Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Hình tượng tổ quốc trong thơ ca kháng chiến việt nam (1945 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.52 KB, 60 trang )

Khố luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

Lời nói đầu
Để hồn thành đề tài này, chúng tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
thầy Ngơ Thái Lễ, các thầy cơ giáo trong
tổ văn học Việt Nam hiện đại và bạn bè
gần xa.
Nhận dịp đề tài này hồn thành
chúng tơi xin gửi tới các thầy cô và tất
cả bạn bè lời cảm ơn chân thành nhất !
Sinh viên
Nguyễn Thị Lê

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

1


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.


1.1. Trong tiến trình phát triển của thơ các Việt Nam, bộ phận thơ ca
viết về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ
chiếm một vị trí đặc biệt. Nó góp phần đưa nền văn học mới của chúng ta trở
thành một đỉnh cao: Xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của nền văn
học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay.
Thơ ca kháng chiến qua những bước thăng trầm, phát triển đi lên. Như
nhiều nhà nghiên cứu thơ kháng chiến đã trình bày, thơ kháng chiến là một
dịng xiết trong thơ cách mạng nói chung nửa thế kỷ qua. Bằng những thành
tựu của nó, thơ ca kháng chiến như nhà thơ Tố Hữu nhận xét: “Tơi hồn tồn
đồng tình với ý kiến cho rằng, thơ ca cách mạng xứng đáng đứng ở vị trí hàng
đầu trong nền văn học chống đế quốc, đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc”
[12, 150].
1.2. Trong mảng thơ ca kháng chiến thì mảng thơ viết về Tổ quốc là
mảng thơ để lại nhiều ấn tượng nhất đối với người đọc. Bởi đọc và học thơ
viết về Tổ quốc chúng ta cảm nhận được biết bao điều thú vị. Tổ quốc Việt
Nam vô cùng đẹp đẽ, với muôn ngàn chiến công để tự hào, để ngợi ca. Tố
Hữu viết:
"Đẹp vô cung Tổ quốc ta ơi !
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

2


Khố luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê




Nắng chói sơng Lơ hị ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt, Bến nước Bình ca"
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hùng của thế kỷ hai mươi
(Tố Hữu)
Tổ quốc ta, con người ta còn được khắc hoạ cụ thể hơn, sâu sắc hơn
qua các hình tượng nghệ thuật.
1.3. Hình tượng Tổ quốc rất quên thuộc trong thơ ca dân tộc, nhưng có
thể nói hình tượng này đã được thơ ca kháng chiến thể hiện một cách tập
trung với nhiều nét mới. Nó khơng cịn là hình tượng mang tính trừu tượng,
ước lệ như thời quá khứ, mà nó hiện lên rất cụ thể, rõ nét, phản ánh đúng bản
chất của cuộc kháng chiến với tất cả dáng vẻ tự nhiên cùng những chiến công
hiển hách.
1.4. Những bài thơ kháng chiến viết về Tổ quốc gắn với tên tuổi của
những nhà thơ lớn như Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa
Điềm, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Viễn Phương, Lê Anh Xuân... Tuỳ theo
phong cách và bút pháp của từng nhà thơ mà họ đưa đến cho chúng ta những
bài thơ hay, độc đáo về Tổ quốc.
Tổ quốc Việt Nam đẹp giàu, anh dũng:
"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mơng biển lúa bầu trời đẹp
Cánh cị bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều"
(Ta đi tới - Tố Hữu)
"Vinh Quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hồ"
(Hoan hơ chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại


3


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Tổ quốc Việt Nam gắn bó như máu thịt, chứa chan tình cảm:
"Ơi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc ! Nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông"
(Chế Lan Viên)
1.5. Mảng thơ kháng chiến viết về Tổ quốc cũng là mảng thơ có nhiều
bài thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam được nhiều người ưa thích và được đưa
vào chương trình phổ thông trung học. Chẳng hạn: Nguyễn Khoa Điềm với
Đất nước (trích Mặt đường khát vọng); Hồng Cầm với Bên kia sông Đuống ;
Tố Hữu: Sáng tháng năm, Việt Bắc, Mẹ Tơm, Bầm ơi ! Người con gái Việt
Nam; Chào Xuân 61, Chào Xuân 68, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên,... Chính
Hữu: Đồng chí; Nguyễn Đình Thi: Đất nước; Huy Cận; Các vị La Hán chùa
Tây Phương; Chế Lan Viên; Người đi tìm hình của nước; Viễn Phương:
Viếng Lăng Bác v.v...
Hình tượng Tổ quốc trong thơ ca kháng chiến là đề tài có ý nghĩa thiết
thực với cơng việc giảng dạy và nghiên cứu hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học ở trường phổ thông .
Đề tài này giúp chúng tôi hiểu và cảm nhận một cách phong phú hơn về
hình tượng Tổ quốc trong thơ kháng chiến.
2. Lịch sử vấn đề.

Hình tượng Tổ quốc trong thơ ca kháng chiến Việt Nam đã trở thành đề
tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, thể hiện ở những cơng trình
nghiên cứu, các bài báo, bài đánh giá trên nhiều phương diện khác nhau xoay
quanh vấn đề này.
Ban đầu mới chỉ là những bài báo đăng trên các tạp chí như: Hình ảnh
Bác Hồ qua những chặng đường thơ Tố Hữu (Nguyễn Văn Hạnh - tạp chí văn
học số 6, 1969; Hình ảnh Bác Hồ qua thơ Tố Hữu (Tế Hanh, tạp chí tác phẩm
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

4


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

mới, số 9 - 1970); Tổ quốc ta,nhân dân ta sự nghiệp ta và người nghệ sĩ
(NXB văn học, HN 1973). Về những bài thơ tình của Tố Hữu (Trần Đương,
Báo Tuổi trẻ Thủ đơ, 7 - 1990).
Hầu hết những bài viết trên đều chưa nghiên cứu trọn vẹn về hình
tượng Tổ quốc trong thơ ca kháng chiến cả trên hai lĩnh vực nội dung và hình
thức. Tuy nhiên, bước đầu, những bài viết này đã mở ra những hướng tiếp cận
đề tài mới cho sau này.
Tiến đến, năm 1998 Nguyễn Duy Bắc trong công trình “Bản sắc dân
tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 - 1975) (NXB văn hoá dân tộc Hà
Nội - 1998). Ở đây, tác giả chủ yếu đi vào những biểu trưng về Tổ quốc trong
thơ ca cách mạng Việt Nam (1945 - 1975), những biểu trưng ấy được khám
phá rất cụ thể, độc đáo, đó là một loạt các biểu trưng như làng nước, người

anh hùng dân tộc vĩ đại Hồ Chí Minh, người mẹ. Với cơng trình này Nguyễn
Duy Bắc mới chỉ đưa ra và khắc hoạ hình tượng Tổ quốc qua các biểu trưng.
Rõ ràng, đây vẫn chưa phải là cơng trình hồn chỉnh về đề tài trên.
Cơng trình nghiên cứu gần đây nhất của Vũ Duy Thông: Cái đẹp trong
thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975 (NXB GD - 2001). Có thể nói ơng là
người đưa đến cho chúng ta cái nhìn tương đối hồn chỉnh về hình tượng Tổ
quốc trong thơ kháng chiến. Ở đây, hình tượng Tổ quốc, được đề cập đến với
nhiều khía cạnh khác nhau, và đặc biệt là nó được đặt trong tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc. Ngay từ thời quá khứ Tổ quốc Việt Nam đã hiện lên
trong dáng vẻ tự nhiên đẹp đẽ, giàu mạnh, có truyền thống văn hố, văn hiến,
lịch sử hào hùng. Hồ vào dịng chảy của lịch sử Tổ quốc Việt Nam qua hai
cuộc kháng chiến dần dần lộ rõ và khoắc lên mình nó bộ cánh khá hồn chỉnh
về cả nội dung và hình thức. Cho đến nay, có thể xem đây là cuốn tài liệu tiêu
biểu thể hiện tương đối thành công về đề tài này.
Cùng thời gian, cịn có một số bài viết khác Tổ Quốc Việt Nam, con
người Việt trong thơ Tố Hữu (Chế Lan Viên trong Tố Hữu về tác giả và tác
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

5


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

phẩm, NXB GD, 2001). Tuy nhiên, bài viết này Chế Lan Viên cũng chỉ giới
hạn hình tượng Tổ quốc trong thơ Tố Hữu.
Như vậy, với đề tài này, các bài báo các cơng trình nghiên cứu mà

chúng tôi đã nhắc đến ở trên vẫn chưa khắc hoạ được một cách sâu sắc, có hệ
thống hình tượng Tổ quốc trong thơ kháng chiến. Chọn đề tài này, chúng tơi
mong muốn nói rõ hơn về biểu hiện của hình tượng Tổ quốc về cả nội dung
và hình thức.
3. Nhiệm vụ của khố luận.
Đi vào tìm hiểu hình tượng nghệ thuật trong thơ kháng chúng tôi thực
hiện những nhiệm vụ sau:
1. Hiểu và nêu lên được các khái niệm: Hình tượng Nghệ thuật, hình
tượng Tổ quốc
2. Hình tượng Tổ quốc biểu hiện trên các phương diện: Các biểu trưng
về Tổ quốc, các hình ảnh, hình tượng cụ thể về con người, lịch sử văn hoá
truyền thống và đặc biệt là trong thời Hồ Chí Minh.
3. Đây là vấn đề được nhiều nhà thơ kháng chiến quan tâm: Tố Hữu,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh... Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng.
Do vậy cần phải chỉ ra được phong cách riêng đó qua việc thể hiện cùng một
đề tài.
4. Chỉ ra được hình thức biểu hiện hình tượng nghệ thuật - Hình tượng
Tổ quốc trong thơ kháng chiến.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
truyền thống như: Phương pháp thống kế, phân loại, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp hệ thống, v.v...
5. Cấu trúc khoá luận:
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

6



Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

2. Lịch sử vấn đề.
3. Nhiệm vụ của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc khoá luận.
B. PHẦN NỘI DUNG:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận
1.1.

Khái niệm hình tượng nghệ thuật

1.2.

Khái niệm hình tượng Tổ quốc

Chƣơng II: Hình tƣợng Tổ quốc trong thơ ca thời quá khứ
Chƣơng III: Hình tƣợng Tổ quốc trong thơ ca kháng chiến
3.1. Vị thế của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh
3.2. Quan niệm của các nhà văn, nhà thơ về hình tượng Tổ quốc
3.3. Hình tượng Tổ quốc trong thơ kháng chiến.
3.3.1. Hình tượng Tổ quốc được khắc họa từ bề dày lịch sử.
3.3.2. Hình tượng Tổ quốc trong thời hiện tại
Chƣơng IV: Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật trong
thơ ca kháng chiến.
C. KẾT LUẬN


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

7


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm hình tƣợng nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể
hiện và tái tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật nó khác với hình tượng của các ngành khoa học
khác ở chỗ nó khơng gạt bỏ những chi tiết cụ thể, tiêu biểu qua hình tượng
cuộc sống hiện lên một cách cụ thể, sinh động như nó vốn có, qua hình tượng
ta có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của người nghệ sĩ, qua hình tượng ta
tiếp xúc với người nghệ sĩ, qua hình tượng ta tiếp xúc với hình tượng cụ thể
có số phận, hồn cảnh riêng.
"Hình tượng nghệ thuật chính là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái
hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật".[7,122]. Bằng sự
sáng tạo của mình, người nghệ sĩ đem lại một chỉnh thể mới trước đó chưa
từng có, chưa từng biết đến. Nó khác trước đó về chất và nó in đậm dấu ấn
chủ quan của người nghệ sĩ.Từ những chất liệu đời sống mà nhà văn đã hư
cấu, và hình tượng nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của những tài liệu và
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại


8


Khố luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

đời sống. Nhưng nó là những tại liệu đã lột xác, nó cao hơn, sâu hơn, cụ thể
hơn và độc đáo hơn đời sống.
"Nói tới hình tượng người ta thường nghĩa tới hình tượng con người,
bao gồm cả hình tượng tập thể người (như hình tượng nhân dân, hoặc hình
tượng Tổ quốc), với những chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú".[7,123].
Chúng ta cũng biết rằng; "mỗi một loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất
liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của hội hoạ là đường nét,
màu sắc, của kiến trúc là mảng khối của âm nhạc là giai điệu, âm thanh. Văn
học lấy ngơn từ làm chất liệu. Hình tượng văn học là ngơn từ". [7,124].
Văn học nói chung và thơ ca nói riêng qua các thời đại “Tư duy hình
tượng là đặc trưng của tư duy nghệ thuật. Tư duy hình tượng địi hỏi sự khái
qt, khơng làm mất đi cái cụ thể, trực quan sinh động, đó là q trình hình
tượng hố theo quan niệm chủ quan. Như vậy, hình tượng thơ vừa là cơng cụ
tư duy của thơ vừa là mục đích của thơ. Hình tượng thơ là sự thống nhất giữa
chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ được thể hiện trong mối liên hệ hữu
cơ, tồn vẹn của những yếu tố ngơn ngữ như âm thanh, vần điệu, được nhà
thơ sử dụng. Hình tượng thơ được xây dựng từ hình ảnh. Tự thân hình ảnh,
khi đạt đến một trình độ điển hình hố cao có thể là hình tượng, chẳng hạn
như hình ảnh anh Giải phóng quân đã hy sinh những vẫn đứng vững trong tư
thế tiến công trên đường bằng sân bay Tân Sơn Nhất, trong bài thơ “Dáng

đứng Việt Nam” của Lê Anh Xn. Nhưng thơng thường, hình tượng là hình
ảnh được lặp đi lặp lại, ở những góc độ, trạng huống khác nhau, để lại trong
người đọc ấn tượng nào đấy. Hình tượng con cị hay con bống trong ca dao
gợi cho ta ấn tượng thẩm mỹ ổn định. Con cị là hình tượng “nhân hố” những
cuộc đời hiền lành, chịu khó, giàu tình nhân ái, rất gần gủi với tâm hồn Việt
Nam. Hình tượng đó hình thành từ hàng loạt hình ảnh con cị, từ vẻ đẹp dịu
dàng (“Con cò bay lả bay la”), cần cù chăm chỉ (“Trời mưa con ốc nằm co Con tôm đánh đáo - Con cò kiếm ăn”), số kiếp lận đận (“Con cò đậu cộc cầu
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

9


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

ao - Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua”), gặp nhiều bất hành (“Con cò mà
đi ăn đêm - Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”), nhưng giàu đức hy sinh
(“Có xáo thì xáo nước trong - Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”), giàu
nghĩa thủy chung (“Con cò lặn lội bờ sơng - Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc
nỉ non”)... có hình tượng xây dựng trọn vẹn trong một bài thơ như hình tượng
N Mơrixơn trong bài thơ Êmili, con... của Tố Hữu, có hình tượng được sử
dụng quen thuộc ở một tác giả. Hồ Sĩ Vịnh nhận xét “Hình tượng giúp ta lọt
vào bên trong nhân vật, sờ thấy nó, phá tan cái ranh giới dày đặc đang che
giấu những cái bên trong khiến mắt ta khơng nhìn thấy, khi nghiên cứu những
hình tượng thường được sử dụng như tiếng trống, lá cờ bay, câu hị để nói về
đất nước, cách mạng tạo thành phong cách riêng của Chính Hữu. Cũng như
vậy, ta thấy Tố Hữu rất hay dùng hình ảnh con đường. Trong thơ ơng “con

đường” là một hình tượng, tượng trưng cho sự nghiệp cách mạng. Hình tượng
nghệ thuật có ý nghĩa như vậy nên mỗi thời kỳ văn học, mỗi khuynh hương
sáng tác đều có một số hình tượng nỗi bật in đậm dấu ấn của mình. Thơ cổ
điển để lại cho ta hình tượng người quân tử theo quan niệm Nho gia. Thơ cuối
thế kỷ XIX để lại hình tượng người dân yêu nước xả thân vì nghĩa lớn. Phong
trào thơ mới nổi lên hình tượng con người khao khát tự do cá nhân, khao khát
sống nhưng cơ đơn, bế tắc. Kế thừa dịng thơ u nước, thơ kháng chiến đã
khắc học được nhiều hình tượng mới mẻ như hình tượng Tổ quốc, hình tượng
lãnh tụ, hình tượng người chiến sĩ cách mạng, hình tượng nhân dân... khác về
chất so với thơ trước 1945". [12, 87].
1.2. Khái niệm hình tƣợng Tổ quốc.
Tổ quốc là từ để gọi đất nước của mình một cách trìu mến, thiêng liêng:
Tổ quốc Việt Nam.
“Hình tượng Tổ quốc chiếm một vị trí trang trọng trung tâm trong thơ
ca cách mạng Việt Nam (1945 - 1975). Đó là những bài thơ về Tổ quốc, về
Việt Nam, về làng quê, quê mẹ, về những con sông, cánh động, con đường, về
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

10


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

nhân dân, về người mẹ, về lịch sử, về cha ông... Tổ quốc không chỉ là khơng
gian cư trú, làm ăn sinh sống mà cịn là truyền thống văn hố lịch sử, là tình
cảm thiêng liêng, là tất cả những gì thân thuộc tạo thành cuộc sống Việt

Nam”, [1, 31].
----------  ---------

CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG TỔ QUỐC TRONG THƠ CA THỜI QUÁ KHỨ
Hình tượng Tổ quốc khơng phải xa lạ trong thơ Việt Nam. Nó đã xuất
hiện rất sớm và in đậm trong thơ ca xưa. Nó được cảm nhận và miêu tả thể
hiện qua các biểu tượng, mơ típ được lặp đi lặp lại và các hình ảnh tượng
trưng khác. “Đó là các biểu tượng về Tổ quốc trong cái nhìn Sinh thái Nhân văn, trong chiều sâu văn hoá - lịch sử và trong hình ảnh nhân dân”
[1, 32].
“Đặc điểm nổi bật trong cảm nhận và miêu tả hình tượng Tổ quốc của
các nhà thơ xưa, hay của các tác giả ca dao cũng như của các nhà thơ Việt
Nam hiện đại là sự nhìn nhận qua lăng kính làng q với những biểu trưng
truyền thống quen thuộc lâu đời xen lẫn với những biểu trưng mới” [3, 32].
“Nói tới làng là người ta nghĩa đến một sinh quyển gần gủi, gắn bó và
thân thuộc: Cây đa, bến nƣớc, con đị, dịng sơng, cánh đồng, cánh cò, non
xanh nƣớc biếc, nhịp chày giả gạo, tiếng chng chùa (và sau này cịn là
tiếng chng nhà thờ), trẻ mục đồng, tiếng sáo diều, hội hè, lễ tết và các
truyền thống phong tục, tập quán khác...tạo thành hằng số của làng quê.
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

11


Khố luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

“Làng anh có sơng êm. Cho em tắm mát những đêm mùa hè”, “Cây đa, bến

cũ, đị xưa”, “Đứng bên ni đồng cũng mênh mơng bát ngát. Đứng bên tê đồng
cũng bát ngát mênh mông bát ngát”.
Trong thơ nhiều nhà thơ yêu nước như: Nguyễn Trãi: “Tình quê hương
ai mà chẳng nhớ cây dâu, cây thị” “Đề tập thơ “Bạch vân tự thân” của
“quan hiệu uý họ Hà) “Ba lần trong chiêm bao tìm về làng cũ- luống đem
nƣớc mắt lẫn máu thẫm mồ tổ tiên” (Nguyễn Trãi: Trong thuyền về Côn
Sơn cảm tác).[1,34]. Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hương thường là những
chùa chiền, hang động, thắng cảnh quen thuộc: “Hang Cắc cớ”, “đèo Ba dội”,
“Chùa Qn sứ”, “Động Hương Tích”, “Hang Thanh Hố”, “Chùa thầy”...
Còn Nguyễn Khuyến đã gắn làng cảnh vùng Hà Nam cũ: Chim chóc, cây cối,
hoa lá, con trâu, con vịt, con gà, con chó, đƣờng làng, ngõ trúc, ao chm,
khúc sơng,... Có thể nói Nguyễn Khuyến là người làm phong phú bức tranh
làng quê với những đường nét mới, cụ thể, chân thực và sinh động" [1, 35].
Đến đầu thế kỷ XX, hình tượng Tổ quốc lại được đặt lên hàng đầu
trong thơ nhiều sĩ phu yêu nước, nổi bật là Phan Bộ Châu. Trong thơ vận
động cách mạng của Phan Bội Châu, Tổ quốc có bề dày lịch sử (“Hồn xưa
dịng dõi Lạc Long”), có nền văn minh rực rỡ (“than ôi ! Bạch Việt hà xin Văn minh có sẵn khơn ngoan có thừa”), nếu mọi người đồng lịng đánh giặc
thì nhất định sẽ có độc lập, dân chủ, thịnh vượng trong một nước: “Dân là dân
nước là nước là nước dân”. Nhưng hình tượng Tổ quốc trong thơ Phan Bội
Châu cịn trừu tượng ước lệ. Ơng quan niệm Hồn nước chưa được thức tỉnh,
lòng người còn phân tán, chưa “đồng tâm” để “tuốt gươm ra”, cho nên ơng
gọi hồn quốc dân, ơng xót thương đất Việt (Ai Việt Nam) trong tâm trạng có
phần bi quan:
“Hồn mê mẩn”, tỉnh chưa, chưa tỉnh
Anh em ta phải tính sao đây !”
(Đề quốc dân ca - Phan Bội Châu)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

12



Khố luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Đến thời kỳ Xơ viết Nghệ - Tĩnh, thơ ca cách mạng đặt vấn đề giải
phóng đất nước như một nhiệm vụ cấp thiết. Cùng với thơ ca Xơ Viết Nghệ Tĩnh, dịng thơ cách mạng lưu hành bí mật với những tác giả tiêu biểu như Hồ
Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Thủy, Trần Huy Liệu, Hoàng Văn Thụ... thường lồng
vận nước trong sự nghiệp cách mạng, giải phóng nhân dân khỏi nơ lệ, áp bức.
Sau Phan Bội Châu trong các tác phẩm thơ xuất bản cơng khai, hình
tượng Tổ quốc thưa thớt dần. Gần nửa thế kỷ hình tượng Tổ quốc hiện lên
trong thơ xa xơi, đầy hồi niệm, bất lực với những biểu tượng hai mặt non nước, nước - non, lời thề sơng núi,...
Trước phong trào thơ mới, thấp thống hình ảnh Tổ quốc trong thơ nhà
Nho yêu nước Tản Đà. Ông từng hé cho ta tâm sự u uất của một con người có
chí khí:
“Tài cao phận thấp, chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương”
(Thăm mã cũ bên đường - Tản Đà)
Ông căm ghép bọn quan lại tay sai, ví chúng như chim hoạ mi trong
lồng, ngày ngày nước trong gạo trắng, quên đi nhân dân, đất nước. Nhưng Tổ
quốc trong con mắt yếm thế của Tản Đà suy cho cùng chỉ là một bức Dư đồ
rách:
“Nọ bức dư đồ đứng thử coi
Sông sông, núi núi khéo bia cười
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi

Thơi thơi có trách chi đàn trẻ
Thơi để rồi ta sẽ liệu bồi”
(Bức dư đồ rách - Tản Đà)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

13


Khố luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Và sau Tản Đà hình tượng Tổ quốc hầu như vắng hẳn. Nếu có chăng ta
chỉ còn cảm nhận được một cách gián tiếp trong tậm sự “Điêu tàn” của Chế
Lan Viên, trong nỗi sầu “mất hướng” của Huy Cận, trong mối hận chinh phu
của Thâm Tâm ... Sự bất lực khiến các nhà thơ trở nên tội nghiệp, lạc lồi
giữa q hương mình:
“Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nịi khinh”
(Phương

xa

-



Hồng


Chương)
Rõ ràng, hầu như các nhà thơ trong phong trào thơ mới dường như
quên đi hình tượng Tổ quốc.
Chỉ đến khi đến với cách mạng, tham gia vào cuộc chiến tranh giữ
nước của dân tộc, các nhà thơ mới tìm lại được niềm tự hào về đất nước ở tất
cả những chiều cạnh của nó và cất lên lời ca ngợi đất nước của mình.
--------  -------CHƢƠNG 3: HÌNH TƢỢNG TỔ QUỐC TRONG THƠ CA KHÁNG CHIẾN
3.1. Vị thế của Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với những khó khăn, gian
khổ, thiếu thốn, những tâm tư về tình yêu cao đẹp, về tình bạn, tình đất nước
và cuộc sống lao động chiến đấu... là nguồn cảm xúc lớn cho các nhà thơ, nhà
văn. Vì vậy, có thể nói rằng đối với dân tộc ta, thơ ca chân chính vốn là tiếng
nói thanh tao của những tình cảm cao q và sâu sắc. Không phải ngẫu nhiên
mà trong những thời kỳ dân tộc chống xâm lăng, nhiều áng thơ hay đã xuất
hiện. Càng không phải ngẫu nhiên mà trên con đường hoạt động cách mạng,
các chiến sĩ cách mạng - dù nhiều người không chuyên làm thơ - đã sáng tác
những vần thơ bất hủ. Vì thế đối với nhân dân ta giai đoạn hiện nay là thời kỳ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

14


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

rất “nên thơ”. Trong lời tựa cho tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng viết:

“Chúng ta sống trong thời kỳ vĩ đại, mở đầu bằng cách mạng tháng
Mười Nga. Ở nước ta, đó là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của Đảng, có
nhiều xúc cảm lớn tràn ngập tâm hồn ta, đòi hỏi ta phải diễn tả bằng thơ, hoặc
bằng những hình thái nghệ thuật khác. Cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc
ta ngày nay chống lũ quỹ khổng lồ là đế quốc Mỹ, việc xây dưng cuộc sống
mới ở một nước nơng nghiệp lạc hậu, đó là những nguồn cảm hứng hết sức
dồi dào cho thơ. Những chiến thắng của nhân dân Việt Nam anh dũng ở cả
hai miền, những thành tựu vẻ vang của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta
và ở các nước anh em đang nâng hai cánh cửa nghệ thuật. Nhà thơ không thể
vắng mặt trong cuộc chiến đấu của nhân dân mình và của thời đại” [6 ,7].
Các nhà thơ sống trong thời đại ấy - Thời đại Hồ Chí Minh, đều thấy rõ
ý nghĩa một cuộc “đổi đời”, “tái tạo”. Tâm sự và hành động của các nhà thơ
thật cảm động, xây dựng hoà vào cuộc sống mới với “nguồn thơ mới”, yêu
đời tươi sáng ... Huy Cận, Yến Lan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh, Tố
Hữu, ... tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến, và vì vậy đã có những sáng
tác tốt về nhân dân, về đất nước, cái quí ở họ là ý thức dân tộc, là Tổ quốc, là
cuộc sống tự do.
Như vậy, cuộc sống chiến đấu đã có tác dụng quyết định đến sự chuyển
biến tư tưởng của nhà thơ, khơi ngợi những tình cảm tốt đẹp, những nhận
thức đúng đắn và cách cảm, cách nghĩ về đối tượng của văn học.
3.2. Quan niệm của các nhà văn, nhà thơ về hình tƣợng Tổ quốc.
Trước hết các nhà thơ cho rằng, hình tượng Tổ quốc gắn với làng quê
Việt Nam, làng là biểu trưng của Tổ quốc, đất nước, là hình ảnh Tổ quốc, đất
nước thu nhỏ, là Tổ quốc bao la trong phần thân thiết nhất, gần gủi nhất của
mỗi người. Nhưng biểu trưng làng quê dù gần gủi, tha thiết thế nào cũng
không thể tiêu biểu đầy đủ cho hình tượng Tổ quốc trong quan niệm mới. Vì
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

15



Khố luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



vậy để miêu tả hình tượng này các nhà thơ hiện đại còn sáng tạo các biểu
trưng khác có sức khái quát hơn, như: Đất, trời, cánh đồng, con đƣờng...
Mặt khác, Tổ quốc còn đƣợc các nhà thơ quan niệm và miêu tả nhƣ một cơ thể toàn vẹn. Biểu tƣợng Tổ quốc - cơ thể trở nên phổ biến, là
nét đặc sắc, mới mẻ chưa từng có trong cảm quan về Tổ quốc của dân tộc:
“Ai vơ đó, với đồng bào đồng chí
Nói với Nửa - Việt Nam yêu quí
Rằng: Nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương tim óc dính liền”
(Ta đi tới - Tố Hữu)
“Chúng muốn xé bản đồ ta làm hai nửa Tổ quốc
Xé thân thể ta thành máu thịt đôi miền”
(Đừng quên - Chế Lan Viên)
Thịt xƣơng, tim óc, máu thịt, núm ruột... vốn là những bộ phận tạo thành
cơ thể con người được các nhà thơ hiện đại miêu tả như những bộ phận của
sinh thể Tổ quốc, điều đó chứng tỏ ý niệm về đất nước, đấi đai của quê
hương... trở nên hết sức thiêng liêng, thiết cốt đối với họ. Tổ quốc là không
thể chia cắt, “Một thân không thể chia đôi. Lửa gươm không thể cắt rời núi
sông”, là ý tưởng sâu sắc của các nhà thơ hiện đại gửi gắm qua biểu tượng Tổ
quốc - cơ thể người.
Tổ quốc còn được quan niệm như một con ngƣời đang vƣơn mình
đứng dậy “Nước Việt Nam từ máu lửa. Rũ bùn đứng dậy sáng lồ” (Nguyễn

Đình Thi - Đất nước). “Ơi Việt Nam từ trong biển máu. Người vươn lên như
một thiên thần” (Tố Hữu - Việt Nam, máu và hoa)...
Sau cách mạng , Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ có nhiều
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

16


Khố luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

thành cơng hơn cả trong sự thể hiện hình tượng Tổ quốc ở góc độ văn hố.
Ơng quan niệm: “Vấn đề Việt Nam là một vấn đề chính trị, cố nhiên, một
vấn đề quân sự, cố nhiên. Nhưng nhìn về lâu dài, nó là một vấn đề văn
hoá” [1,81].
Một phương diện quan trọng trong sự thể hiện hình tượng Tổ quốc của
các nhà thơ Việt Nam hiện đại cịn là một nét đặc biệt có ý nghĩa mới mẻ của
hình tượng Tổ quốc trong thơ ca Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám.
Quan niệm về Tổ quốc trong thơ văn xưa, vì hạn chế trong ý thức hệ
phong kiến nên thường chỉ gắn Tổ quốc với những người đại diện cho lợi ích
của vương triều phong kiến. Trong câu thơ hào sáng “Nam quốc sơn hà nam
đế cư” của Lý Thường Kiệt cũng vẫn là một quan niệm Tổ quốc của giai cấp
thống trị. Có thể nói các nhà tư tưởng phong kiến hầu như đều quan niệm Tổ
quốc là của Vua, vua là chủ của nước, của mn dân: “Trong nước khơng có
mảnh đất nào khơng phải là của vua. Khơng có người dân nào không phải là
bề tôi của vua” (Trần Thánh Tông: Biện giải việc từ chối sang trầu). Tuy
nhiên, xem xét một cách tổng quát quá trình phát triển của văn học Việt Nam

từ trước tới sau, không thể không thấy rằng cho đến Nguyễn Đình Chiểu và đặc
biệt là thơ văn các chí sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã có sự đổi
mới căn bản quan niệm về Tổ quốc với sự đề cao vai trị to lớn của nhân dân.
Như vậy, có thế hệ thống hố các hiểu trưng của hình tượng Tổ quốc
trong thơ ca cách mạng Việt Nam (1945 - 1975), ta thấy trong tâm thức người
Việt Nam, Tổ quốc là môi trường sinh thái của con người xét cả trong ý nghĩa
tự nhiên lẫn trong ý nghĩa xã hội, văn hoá, Tổ quốc trước hết là làng quê với
mái rạ, cánh đồng, bến sơng, luỹ tre, mái đình rộng ra là dịng sơng, bầu trời,
đất nước, là con đường nối các vùng q, sâu hơn, Tổ quốc là mơi trường văn
hố, là lịch sử nhân dân, con người. Bảo vệ Tổ quốc có nghĩa là bảo vệ mơi
trường sinh thái Việt Nam, văn hoá Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Quan
niệm Tổ quốc này có truyền thống lâu đời từ trong văn hiến và văn hoá, văn
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

17


Khố luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

nghệ Việt Nam và hình tượng Tổ quốc trong thơ ca hiện đại được phát triển
theo qũy đạo của truyền thống đó. Có thể nói thơ ca hiện đại đã nhìn Tổ quốc
bằng con mắt truyền thống hố triệt để hình tượng Tổ quốc. Hiển nhiên hình
tượng Tổ quốc cũng có nhiều nét mới, sáng tạo mới (các con đường, hình
tượng nhân dân) nhưng chủ yếu là cái mới về nội dung xã hội và tư tưởng,
cách nhìn, cách cảm vẫn chủ yếu thuộc về q khứ. Truyền thống vẫn đóng
vai trị chủ yếu trong việc sáng tạo hình tượng Tổ quốc của các nhà thơ hiện

đại, với những sắc thái và diện mạo quen thuộc.
3.3. Hình tƣợng Tổ quốc trong thơ kháng chiến.
3.3.1. Hình tượng Tổ quốc được khắc hoạ từ bề dày lịch sử.
Tổ quốc Việt Nam vốn đẹp đẽ vô cùng, từ xa xưa với truyền thống
dựng nước và đấu tranh giữ nước, có biết bao chiến cơng oanh liệt, nó gắn
liền với từng tên tuổi, với những địa danh đã đi vào lịch sử hào hùng của dân
tộc ta. Câu nói của Bác Hồ kính u vẫn ln vang vọng trong tâm hồn mỗi
người dân Việt Nam; “Các vua hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ nước”, câu nói ấy, như khẳng định vị trí, trách nhiệm công lao
của các vua Hùng, đồng thời củng cố tinh thần trách nhiệm của mỗi người
dân Việt Nam.
Xuất phát từ truyền thống vẻ vang của dân tộc ta, nhiều nhà thơ đã có
những áng thơ bất hủ thể hiện niềm tự hào, ca ngợi vẻ đẹp của Tổ quốc trên
cả hai mặt biểu hiện: Rất đau thương nhưng có những chiến công to lớn.
Chế Lan Viên cảm nhận Tổ quốc từ trong truyền thống với:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết truyện Kiều đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”
(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

18


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê


Cảm nhận và miêu tả hình tượng Tổ quốc trong quá khứ ở phương diện
lịch sử - văn hoá, các nhà thơ Việt Nam hiện đại, đã sáng tạo nhiều mơ típ,
biểu trưng, hình ảnh về sự hình thành của dân tộc, về tổ tiên, về bọc trăm
trứng, con Lạc cháu Hồng truyền thống cha ông, lịch sử các chiến công, các
anh hùng dựng nước và giữ nước, các thần thoại, truyền thuyết, câu ca dao,
truyện Kiều, các hội hè, lễ tết...
“Viết bài thơ của một người u nước mình, Trần Vàng Sao bày tỏ:
“Tơi yêu đất nước này lầm than (...) Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật. Một
tấm lòng cũng trứng âu cơ. Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng, Sơn
Tinh - Thủy Tinh, Hùng vương được làm sống lại trong hình ảnh của thời đại:
“Núi Tản như con gà cổ đại. Khổng lồ mào đỏ thắp bình minh. Mênh mơng
gọi nắng cho mùa chín. Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh” (Huy Cận: Gà
gáy trên cánh đồng Ba Vì đƣợc mùa), “Ôi Việt Nam ! Từ trong biển máu.
Người vươn lên như một thiên thần. Thế này chăng ? thuở hoang dã, chàng
Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh. Càng dâng nước càng cao ngọn núi. Chân
Trường Sơn đạp sóng Thái Bình” (Tố Hữu: Việt Nam máu và hoa), “Lửa
Phù Đổng và mảnh đất rồng. Với nghìn năm hùng khí Thăng Long. Đang
làm nên trí dũng Việt Nam” [ 1, 78].
Hình tượng Tổ quốc trong quá khứ được các nhà thơ cảm nhận và miêu
tả với dáng vẻ đau thương mà anh hùng đã tạo nên nét đẹp truyền thống lịch
sử - văn hố của dân tộc.
3.3.2. Hình tƣợng Tổ quốc trong thời hiện tại. (thời kháng chiến)
3.3.2.1. Hình tưởng Tổ quốc hiện lên trong dáng vẻ tự nhiên:
Ta thấy hình tượng Tổ quốc dường như cũng có sự vận động - đó là sự
vận động những ước lệ, khn sáo, những từ ngữ sáo mịn, trừu tượng đã ít
dần, thay vào con Rồng, cháu Tiên, Bách việt, giang sơn, núi sông, Tổ quốc
hiện lên cụ thể, tập trung, giàu chi tiết nên thơ. Nó được thể hiện qua thơ của
nhiều nhà thơ kháng chiến với những dáng vẻ, hình khối, sắc màu...khác
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại


19


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

nhau. Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hồng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Tế Hanh, Phạm
Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Trần Mai Ninh, Minh Huệ, Thu Bồn,... là những
nhà thơ viết khá thành cơng về hình tượng Tổ quốc.
Tổ quốc trong thơ Tố Hữu cụ thể đến mức có thể thấy từng thời điểm
lịch sử. Đó là khi quần chúng kháng chiến còn chủ yếu ở Việt Bắc (“Ở đâu
đau đớn giống nịi. Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền”), đến ngày tiếp quản
thủ đơ (“Một vùng trời đất trong tay. Dẫu chưa trọng vẹn đã bay cờ hồng”)...
Cách tiếp cận đất nước từ phía lịch sử cách mạng của Tố Hữu là một ví dụ
cho tính hiện thực trong thơ. Cũng chưa khi nào thơ Việt Nam gắn liền với
những địa danh thật ở mọi miền đất nước như thơ thời kỳ này. Những tên đất,
tên làng Bình Định, Phúc Yên đậm đà trong bài thơ Tình sơng núi của Trần
Mai Ninh:
“...Mờ soi Bình Định trăng mờ
Phú phong rộng
Phú cát lì...”
Những miền quê Nam bộ trong bài thơ “Cửu Long Giang ta ơi” của
Nguyên Hồng:
Mê Kơng quặn đẻ
Chín nhánh sơng vàng
Người dân Nam bộ gối đất nằm sương

Mồ hôi và bãi lầy thành ruộng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu
Những Đồng Nai, Đồng Tháp, Cà Mau”
Điển hình của nhu cầu muốn đưa nhiều địa danh thật vào thơ là bài “Ta
đi tới” của Tố Hữu. Trong bài thơ này, hiện diện đầy đủ các địa danh chính,
từ Thanh Hố trở vào hiện tượng này phản ánh niềm tự hào về cương vực
lãnh thổ, bao nhiêu năm mất đi, nay mới giành lại được. Trên phần đất đai ấy,
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

20


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Tổ quốc là thiên nhiên đẹp đẽ:
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt”
(Ta đi tới - Tố Hữu)
“Quê hương tơi có con sơng xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre”
(Nhớ con sơng q hương - Tế Hanh)
Hình tượng Tổ quốc khơng chỉ được khắc hoạ đậm đà từ bề dày lịch sử,
văn hoá. Lịch sử Việt Nam, với những chiến công hiển hách của cha ông
dựng nước và giữ nước: Thánh Gióng, Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi được nhiều nhà thơ trân trọng. “Qua sơng Bạch Đằng” nhà thơ

Phạm Hổ như thấy sóng nghìn xưa vẫy gọi nhấp nhơ:
“Sơng bây giờ mới đáp tiếng mênh mơng
Cịn đủ cả, và ngày càng bất tử
Những con sóng đã vỗ vào lịch sử
Vào lịng dân cho dân mãi anh hùng”
Nét mới của thơ ca kháng chiến là khi khai thác các tứ thơ từ lịch sử là
đã không dừng lại ở sử sách, ở sự nghiệp của các tên tuổi anh hùng trước đây.
Trong thơ kháng chiến thường xuất hiện các đại từ người xưa, ngày xưa, cha
ôn, ông bà, nhân dân để chỉ lịch sử. Thơ nhắc tới lịch sử như công lao của
nhân dân, của tập thể cộng đồng, những người có tên và khơng tên.
"Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và đã chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

21


Khoá luận tốt nghiệp



Nguyễn Thị Lê

...........
"Để đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại"

(Đất nước trích Mặt đường khát vọng của - Nguyễn Khoa Điềm)
“Là cha ơng đó bằng xương máu
Đã khổ không yên cả đứng ngồi”
(Các vị La Hán chùa Tây Phương - Huy Cận)
Niềm tự hào về văn hiến cũng được các nhà thơ vun đắp trong hình
tượng Tổ quốc. Đó là cái đẹp trong tâm hồn, trong ứng xử giàu nhân bản (“Có
manh áo cộc tre nhường cho con” Nguyễn Duy)
(“Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa - thì tin yếu chân thật đến ta vào” - Nguyễn
Khoa Điềm). Cái đẹp trong một điệu lý ngựa ô:
“Mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý
Khuôn mặt ra sao mà suốt thời kỳ đánh Mỹ
Lý ngựa ô hát đến mê người
Mỗi bước, mỗi bồn chồn về em đó, em ơi”
(Lý Ngựa Ơ ở hai miền đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Một bức tranh dân gian:
“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đồng Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
(Bên kia sơng Đuống - Hồng Cầm)
Một nghề thủ cơng bình dị:
“Bình đẹp nghìn xea cũ
Tay ơng cha giao về
Đang sống lại tươi tắn
Trong bàn tay vuốt ve”
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

22



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



(Làng gốm Bát Tràng - Huy Cận)
Đến truyền thống hiếu học, trọng thầy:
“Làng xóm cười tiếng ông đồ trọ trẹ
Nhưng quý ông đồ văn vẻ giỏi giang
Bà ngoại nói: Tơi trọng người chữ nghĩa
Dám gả con cách tỉnh, xa đàng”
(Cha đàng ngoài, má ở đàng trong - Xuân Diệu)
Đất nước còn nghèo, còn nhiều đau khổ, nhưng giàu tình người, giàu
văn hố, giàu chiến cơng, ... cách nhìn ấy khiến hình tượng Tổ quốc mang đến
cho người đọc những rung động đằm thắm.
Hình tượng Tổ quốc gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, đó là
một đặc điểm mang lại cái đẹp mới mẻ của thơ kháng chiến. Cách mạng đã
mang lại sự thật lịch sử vơ cùng quan trọng (“Hình của Đảng lồng trong hình
của nước” Chế Lan Viên) Chính từ nội dung cách mạng đó, lịng u nước
giờ đây đã mang lại một sắc thái mới, có sức lơi cuốn mãnh liệt con người đi
vào cuộc kháng chiến đấu trường kỳ:
“Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xơi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau
Súng nổ to chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sơng đầy cầu”
(Chính Hữu)
đã thơi thúc người lính thêm một lần bị lên đồi chót trụ bám, giành giật với
giặc từng gốc sim cằn.
“Anh quên thơ để nhớ gốc sim cằn

Vài chiếc lá lèo tèo như mực rớt
Sim như là khơng có cũng khơng sao
....
Nhưng trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

23


Khố luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Chỉ một gốc sim thơi, dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao ? Tổ quốc
Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Tổ quốc khơng cịn trừu tượng, không dừng ở đo đếm số học, chiều dài,
chiều rộng. Tổ quốc trở thành máu thịt, tình cảm.
“Ơi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ơi Tổ quốc. Nếu cần ta chết
Cho mỗi ngơi nhà ngọn núi con sông”
(Chế Lan Viên)
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị địn roi
Nay u q hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”

(Quê hương - Giang Nam)
3.3.2.2. Hình tượng Tổ quốc hiện lên trong những chiến công oai
hùng qua hai cuộc kháng chiến.
Từ niềm tự hào về Tổ quốc với dáng vẻ tự nhiên trong nét đẹp văn hoá
truyền thống, kế thừa và phát huy cao độ nét đẹp ấy nhân dân ta đã đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược, hai kẻ thù nguy hiểm: thực dâp Pháp rồi đế quốc
Mỹ. Và hình tượng Tổ quốc lại được hiện lên trong những chiến công oai
hùng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Mà thành công lớn
nhất của cuộc cách mạng vĩ đại đó là nước ta giành lại được độc lập tự do, đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đất nước lại vang lên câu hị ven
sơng, vui tươi, phấn khởi trước sự thay da, đổi thịt:
“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

24


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Lê



Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sơng Lơ hị ơ tiếng hát
Chuyến phà dào dạt, Bến nước Bình ca”
(Ta đi tới - Tố Hữu)
Nguyễn Đức Quyền nhận xét về thơ của Nguyễn Đình Thi: “Nguyễn
Đình Thi lại muốn nói đến những cái gì là tinh tuý Việt Nam, dù là một hình sắc:
“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sơm chiều”
(Bài ca Hắc Hải) [11, 134]
Đất nước này nói như Trần Mai Ninh:
“Tơi lim dim cặp mắt
Khơng thấy nơi nào khơng đẹp
Khơng giàu.”
Có thể thấy một bản đồ Việt Nam bằng những câu thơ có đủ hình sơng
thế núi, đất đai màu mỡ, sản vật bốn mùa với bao nhiêu đổi thay, không
ngừng để phát triển như là một vùng biển đang hồng da thịt gợi cảm:
“Nắng phơi xóm ngói, tường vơi mới
Phất phới buồm dong, nắng biển khơi...”
(Mẹ Tơm - Tố Hữu)
Và giàu, đẹp như thần thoại:
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Nếu như thời kỳ 1945 - 1954 hình tượng Tổ quốc được biểu hiện ở
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại

25


×