Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Miêu tả hệ thống ngữ âm tiếng việt thế kỷ XVII (trên tư liệu từ điển việt bồ la của a de rhodes) luận văn thạc sĩ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.68 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HỒNG

MIÊU TẢ HỆ THỐNG NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT THẾ
KỶ XVII(Trên tư liệu từ điển việt – bồ - la của A DE
RHODES)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH - 2011

MỞ ĐẦU

1


1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ trước đến nay, các cơng trình nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt đều nói đến sự
chia tách các âm tiết tiếng Việt thành ba bộ phận: thanh điệu (đơn vị siêu đoạn tính),
âm đầu và vần (đơn vị đoạn tính). Ở các ngơn ngữ châu Âu, nguyên âm và phụ âm
làm thành hai hệ thống song hành thì ở tiếng Việt, tương ứng với hai hệ thống ấy là
âm đầu và phần vần. Đây chính là một đặc điểm của ngữ âm tiếng Việt. Những hoạt
động ngôn từ của người Việt như đánh vần, tập đọc, nói lái, chơi chữ, hiệp vần trong
thơ… đều chứng tỏ điều đó. Cho đến nay, những cơng trình nghiên cứu về ngữ âm
tiếng Việt chủ yếu là ở mặt đồng đại đã thu được nhiều thành tựu nổi bật, rất đáng ghi
nhận. Thế nhưng, những nghiên cứu về ngữ âm lịch sử tiếng Việt là chưa nhiều. Vì
thế, nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt là một việc làm cần thiết để chúng ta nhìn
nhận được tiếng Việt đã có một lịch sử như thế nào? Sự ra đời của tiếng Việt có gì đặc
biệt, sự phát triển của nó trong tiến trình phát triển của lịch sử, các nhà ngữ học đã


nghiên cứu nó ở những phương diện nào… Hay nói cách khác, ngữ âm tiếng Việt xưa
và nay có gì giống và khác nhau?
1.2. Nghiên cứu hệ thống lịch sử ngữ âm tiếng Việt vốn là sự quan tâm của nhiều nhà
ngôn ngữ học trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để nghiên cứu hệ thống ngữ âm tiếng
Việt lịch sử, có nhiều hướng phục nguyên khác nhau như: từ hướng từ Hán Việt, theo
hướng tiền Việt Mường đến tiếng Việt hiện đại, có thể đi từ các ngôn ngữ họ hàng với
tiếng Việt, hoặc xi hay ngược dịng lịch sử…Trong những hướng tiếp cận ấy có
hướng dựa vào tư liệu chữ viết. Theo hướng này, người nghiên cứu có thể lấy chữ viết
làm cơ sở để phục nguyên lại hệ thống ngữ âm tiếng Việt trong lịch sử.
1.3. Tiếng Việt thế kỷ XVII được nhận diện nhờ các tài liệu chữ viết do các nhà
truyền giáo châu Âu (đặc biệt là các giáo sĩ Dòng Tên) ghi chép ở thế kỷ XVII. Trong
các tài liệu ấy, tài liệu được xem là quan trọng nhất là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La,
xuất bản tại Rô ma năm 1651 của A. de Rhodes. Sự ra đời của cuốn Từ điển Việt - Bồ
- La không chỉ đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ mà còn đặt một dấu mốc quan
trọng trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt nói riêng. Giá trị của cuốn Từ điển Việt - Bồ
- La không những ghi lại hệ thống từ vựng, phần nào cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt mà
2


chủ yếu từ các kí hiệu chữ viết được sử dụng có thể phục nguyên hệ thống ngữ âm –
âm vị học tiếng Việt thời kì này. Do đó, chúng tôi nhận thấy việc phục nguyên hệ
thống ngữ âm tiếng Việt trong lịch sử là hết sức cần thiết, dù đây là một vấn đề phức
tạp và gặp nhiều khó khăn. Nhưng chúng tôi hi vọng rằng: hệ thống ngữ âm tiếng Việt
là một vấn đề sẽ đem lại sự lí thú, sự hấp dẫn cho người nghiên cứu cũng như người
đọc. Vì thế, chúng tơi mạnh dạn chọn đề tài Miêu tả hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ
XVII dựa trên tư liệu Từ điển Việt - Bồ - La (1651) của A.de Rhodes.
2. Lịch sử vấn đề
Nhiều năm nay, ngữ âm tiếng Việt được giới nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm (bao
gồm các nhà ngôn ngữ học nước ngoài và các nhà Việt ngữ học). Thực tế cho thấy, đề
cập đến ngữ âm tiếng Việt là đề cập đến cả âm đầu, vần và thanh điệu; do đó khi

nghiên cứu chúng, các nhà ngữ học đã đem đến cho chúng ta nhiều hướng nghiên cứu,
hướng tiếp cận khác nhau: có khi nghiên cứu một cách tổng thể, có khi nghiên cứu
từng phần một. Dù nghiên cứu bộ phận âm đầu, vần, thanh điệu hay tổng thể về ngữ
âm tiếng Việt thì các nhà ngữ học cũng phải căn cứ vào nhiều nguồn tư liệu khác
nhau, trong các nguồn tư liệu ấy thì tư liệu về chữ viết được xem là một căn cứ xác
đáng. Vì thế, ngay từ đầu thế kỷ XX một số nhà ngôn ngữ học đã dựa vào tư liệu chữ
viết để nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt như H. Maspero (1912) dựa vào An Nam
dịch ngữ kết hợp với một số tư liệu khác đặt vấn đề Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng
Việt – các âm đầu. Năm 1953, 1954, A. G Haudricourt từ hướng tiếp cận tiền Việt Mường đến tiếng Việt hiện đại để nghiên cứu lịch sử ngữ âm tiếng Việt và đã chỉ ra
mối tương quan của phụ âm đầu, phụ âm cuối với quá trình hình thành hệ thống thanh
điệu tiếng Việt. Cũng cách tiếp cận ấy, các tác giả như: M. Perlus (1975, 1981, 1995),
Phạm Đức Dương (1979, 1983), Trần Trí Dõi (1987, 1991, 2005) cũng đã nghiên cứu
hệ thống ngữ âm tiếng Việt một cách khá công phu. Tác giả Vương Lộc (1995) cũng
dựa vào An Nam dịch ngữ để phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XV XVI. GS Nguyễn Tài Cẩn (1995) đã dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau như: tư
liệu về chữ Nôm, tư liệu chữ Hán, tư liệu về các phương ngữ thổ ngữ, Từ điển Việt Bồ - La… để tái lập hệ thống ngữ âm tiếng Việt trong mười thế kỷ.
3


Bên cạnh đó, nhiều tác giả cũng đã sử dụng Từ điển Việt - Bồ - La (1651) của A.
de Rhodes để nghiên cứu những vấn đề ngữ âm cụ thể, đề cập đến vài hiện tượng ngữ
âm riêng lẻ. Cơng trình nghiên cứu Hệ thống ngữ âm tiếng Việt trung đại của J.
Gregenrson (1969) là cơng trình đầu tiên phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế
kỷ XVII một cách có hệ thống và chi tiết. Tuy nhiên, cách phục nguyên của J.
Gregenrson dựa vào một giải thuyết âm vị học có phần khơng phù hợp với đặc trưng
ngữ âm – âm vị học của tiếng Việt. Gần đây, có một số cơng trình nghiên cứu về ngữ
âm tiếng Việt thế kỷ XVII nhận được sự hưởng ứng của người đọc đặc biệt là những
người quan tâm tới ngôn ngữ học như: Phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ
XVII (trên cơ sở Từ điển Việt - Bồ Đào Nha – Latin của Alexandre de Rhodes) của
G.S Nguyễn Văn Lợi. Có thể nói, cơng trình của Nguyễn Văn Lợi đã phục nguyên khá
đầy đủ cả ba phần âm đầu, vần và thanh điệu. Tuy nhiên, cách phục ngun của tác

giả đơi chỗ cịn chung chung chưa đi sâu vào miêu tả cụ thể từng âm đầu, vần, thanh
điệu về số lượng, cơ cấu phát âm, những biến đổi của nó trong tiếng Việt hiện nay.
Như vậy, mỗi cơng trình đem đến cho chúng ta những kết quả khác nhau về quy
mô và mức độ. Dù ở mức độ nào, chính những kết quả ấy là cách nhìn nhận, quan
điểm, lập trường của người nghiên cứu và đã vẽ lại bức chân dung của hệ thống ngữ
âm tiếng Việt trong nhiều thế kỷ, đặc biệt là thế kỷ XVII được xem như một dấu mốc
quan trọng trong q trình phát triển của tiếng Việt. Chính những cơng trình nghiên
cứu trên là chỗ dựa hết sức quan trọng để chúng tơi vận dụng vào q trình nghiên
cứu trong đề tài của mình. Nhận định được những vấn đề trên, luận văn chúng tôi dựa
vào kết quả phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII của J. Gregenrson,
của Nguyễn Văn Lợi nhưng có thêm một vài bổ sung, thay đổi trong giải thuyết âm vị
học nhằm xác định các đặc trưng ngữ âm - âm vị học tiếng Việt thế kỷ XVII. Với đề
tài này, ở một mức độ nhất định, chúng tôi cố gắng phục nguyên lại hệ thống ngữ âm
tiếng Việt thế kỷ XVII một cách chi tiết và đầy đủ. Hi vọng những cố gắng của chúng
tơi sẽ đem lại một cái nhìn cụ thể và chi tiết về âm đầu và vần của tiếng Việt trong
một thời kì lịch sử.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII qua
tư liệu chữ viết, cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của A.de Rhodes.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi đặt ra cho luận văn phải giải quyết được những vấn đề sau đây:
- Từ những kết quả nghiên cứu về ngữ âm tiếng Việt, xác lập và miêu tả hệ thống
âm đầu tiếng Việt thế kỷ XVII.
- Từ những nghiên cứu về ngữ âm tiếng Việt, xác lập và miêu tả hệ thống vần tiếng
Việt thế kỷ XVII.
- Từ các kết quả khảo sát, bước đầu hình dung các xu hướng biến đổi ngữ âm tiếng

Việt từ thế kỷ XVII đến nay.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
a. Tư liệu chữ viết
- Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes năm 1651 (chủ yếu)
- Phép giảng tám ngày của A. de Rhodes (1651)
- Từ điển Việt – La của Pigneau Behaine (1772)
- Sách sổ sang ghi chép các việc của Philiphê Bỉnh (1822)
- Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (1885, 1886)
- Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (2009)
b. Tư liệu về phương ngữ, thổ ngữ
- Các phương ngữ thuộc vùng phương ngữ Bắc Bộ
- Các phương ngữ thuộc vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ
- Các phương ngữ thuộc vùng phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp thông kê ngôn ngữ học
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Các thủ pháp phân tích, miêu tả tổng hợp.
5


5. Đóng góp của luận văn
- Dựa vào tư liệu về chữ viết, từ các kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ góp phần phục
nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII.
- Ngữ âm tiếng Việt từ thế kỷ XVII cho đến nay có sự chuyển biến cả hệ thống cho
đến các đơn vị cụ thể. Do đó, các kết quả của luận văn sẽ góp phần thêm tư liệu để có
thể hình dung diến trình phát triển của hệ thống ngữ âm tiếng Việt qua hơn ba thế kỷ.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn triển khai

thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2. Hệ thống âm đầu tiếng Việt thế kỷ XVII
Chương 3. Hệ thống vần tiếng Việt thế kỷ XVII

Chương 1. Những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài
1.1. Vài nét về chữ quốc ngữ
6


1.1.1. Tiểu dẫn
Nói đến chữ Quốc ngữ là nói đến thứ chữ mà chúng ta đang sử dụng ngày nay,
nó là loại chữ dùng những mẫu tự Latinh ghép thành. Nhưng trước khi sử dụng chữ
Quốc ngữ, chúng ta đã sử dụng chữ Hán và chữ Nôm, tuy hai thứ chữ này từ nguồn
gốc đến quá trình hình thành, tồn tại và phát triển hoàn toàn khác chữ Quốc ngữ. Chữ
Hán có nguồn gốc từ tiếng Hán, chữ Nơm là chữ mà dựa trên chữ Hán, cha ông ta
sáng tạo ra, còn chữ Quốc ngữ là những mẫu tự Latinh ghép lại, được bắt đầu hình
thành khi các nhà giáo sĩ người Âu sang truyền giáo ở nước ta. Xét một cách tổng
quan, chữ Quốc ngữ dễ sử dụng và thuận lợi hơn chữ Hán và chữ Nôm, bởi chữ Quốc
ngữ là thứ chữ viết ghi âm, do vậy, xét về mặt khách quan nó dễ nhớ, dễ thuộc. Ở đây,
chúng tơi khơng có ý định bàn luận những ưu điểm, nhược điểm của chữ Quốc ngữ.
Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, chúng tôi chỉ bàn đến quá trình hình thành,
các giai đoạn phát triển và quá trình vận động để trở thành văn tự chính thức của chữ
Quốc ngữ.
1.1.2. Sự hình thành chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang sử dụng không phải do người Việt sáng tạo ra mà
công lao này phải kể đến các giáo sĩ phương Tây. Nhiều người thắc mắc: tại sao chữ
viết tiếng Việt lại do người nước ngoài sáng tạo ra mà không phải do người Việt sáng
tạo ra, điều này có nguyên do của nó. Ngay từ khi có chữ viết, nước ta sử dụng chữ
Hán cũng là một thứ chữ mượn của người Hán, sau đó, trên cơ sở chữ Hán ông cha ta

đã sáng tạo ra chữ Nơm. Nhưng cũng chỉ một thời gian sau đó, chữ Quốc ngữ dần
được phôi thai trên đất nước ta nhằm phục vụ cho mục đích truyền đạo của các giáo sĩ
phương Tây. Đến thế kỷ XIX, đất nước ta bị thực dân pháp xâm lược, việc sử dụng
chữ Hán và chữ Nôm không được phổ biến rộng rãi mà thay thế vào đó là sự phổ biến
ngày càng rộng rãi của chữ Quốc ngữ.
Theo Đoàn Thiện Thuật, từ những thí nghiệm phiên âm ban đầu đến khi hình thành
hệ thống chữ viết được gọi là chữ Quốc ngữ, nếu tính đến thời gian phải mất hai thế
kỷ: từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Quá trình hình thành này có sự đóng góp của các
giáo sĩ phương tây đến truyền đạo ở nước ta. Lúc đầu, các giáo sĩ dùng chữ viết quen
7


thuộc của họ để ghi chép tiếng Việt, học tiếng Việt, một công cụ thuận lợi cho công
việc và mục đích truyền giáo của họ. Thực ra, họ khơng có ý định sáng tạo ra một thứ
chữ viết riêng cho người Việt trên cơ sở chữ viết của họ, tất cả chỉ vì mục đích của họ,
điều này được ghi nhận qua những thiếu sót có tính ngun tắc trong cấu tạo hệ thống
của chữ viết tiếng Việt ngày nay.
Từ những năm đầu tiên, khi bắt đầu công việc ghi chép tiếng Việt, các giáo sĩ có
những cách ghi chép không giống nhau. Chẳng hạn: cùng một địa danh nước mặn,
Gaspar Luis ghi là Nouecman (1621) nhưng Cris-tooro Borri ghi là nuoecman (1631);
cùng một âm tiết ông trong ông trùm hay ông nghè, giáo sĩ đầu gi là on (on trum),
giáo sĩ sau ghi là om (om gne). Thậm chí, cũng là cách ghi của một tác giả về những
âm tiết có thành phần âm vị như nhau nhưng cách ghi khơng giống nhau. Ví dụ trong
câu tui chẳng biết, chẳng được ghi là ciam (tui ciam biet). Tuy nhiên, âm tiết chăng
trong câu Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoà lan chăng được ghi là chiam (Con gnoo
muon bau tlom laom Hoalaom chiam). Đương nhiên, quá trình hình thành và phát
triển của chữ Quốc ngữ trải dài theo thời gian (từ giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX) nó ngày được ghi thống nhất hơn, minh chứng là sự ra đời của
những cuốn Từ điển được sử dụng như cơ sở cho việc học tập tiếng Việt của các giáo
sĩ châu Âu trong thời gian trên. Đặc biệt là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La (dictionarium

anami - ticum - lusitanum et Latinum) và cuốn Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn
chịu phép rứa tọi ma beào đạo thánh đức chúa blời của giáo sĩ Alexan dre de Rhodes.
Cuốn Từ điển Việt - Bồ - La (1651) ra đời có cơ sở là từ hai cuốn từ vựng được viết
bằng tay Việt - Bồ Đào Nha của Gaspar de Amiral và Bồ Đào Nha - Việt của Antonio
de Barbosa, nhưng nó là một dấu mốc quan trọng trong quá trình hình thành chữ Quốc
ngữ. Đây là cuốn từ điển đầu tiên, tiêu chuẩn hoá một hệ thống chữ Quốc ngữ.
Cuốn Từ điển Việt - Bồ - La được viết bằng một bộ chữ cái về cơ bản giống như chữ
cái mà ngày nay chúng ta đang dùng, chỉ một vài trường hợp nhỏ lẻ con chữ ghi hơi
khác như: “b” biểu thị một âm hai môi, âm “∫” ghi âm xát quặt lưỡi. Bên cạnh đó, một
số cách ghi cũng khác với cách ghi ngày nay như: ∫óũ = sống, tlão = trong, ∫aũ le =
8


song le… Có thể, một người nước ngồi dùng chữ Latin để ghi tiếng Việt ở thế kỷ
XVII cịn có một vài lẫn lộn về chính tả là điều đương nhiên.
Hệ thống chữ cái và cách ghi âm tiếng Việt ngày càng thống nhất qua một số tư liệu
ở thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. Đến Đại Nam quấc âm tự vị (1895) của Huình Tịnh
Paulus Của, Từ điển Việt - Latinh và Latinh - Việt của Taberd, Từ điển Việt - Pháp của
Génibrel (thế kỷ XIX) chữ Quốc ngữ gần giống hệt ngày nay.
1.1.3. Các giai đoạn phát triển của chữ Quốc ngữ
Để có được hệ thống chữ Quốc ngữ như ngày nay, từ lúc ra đời cho đến bây giờ,
chữ Quốc ngữ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tựu trung lại, chúng ta có thể hình
dung quá trình phát triển của chữ Quốc ngữ chia làm ba thời kì: thời kì sáng tạo, thời
kì xây dựng, thời kì phát triển.
a. Giai đoạn phơi thai (sáng tạo): từ năm 1621
Chữ Quốc ngữ không phải ngẫu nhiên từ những phiên âm tiếng Việt mà có, nó
được hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ phương Tây, họ muốn la tinh hố
các chữ Á Đơng nằm trong địa bàn truyền giáo của họ. Giai đoạn sáng tạo ra chữ
Quốc ngữ ở Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn nhỏ.
- Giai đoạn phiên âm

Theo giáo sĩ Christofora Borri câu: Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian
có nghĩa là: Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?, câu này được các giáo sĩ
đàng trong đã dùng trước khi ơng có mặt tại đây. Có lẽ đó là dịng chữ xuất hiện đầu
tiên trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ. Danh từ Hoa Lang không biết từ đâu
mà có nhưng được người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha,
và sau đó dùng để chỉ chung các nhà truyền giáo phương Tây. Sau đây là một số từ
được giáo sĩ Christoforo Borris dùng trong khoảng từ 1618 đến 1621, chúng được in
trong một quyển sách của ông năm 1631 tại La Mã.
Phiên âm

Nghĩa

Anam

An Nam

Tunchim

Đông Kinh

Ainam

Hải Nam
9


Kemoi

Kẻ mọi


Quignin

Quy Nhơn


Năm 1621, linh mục Gaspa viết một bản tường trình gửi cho linh mục Mutio cũng
phiên âm như sau: cacham (kẻ chàm), Nuocman (Nước mặn), Bancô (Bàn Cổ)…
Năm 1631, trong hai tài liệu của Đắc Lộ có một số phiên âm như: Thinhũo
(Thanh Hoá), Anná (An nam), sai (sãi), mía (mía – nhà tạm trú)…
Bên cạnh những tài liệu trên cịn có một số tài liệu khác cũng đã bắt đầu có sự
phiên âm chữ Quốc ngữ, nhưng đó chỉ là những sự manh nha đầu tiên trong các năm
từ 1621 đến 1631. Trong mười năm ấy, chúng ta thấy sự phiên âm khơng mấy tiến
triển, chưa có một sự thống nhất nào. Chẳng hạn, cùng một phiên âm xứ Thanh nhưng
các giáo sĩ có những cách khác nhau:
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)…
- Giai đoạn cấu tạo câu
Giai đoạn này được tính từ năm 1632, với những phiên âm của Gasparod’Amiral đã
có sự đóng góp của ơng rất lớn đối với sự hình thành chữ quốc ngữ. Hơn thế, những
tài liệu sau đây của ơng cũng cho thấy nó là cơ sở quan trọng để A.de Rhodes sau này
soạn thảo cuốn Từ điển Việt - Bồ - La.
Bảy năm ở Đàng ngoài, Gasparo d’Amiral để lại hai tài liệu liên quan đến chữ Quốc
ngữ. Tài liệu một, ông viết tại Kẻ Chợ ngày 31-12-1632 nhan đề: “Annua do reino de
Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, visitator das
Provincias de Japan, e China” (bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm
1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng tên, giám sát các tỉnh Nhật và trung Hoa). Tài
liệu này hiện lưu trữ tại văn khố dịng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như:
Tun kim: Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão: Đàng Trong

Đàng ngoày: Đàng Ngoài
10


Đàng tlên: Đàng trên…
Tài liệu thứ hai cũng soạn tại Kẻ Chợ ngày 25- 3- 1637, có nhan đề: “ Relacam dos
Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias,
Vissitador de Jappão e China” (Tường thuật về các thầy giảng của giáo đoàn Đàng
Ngoài và các cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và
Trung Hoa). Tài liệu này hiện lưu trữ tại Văn Khố Hàn lâm Viện sử học Hồng gia
Madrid Bồ Đào Nha, gồm có một số phiên âm: sãy: sãi; đức: đức; thầy: thầy; định:
định; nhin: nhơn; Nghệ an: Nghệ An…
Trong hai tài liệu trên, tài liệu thứ nhất có khoảng 400 chữ phiên âm, chưa được
thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Tài liệu thứ hai, một số chữ viết giống hệt hiện
nay. Như vậy, khoảng cách 10 năm đã cho ta thấy Gasparo d’ Amiral đã có những tiến
bộ so với các giáo sĩ trước đó.
Giai đoạn này cịn có sự đóng góp rất lớn của linh mục Đắc Lộ (A. de Rhodes),
người được Pháp đề cao là sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Trước đây, từ năm 1621 đến
1631 ơng có ba tài liệu về chữ Quốc ngữ, giai đoạn từ 1636 đến năm 1647 ơng cũng
có ba tài liệu khá về chữ Quốc ngữ. Tài liệu thứ nhất viết năm 1636 có nhan đề “Lịch
sử Đàng Ngồi và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước
nầy để cải hoá lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636”, bản này ghi bằng La Văn,
gồm hai quyển, lưu trữ tại văn khố Dòng Tên ở La Mã. Tài liệu này có một số phiên
âm như: kin (kinh), Annam (An Nam), uan (văn)…Tài liệu thứ hai năm 1644, Đắc Lộ
viết bằng Bồ Văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: “Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của
Thầy giảng An- Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm
ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu này có những phiên âm như: Ounghebo,
Oũnghebo (Ông Nghè Bộ). Tài liệu thứ ba năm 1647, được Đắc Lộ viết bằng La Văn
tại macassar ngày 4-6-1647, có nhan đề: “cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới
biển của Đắc llọ thuộc Dịng Tên), có một số phiên âm như: Ciam (Chàm), Ranran

(ran ran), Ké han (Kẻ Hàn)…
Chúng ta cũng phải ghi nhận công lao của một giáo sĩ khác đó là Linh mục Antonio
Barbosa, mặc dù ông không để lại tài liệu chữ quốc ngữ nào nhưng Đắc lộ đã cho biết
11


sự đóng góp của ơng như sau: Tơi lợi dụng cơng việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc
Dịng Tên, nhất là của Gasparo d’ amiral và Antonio Barbosa. cả hai ông nầy, mỗi
ông đều làm một cuốn Từ điển. Ong Gasparo d’ Amiral làm cuốn Annamiticum –
Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum – Annamiticum. Nhưng tiếc
rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lới dụng công việc của cả hai ơng viết ra cuốn Từ
điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học theo tiếng
La Tinh theo lệnh của các đức hồng y.
Bên cạnh sự đóng góp của các giáo sĩ Phương Tây, sự hình thành chữ Quốc ngữ
cịn phải kể đến cơng lao của người Việt. Có thể nói rằng, trong quá trình hai linh mục
Gasparo và Antonio soạn hai quyển Từ điển, chắc hẳn sẽ có sự đóng góp ít nhiều của
giáo dân Việt Nam. Ngoài ra, trong thời kì này có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam
ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mổ thức rửa tội, do 31
linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện thần học tại Áo Môn năm 1645. Tài liệu này là
một bản la văn do các linh mục Dịng tên soạn, có nhan đề: “Chung quanh mô thức
rửa tội bằng thổ ngữ An Nam”. Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi
như sau:
“ Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng
ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh ch etc-tơy là Giu ão câi
trâm cũ ghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tơy là Ben tị vẫn triền cũ ghi bậi – tôy
là Phe ro uẫn nhit cũ ghi bậi-tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi-tôy là Gi-ro-ni-mo cũ
nghi bậi-tôy là I-na sô cũ nhi bậi-tôy là tho-me cũ nghi bậi-tôy là Gi-le cũ nghi bậitôy là lu-i-si cũ nghi bậi-tôy là Phi-lip cũ nghi bậi-tôi là Do-minh cũ nghi bậi-tôy là
An-ton cũ nghi bậi-tôy là Giu ão cũ nghi bậi” ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to
Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn
ý làm mộy thì phải nói: nhwn danh Cha vân vân. Tơi là Giu an cai (?) Trâm cũng nghĩ

vậy-Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy-Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy-Tôi là Phê
rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy- Tlà An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô
cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi
12


líp cũng nghĩ vậy - Tơi là Đơ Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi
là Giu an cũng nghic vậy”.
Tài liệu trên đã cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình
hình thành chữ Quốc ngữ.
Như vậy, chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, giai
đoạn sáng tạo ra chữ Quốc ngữ từ năm 1621 đến đây chấm dứt để chuyển sang một
giai đoạn mới.
b. Giai đoạn phát triển (xây dựng): từ 1651
Những năm đầu khi chữ Quốc ngữ mới hình thành, nó bộc lộ nhiều hạn chế đó là:
chưa có các thanh (huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng), được viết dính vào nhau và cịn thiếu
nhiều ngun âm. Ví dụ:
Quanmguya = Quảng Ngãi
Onsaij = ông sải
Mocaij = một cái
Giai đoạn đầu, các phụ âm đơn: đ, x, v vẫn còn thiếu nên các phụ âm này nó được
viết như sau: D = đ (đói = doij), Sc = x (xin = scin), B = v (vào = bau)…
Không những thế, các phụ âm kép cũng thiếu, do đó chúng được ghi gn = nh, cia =
ch.
Đến năm 1626, theo tài liệu của Francesco Buzomi, chữ Quốc ngữ đã được viết rời
ra. Ví dụ: thiên chu = thiên chũ (thiên chúa), ngạoc huan = ngọc hoàng…
Năm 1632, hệ thống các phụ âm, nguyên âm và các dấu thanh đã trở nên đầy đủ.
Theo tài liệu của Amaral, có một số từ như sau: đàng tlão = đàng trong, đàng ngoày =
đàng ngoài, đàng tlên = đàng trên… Như vậy, đến đây, chữ Quốc ngữ đã thật sự có
một bước tiến dài trong lịch sử phát triển, bởi nó đã có năm dấu thanh: huyền, sắc,

hỏi, ngã, nặng; có các nguyên âm: a, ă, â, e, ê,…; các âm kép: au, ưa, âĩ…và các phụ
âm kép: nh, ch, ng,…
Có thể nói, chữ Quốc ngữ thật sự trưởng thành và tạo được dấu ấn đặc biệt khi
quyển Từ điển Việt - Bồ - La và quyển giáo lí Phép giảng tám ngày (1651) của A. de
13


Rhodes ra đời. Đây là một dấu mốc thực sự quan trọng của chữ Quốc ngữ, bởi nó đã
tiêu chuẩn hoá một hệ thống chữ Quốc ngữ. Từ điển Việt - Bồ - La gồm có ba phần:
- Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio (phần ngữ pháp
tiếng Việt được soanbằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương):
Chương 1: chữ và vần trong tiếng Việt
Chương 2: dấu nhấn và các dấu
Chương 3: Danh từ
Chương 4: Đại danh từ
Chương 5: các Đại danh từ khác
Chương 6: Động từ
Chương 7: những phần bất biến
Chương 8: cú pháp
- Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina
declaratione.
Phần này không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm hai cột, có tất cả
900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng.
Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như
mẫu tự b, nên được xếp sau mẫu tự b). Mỗi chữ Việt được giải mã theo thứ tự chữ Bồ
rồi mới đến chữ La tinh.
- Phần III. Index Latini sermonis
Phần này, mỗi trang chia làm hai cột, khơng có ghi số trang và số cột, nhưng có tất
cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ Latinh, bên cạnh
mỗi chữ có ghi số cột của chữ Latinh ấy ở phần II.

Như vậy, Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes khơng những đã hệ thống hố
phương pháp ghi âm ngơn ngữ Việt Nam mà cịn là một tác phẩm căn bản, để từ đó
Việt ngữ được hợp lí hố các âm như ngày nay.
Cùng với thời gian, chữ Quốc ngữ được chỉnh đốn dần để ngày hoàn hảo hơn. Cụ
thể, đến năm 1772, Từ điển Annam - Latin ra đời, đó là cơng lao của P. de Béhaine
(còn được gọi là Bá Đa Lộc) cùng với sự cộng tác của Hồ Văn Nghi và một số người
14


Việt khác. Bộ Từ điển này gồm có hai phần: phần tra chữ Nôm theo 214 bộ chữ Hán
và phần từ điển Nôm - Quốc ngữ - Latin. Phần tra chữ Nôm dạy về cách đọc chữ Nôm
theo bộ và số nét. Phần thứ hai là từ điển tiếng Việt ghi theo lối viết Nôm và chữ Quốc
ngữ, sắp xếp theo mẫu tự abc. Số lượng từ trong phần này là 4843 từ đơn và mấy chục
ngàn từ ghép. Tất cả đều được ghi và giải nghĩa bằng chữ Latin. Như vậy, những cải
tiến mà quyển Từ điển này làm được là: thống nhất các phụ âm đầu, loại bỏ các phụ
âm bl, de, ge, ml, tl và thống nhất các phụ âm cuối. Bên cạnh đó, vì được sự cộng tác
của nhiều người Việt Nam nên quyển Từ điển này có nhiều câu ca dao tục ngữ hay và
có giá trị như:
- Sá bao cá chậu chim lồng
Hễ người quân tử có cùng mới nên
- Duỗi theo ống thẳng lận theo bầu tròn
- Bụng làm dạ chịu
- Cháu đẻ ra ông ...
Năm 1832, cùng với sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam,
Taberd đã sử dụng và bổ sung quyển Từ điển của P. de Béhaine để hoàn tất hai quyển
từ điển: Annam – Latin và Latin – Annam. So với những quyển từ điển trước đó, Từ
điển của Taberd có số từ nhiều hơn 4959 từ.
c. Giai đoạn phát triển: từ 1862 trở về sau
Từ trước cho đến 1862, chữ Quốc ngữ chỉ được sử dụng trong phạm vi truyền giáo,
sau khi Pháp xâm chiếm được Nam kì làm thuộc địa, chữ Quốc ngữ đã trở nên thông

dụng hơn để làm phương tiện tiện cai trị, do đó người Pháp ra sức phổ biến chữ Quốc
ngữ để thực hiện mục đích của mình. Hơn nữa, nếu so với chữ Hán và chữ Nơm thì
chữ Quốc ngữ dễ học hơn, vì thế mà nó ngày càng được phổ biến và thông dụng hơn.
Sự phát triển của chữ Quốc ngữ còn được thể hiện qua việc giai đoạn này có nhiều
tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ được ấn hành như các tác phẩm Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tự điển song ngữ của Trương Vĩnh
Ký…Đặc biệt là cuốn Đại Nam quấc âm tự vị của Hùinh Tịnh Paulus Của (1895).
Quyển từ điển này, đến nay còn lưu hành với 7537 từ đơn, chứa nhiều từ ngữ xưa mà
15


ngày nay khơng cịn được sử dụng nữa hoặc được sử dụng với một tần số thấp ở các
thổ ngữ, phương ngữ. Vì vậy, nó được xem là một tài liệu vô cùng quý giá. Cùng với
việc ấn hành một số tác phẩm trên, nhiều tờ báo viết bằng chữ Quốc ngữ cũng được
lưu hành như: Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nhật trình Nam kì (1883),
Nam kì địa phận (1883)… Những ấn hành trên chứng tỏ sự phát triển vượt bậc của
chữ Quốc ngữ ở giai đoạn này so với giai đoạn trước.
Chữ Quốc ngữ đã đi qua nhiều chặng đường khác nhau để có được như ngày hơm
nay. Q trình phát triển của chữ Quốc ngữ đã góp phần to lớn trong việc bảo tồn và
phát huy nền văn hoá nước nhà. Chữ Quốc ngữ dễ học, vì thế đơng đảo quần chúng có
thể thưởng thức những tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm đã được Quốc ngữ hố. Mặt
khác, có sự hỗ trợ của các phương tiện in ấn nhiều tác phẩm chữ Quốc ngữ đã được
phát hành rộng rãi, tạo điều kiện cho văn học phát triển nhân dân cũng có điều kiện
tiếp xúc nhiều hơn.
1.1.4. Quá trình vận động để trở thành văn tự chính thức
Như chúng tơi đã đề cập sơ qua ở phần trên, để trở thành văn tự chính thức của nước
Việt Nam, chữ Quốc ngữ đã có một quá trình vân động khơng ngừng. Mỗi giai đoạn
khác nhau trong lịch sử, chữ Quốc ngữ có chỗ đứng và phạm vi khác nhau.
Từ giữa thế kỷ XVI, các giáo sĩ đi trên các đoàn thuyền truyền đạo Thiên chúa bắt
đầu tới Việt Nam. Các giáo sĩ Dòng Tên, chủ yếu là người châu Âu, thuộc các nước

khác nhau đến Việt Nam với mục đích truyền giáo, nhiều nhất là vào thế kỷ XVII.
Tuy nhiên, các nhà truyền giáo muốn tiếp xúc với người Việt để giảng đạo và truyền
cơ đốc giáo buộc họ phải học tiếng Việt; vì thế họ đã dùng bộ chữ cái Latin dựa vào
chữ Bồ Đào Nha và Ý cùng một số dấu Hy Lạp để ghi âm tiếng Việt, tạo ra chữ Quốc
ngữ ban đầu; đó là cơ sở để họ tiếp xúc dễ dàng với người Việt, thuận lợi cho việc
giảng đạo. Đến thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ đã được chỉnh lí thống nhất giữa hai miền,
bằng chứng là sự ra đời của quyển Từ điển Việt - Bồ - La (1651) của A. de Rhodes,
nhưng chữ Quốc ngữ chỉ mới dùng trong các bài giảng đạo và trong các giáo đường,
nhưng người Việt có thể viết bằng chữ Quốc ngữ và trình bày những suy nghĩ lớn
bằng chữ Quốc ngữ như: tập Lịch sử nước Annam của Bento Thiện viết tay từ năm
16


1659, hiện còn lưu giữ tại Văn khố dòng ở Rôma; tập Lịch sử nước An - nam dài 12
trang, viết chữ nhỏ, khổ giấy 20 × 29 cm.
Thế kỷ XVIII, có nhiều người biên soạn từ điển, từ vựng đối chiếu tiếng Việt - tiếng
nước ngoài như: Từ điển Bồ Đào Nha - Việt Nam (chưa in) của giáo sĩ Mácxen
Pherâyra, Từ điển Latin - Việt Nam của giáo sĩ Feliciano Alonso chép tay năm 1783…
Thực tế, chữ Quốc ngữ thế kỷ XVIII cũng chỉ ở phạm vi thu hẹp được các giáo sĩ biên
soạn nhằm chỉnh lí ngày càng thống nhất hơn để thuận lợi cho việc truyền đạo ở hai
miền Nam Bắc. Đến thế kỷ XIX, cụ thể là: năm 1858, khi thực dân Pháp nhảy vào
Việt Nam với ý đồ biến nước ta thành một thuộc địa của chúng. Sau đó, bọn chúng
chiếm được Nam kì (1862); chúng đã dùng chữ Quốc ngữ như một công cụ trong các
công văn giấy tờ bắt đầu từ lục tỉnh, sau đó phổ biến rộng hơn qua việc chúng lập nên
các trường học chữ Quốc ngữ (khoảng đầu thế kỷ XX). Thực dân pháp sử dụng chữ
Quốc ngữ làm thứ chữ chính thức trong cả nước với mục đích củng cố nền chính trị và
mở rộng chế độ bảo hộ của chúng trên đất nước ta. Như vậy, chữ Quốc ngữ khơng cịn
ở phạm vi hẹp là truyền giáo mà nó đã trở thành một phương tiện cai trị nên người
Pháp đã ra sức phổ biến chữ Quốc ngữ, do đó chữ Quốc ngữ trở nên phổ thơng. Tuy
nhiên, giai đoạn đầu cịn gặp những khó khăn bởi sự chống đối cương quyết không

chịu hợp tác với kẻ thù của một số chí sĩ u nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Trường Tộ… nhất quyết không học chữ Quốc ngữ. Sau một thời gian, những người
yêu nước nhận thấy những lợi ích của chữ Quốc ngữ nên đã sử dụng nó làm cơng cụ
để truyền bá tư tưởng cách mạng và văn hoá đến với nhân dân nhằm đánh đổ chế độ
thuộc địa, giành lại độc lập tự do. Vì thế, nhiều tờ báo đã sử dụng chữ Quốc ngữ làm
phương tiện để đăng tải các thông tin, chẳng hạn như: Gia Định báo xuất bản ở Sài
Gòn từ năm 1865, Phan Yên báo (1868), Nhật trình Nam kỳ (1883), Nam kì địa phận
(1883), Nơng cổ mín đàm (1901)…Có thể nói, từ cuối thế kỷ XIX vắt sang đầu thế kỷ
XX, chữ Quốc ngữ chiếm ưu thế và ngày càng khẳng định được chỗ đứng, phổ biến
rộng rãi ở đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, sự phát triển của văn học từ 1900 đến năm 1945
phần nào chứng minh được sự phát triển rất nhanh chóng của chữ Quốc ngữ.
17


Mặc dù 45 năm đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ đã trở nên phổ biến nhưng nó chỉ là
một phương tiện cai trị của thực dân Pháp và là phương tiện để cho chúng ta làm vũ
khí đấu tranh, nó vẫn chưa được cơng nhận là văn tự chính thức của nước Việt Nam.
Đến năm 1945, từ ngày 2- 9 khi đất nước ta giành được độc lập, chữ Quốc ngữ lúc đó
mới trở thành văn tự chính thức của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Quốc tự), được
sử dụng trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Như vậy, chữ Quốc ngữ đã góp
phần to lớn trong công cuộc bảo tồn và phát huy nền văn hoá nước nhà. So với chữ
Hán và chữ Nơm, chữ Quốc ngữ dễ học hơn, do đó, đại đa số nhân dân được thưởng
thức văn học chữ Hán, chữ Nơm đã được Quốc ngữ hố. Phương tiện ấn lốt cũng đỡ
tốn kém, vì thế, nhiều tác phẩm mới được phổ biến rộng rãi, chữ Quốc ngữ còn được
điện toán hoá tạo điều kiện cho tiếng Việt phát triển ngày càng toàn diện hơn.
1.2. Cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes
Từ điển Việt - Bồ - La của A. de Rhodes được biên soạn, xuất bản ở Rôma năm
1651. Từ điển Việt - Bồ - La được xem như một cơng trình đầu tiên khởi xướng về
nhiều mặt: 1) Đó là quyển từ điển tiếng Việt đầu tiên; 2) Đó là cơng trình khởi phát
cho cơng cuộc từ vựng học tiếng Việt; 3) Đó là cơng trình phản ánh trung thực hệ

thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII. Ở cơng trình này, ngữ âm tiếng Việt được phân
tích đến những yếu tố ngữ âm nhỏ nhất là âm vị. Lần đầu tiên, người ta thấy mỗi
thanh điệu tiếng Việt được ghi bằng một dấu. Nên nhớ rằng, chữ Nơm khơng có dấu
ghi riêng cho thanh điệu và đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà chữ Nôm ghi lại là âm tiết chứ
không phải âm vị. Trong Từ điển Việt - Bồ - La, tác giả còn nghiên cứu tổng quan về
tiếng Việt gồm 6 chương, trong đó có hai chương dành cho các báo cáo vắn tắt về ngữ
âm tiếng Việt: Chữ và vần (chương 1), thanh và dấu đặt ở nguyên âm (chương 2). Hai
chương này đều miêu tả ngữ âm của từng chữ cái dùng để ghi tiếng Việt và đề cập các
dấu dùng để ghi thanh điệu mà tác giả gọi là limh hồn của chương này. Do đó, Từ
điển Việt - Bồ - La được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Một loạt cơng
trình nghiên cứu ngôn ngữ lấy Từ điển Việt - Bồ - La làm đối tượng khảo sát như cơng
trình của các tác giả: Gregenson (1969), H. Maspero (1912), Vương Lộc (1995),
Nguyễn Ngọc San (2003)… đã khai thác các vấn đề về ngữ âm tiếng Việt được phản
18


ánh trong Từ điển Việt - Bồ - La. Chúng tôi cũng dựa vào Từ điển Việt - Bồ - La để
miêu tả hệ thống ngữ âm tiếng Việt thế kỷ XVII trong sự đối sánh với các phương ngữ
và tiếng Việt hiện đại.
1.3. Âm tiết và các đơn vị ngữ âm tiếng Việt
1.3.1. Âm tiết tiếng Việt
1.3.1.1. Khái niệm âm tiết
Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngơn ngữ [Hồng Phê, Từ
điển tiếng Việt 2009, tr. 22]. Theo một số nhà âm vị học, âm tiết chỉ là đơn vị ở vào vị
trí ít được quan tâm, đơn giản chỉ là một đại lượng do các âm vị tổ hợp với nhau theo
một quy tắc nhất định mà thành. Connr H. và Trim Y. L. N: về mặt âm vị học tốt hơn
hết là nên xem âm tiết như một đơn vị cấu trúc, trong đó thể hiện một cách tiết kiệm
nhất các khả năng tổ hợp giữa các nguyên âm và phụ âm. R. Jakobson cho rằng: âm
tiết là mơ hình cơ bản trong bất kì sự tổ hợp nào giữa các âm vị /Dẫn theo Nguyễn
Hoài Nguyên, [ , tr.8]/. Cách hiểu này đã tồn tại lâu dài trong lịch sử nghiên cứu ngôn

ngữ ở Châu Âu. Như vậy, nếu hiểu theo cách hiểu trên thì âm tiết chỉ có chức năng
làm cái tổ cho các âm vị có sẵn liên kết tụ họp lại với nhau để tạo nên vỏ âm thanh của
từ ngữ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy âm tiết âm tiết có ba chức năng cơ bản sau: 1/ là
đơn vị nhỏ nhất dùng để tạo thành lời nói và cũng là đơn vị nhỏ nhất để tiếp nhận lời
nói thành tiếng, b/ âm tiết là đơn vị nhỏ nhất trong cơ cấu nhịp điệu của lời nói, c/
trong một số ngơn ngữ âm tiết có thể có chức năng tạo lập vỏ tiếng cho các đơn vị
ngôn ngữ ở cấp độ hình thái, vì thế nó có thể xem như một đơn vị đặc biệt của hệ
thống ngôn ngữ. Chức năng (a) và (b) là phổ quát cho mọi ngơn ngữ, cịn chức năng
(c) chỉ có ở một số ngơn ngữ thuộc loại hình ngơn ngữ âm tiết tính (đơn lập). Âm tiết
tiếng Việt có chức năng (c).
Như vậy, trong ngôn ngữ học, âm tiết là một đơn vị khá phức tạp cho nên có nhiều
cách nhìn nhận khác nhau trong quá trình nghiên cứu về âm tiết: nhìn nhận từ bình
diện cấu âm - âm học hay từ bình diện chức năng ngơn ngữ học. Tuy nhiên, R. K
Potarova (1975) đã đưa ra một định nghĩa có tính chất bao hàm như sau: Đó là một
tổng thể các đơn vị đoạn tính và siêu đoạn tính, tạo thành một cấu trúc tương đối ổn
19


định mang những đặc trưng khách quan nhất định (về cấu âm và âm học), hoạt động
trong lời nói và được người bản ngữ phân định ra trong quá trình tiếp nhận dòng ngữ
lưu.
1.3.1.2. Cấu trúc âm tiết và các dơn vị ngữ âm tiếng Việt
a. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt
Chúng ta đều biết, âm tiết tiếng Việt không phải là một khối đơng kín bất khả phân
mà là một chỉnh thể có cấu trúc từ các yếu tố nhỏ hơn. Có thể dựa vào các sự kiện như
cấu tạo từ láy, iếc hố, nói lái, hiệp vần trong thơ, mơ phỏng ngữ âm… âm tiết tiếng
Việt có thể tách thành ba bộ phận trực tiếp tạo thành là âm đầu, phần vần, thanh điệu.
Phần vần được tách ra bằng các ranh giới ngữ âm học thuần tuý thành ba yếu tố: âm
đệm, âm chính và âm cuối. Cấu trúc âm tiết tiếng Việt có thể hình dung bằng sơ đồ
sau:

thanh điệu
vần
âm đầu
âm đệm

âm chính

âm cuối

Sơ đồ trên cho thấy, ba bộ phận âm đầu, vần và thanh điệu được tách ra nhờ các sự
kiện cấu tạo từ láy, iếc hố, nói lái và mơ phỏng ngữ âm có liên quan đến hình thái
học (cấu tạo từ) hay đây là hiện tượng hình âm âm vị học. Cịn phần vần được tách ra
thành ba yếu tố: âm đệm, âm chính và âm cuối nhưng chỉ dựa vào những ranh giới
ngữ âm học thuần t. Theo chúng tơi, có thể phân tích cấu trúc âm tiết tiếng Việt
theo sơ đồ sau:
Âm tiết
20



×