào tạo đã đề ra đó là q trình tập hợp các tác động tối ưu của
sự tác động, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp của các chủ thể
quản lý tập thể giáo viên, HSSV và cán bộ khác nhằm thực hiện nhiệm vụ
chính trị của nhà trường, trong đó hoạt động cơ bản nhất là quản lý hoạt động
dạy và học..

1.2.2.4. Quản lý giáo dục đạo đức


19
QL GDĐĐ là quản lý mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện GDĐĐ, đảm bảo cho quá trình GDĐĐ được tiến hành một cách
khoa học, đồng bộ, phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực xã hội, góp phần
hình thành nhân cách tồn diện cho HS.
Là một bộ phận của quá trình QL giáo dục, QL GDĐĐ là q trình tác
động có định hướng của chủ thể QL lên các thành tố tham gia vào quá trình
hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ là hình thành niềm
tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, tình cảm, hành vi, thói quen... Để thực hiện các
hoạt động GDĐĐ, cần phát huy sức mạnh của các lực lượng giáo dục như:
đội ngũ giáo viên, cán bộ QL và các bộ phận phục vụ trong nhà trường…
Trong đó, đội ngũ cán bộ QL là những người chịu trách nhiệm chính về tổ
chức các hoạt động động và chủ động phối hợp với các lực lượng giáo dục xã
hội để đảm bảo chất lượng GDĐĐ.
1.2.2.5. Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức
- Theo Từ điển Tiếng Việt: “Biện pháp là cách làm, cách biện quyết
một vấn đề cụ thể” [28, 64].
Biện pháp QL GDĐĐ là một loại biện pháp hành chính nhằm biện
quyết một vấn đề nào đó trong công tác GDĐĐ, chủ thể QL tác động đến đối
tượng QL theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Các Biện pháp QL GDĐĐ đóng vai trị quan trọng trong q trình quản
lí GDĐĐ của cán bộ QL. Các biện pháp được xây dựng trên cơ sở thực tiễn
của nhà trường nên nếu được vận dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả QL cao.
1.2.3. Chất lượng và chất lượng giáo dục đạo đức
1.2.3.1. Chất lượng
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Chất lượng là phạm trù triết học
biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định

tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính


20
khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngồi qua các thuộc tính.
Nó liên kết các thuộc tính của sự vật lại và gắn bó sự vật như một tổng thể
bao quát toàn bộ sự vật mà không thể tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn
cịn là bản thân nó thì khơng thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao
giờ cũng gắn liền với tính quy định về chất lượng của nó và khơng thể bên
ngồi tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất lượng và số lượng”[32,149].
Có nhiều quan điểm nhận định chất lượng khi nói về chất lượng giáo
dục. Có 6 quan điểm về đánh giá chất lượng mà có thể vận dụng vào nhận
diện chất lượng mọi hoạt động nói chung như: "chất lượng đánh giá bằng đầu
vào; chất lượng đánh giá bằng đầu ra; chất lượng đánh giá bằng giá trị gia
tăng; chất lượng đánh giá bằng học thuật; chất lượng đánh giá bằng văn hóa
tổ chức riêng và chất lượng đánh giá bằng kiểm tốn” [17,23]. Ngồi 6 quan
điểm về đánh giá chất lượng nêu trên cịn có các quan niệm về chất lượng
như sau:
- Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn nhất định
- Chất lượng là sự phù hợp với mục đích;
- Chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích
- Chất lượng là sự đáp ứng của nhu cầu khách hàng [17,28].
- Những năm gần đây, khái niệm chất lượng được thống nhất khá rộng
rãi là định nghĩa theo chuẩn quốc tế ISO 8402: 1994 do tổ chức Quốc tế về
tiêu chuẩn hóa (ISO) đã được đông đảo các quốc gia chấp nhận (và dựa vào
đó Việt Nam ban hành tiêu chuẩn TCVN 8402: 1999).
- Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng), tạo
cho thực thể đó khả năng thỏa mãn nhu cầu đã được đề ra. Trong đó thuận



21
ngữ “thực thể” hay “đối tượng” bao gồm cả sản phẩm theo nghĩa rộng: Một
hoạt động, một quá trình, một tổ chức hay một cá nhân [16,39].
Chất lượng là tương đối vì nó phụ thuộc vào quan điểm của từng cá
nhân, nó có từng mức độ.
Chất lượng là cái được con người tạo ra, theo ý muốn chủ quan của con
người, nó phụ thuộc vào mục tiêu, nhu cầu và túi tiền của người sử dụng sản phẩm.
Như vậy chất lượng có thể hiểu là mức độ đạt được của sản phẩm so
với mục tiêu đề ra từ trước và đáp ứng được yêu cầu sử dụng của khách hàng.
1.2.3.2. Chất lượng giáo dục đạo đức:
Ngày 29 tháng 8 năm 2007, Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành quy
định về cơng tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho học sinh,
sinh viên với mục đích rèn luyện và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống văn minh, tiến bộ, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh - sinh
viên và định ra 03 nội dung với 08 vấn đề cơ bản như sau:
*Nội dung cơng tác giáo dục phẩm chất chính trị
- Giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng cộng sản, niềm tin đối với sự lãnh
đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị.
- Giáo dục ý thức chấp hành các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Giáo dục thái độ tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội,
phân biệt, đánh giá các sự kiện chính trị, xã hội, nhận ra và phê phán những
âm mưu, thủ đoạn chính trị của các thế lực thù địch.
* Nội dung công tác giáo dục đạo đức


22
- Giáo dục lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, biết trân trọng các giá trị
đạo đức của dân tộc, xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tư cách, tác
phong đúng đắn của người công dân.

- Giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong các quan hệ xã hội, phê phán
những hành vi không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.
- Giáo dục hành vi đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, tác phong công nghiệp.
* Nội dung công tác giáo dục lối sống
- Giáo dục nhận thức, hành vi, thói quen của lối sống văn minh, tiến bộ,
phù hợp với bản sắc dân tộc Việt Nam.
- Giáo dục trách nhiệm của cá nhân trước tập thể và cộng đồng, biết
ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ, phù
hợp với bản sắc dân tộc, biết phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu,
ích kỷ.
Như vậy: Chất lượng GDĐĐ chúng ta có thể hiểu đó là đầu ra của sản
phẩm GD trong các nhà trường, là phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của
học sinh, sinh viên đã đạt được đáp ứng những yêu cầu, mục tiêu, nội dung,
phương pháp và phù hợp với yêu cầu giáo dục.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC.

1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức
Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Giáo dục hình thành, bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực công dân; đào tạo những người lao động có tay
nghề, năng động sáng tạo; có đạo đức, ý thức vươn lên góp phần làm cho dân
giàu, nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”


23
Vai trò của đạo đức và GDĐĐ trong sự nghiệp giáo dục – đào tạo được
đề cập đến trong các văn kiện đại hội Đảng tồn quốc. Báo cáo Chính trị tại
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã xác định phương hướng,
nhiệm vụ: “Thường xuyên bồi dưỡng về phẩm chất và năng lực cho đội ngũ

cán bộ giảng dạy và quản lý, coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
pháp luật” [27, 1023]. Đại hội Đảng lần VII (24/06/1991) chỉ rõ: “Mục tiêu
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực
hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội” và yêu cầu: “Coi trọng chất lượng giáo dục chính
trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hoá một bước nội dung,
phương pháp giáo dục” [12, 81-82]. Đại hội Đảng lần VIII (28/06/1996) nêu
định hướng phát triển giáo dục – đào tạo, trong đó có vấn đề giáo dục đạo
đức: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân
tộc và bản sắc văn hoá dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và
tiền đồ của đất nước” [13, 109]. Đại hội lần IX của Đảng (19/04/2001) nhấn
mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để đảm bảo sự nghiệp giáo
dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về con người và
nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy
lùi những hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo
dục lành mạnh” [14, 193-194]. Đến đại hội lần thứ X (25/04/2006), Đảng tiếp
tục khẳng định: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ
chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” và “Khắc
phục những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo dục” [15, 95-97].


24
Ngày 12/12/2001, Thủ tướng chính phủ ra quyết định số 201/2001/QĐ
về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010” đã nhấn mạnh:
“Thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mĩ” [1, 1]. Quy định về đạo
đức nhà giáo ban hành kèm theo Quyết định số 16/2008/QĐ – BGDĐT nêu rõ
mục đích: “Quy định về đạo đức nhà giáo là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực tự

rèn luyện phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh, đồng thời là một
trong những cơ sở đánh giá, xếp loại và giám sát nhằm xây dựng đội ngũ nhà
giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm nghề nghiệp
trong sáng, có tính tích cực học tập, khơng ngừng nâng cao chun mơn
nghiệp vụ và phương pháp sư phạm, có lối sống và cách ứng xử chuẩn mực,
thực sự là tấm gương cho người học noi theo” [1, 8].
Điều 2, Luật Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 38/2005/QH 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 chỉ rõ mục tiêu giáo
dục: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [25, 12].
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo
đức, Người đã tiếp thu những quan điểm đạo đức Mác - Lê Nin và làm một
cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người gọi đó là đạo đức mới - đạo đức
cách mạng: “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới,
đạo đức vĩ đại, nó khơng phải là danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người” [18, 337]. Quan điểm của Người về
đạo đức là những quan điểm khoa học, biện chứng, phù hợp với sự tiến hố
của xã hội lồi người. Để có được đạo đức cách mạng. Mỗi người phải chăm


25
lo tu dưỡng, kiên trì bền bỉ suốt đời: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời
sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng
cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [18, 10].
Hồ Chí Minh khẳng định những giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời
tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt là nội dung tư tưởng đạo đức

Mác – Lê Nin. Theo Người : “Đạo đức cách mạng là bất kì ở cương vị nào,
bất kì làm cơng việc gì đều khơng sợ khó, khơng sợ khổ, đều một lịng một dạ
phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh
thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” [18, 306].
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách
mạng phải có ĐĐCM làm nền tảng mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc, vì CNXH. Người quan niệm đạo đức
tạo ra sức mạnh, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi cơng việc, Người
nói: “Cơng việc thành cơng hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan
niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hố mặt
đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là người vơ dụng
nhưng có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc,
đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác. Từ khái niệm “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức
truyền thống của xã hội phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó


×