Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Đê tài mối liên hệ giữa khoa học tự nhiên và bộ môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.48 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

03

Tiêu luận
Môn học: Triêt học Mác - Lênin
Đê tài: “Mối liên hệ giữa khoa học tự nhiên và bộ môn Triệt học ”

Âcvip:

TS.GVC. Trần Việt Thắng

Nhóm sinh viên thực hiện:

1.Nguyễn Như Quỳnh, 20191054, lớp CH1 - 03, K64

2.Đinh Thị Nhớ, 20191014, lớp CH1 - 03, K64
3.Trân Thị Bích Ngọc, 20191004, lớp CH1 - 03, K64

4.Vũ Thành Vinh, 20191180, lớp CH1 - 03, K64

1

Hà Nội, tháng 5 năm 2020


MỤC LỤC
A
PHẢN


0.000...

MỞ

1. Lý do chọn để tài.................-.cà
EEEEEEEEEEErrrkrkrkekrkes 3
2. Mục đích nghiên cứu của đề tải......................-.----c-c-cse 4

SN ö ¡g0 SUIPHE HN TRs01VGTEYU SA:
5. Kết cầu của để tải..................-cc nQnnnnnn nh nhe 5
B - NỌI DƯNG.............................-.con 330510515 5S5554 6
Chương 1: Lý luận chung của đề tài...............................<< < << =< 6
1. Khái quát chung về môi quan hệ giữa Khoa học tự nhiên và
2. NIỆtL Mông; lẫn nhau giữa khờơa hợc tự nhiên và' triết học: :
2.1.
2.2.

.

Sự tác động của Khoa học tự nhiên đỗi với triết học.......8
Sự tác động của triết học đôi với khoa học tự nhiên...... 13

2.3. Chức năng của thế giới quan và phương pháp luận của
triết học đối với khoa học tự nhiên.......................- 14
Chương 2: Vận dụng và thực tiễn........................
-. -------. 19

1. Giải thích cho câu hỏi đã nêu ra ở đề bài......... Lư

19


2. Thay đơi cách nhìn của mọi người trong cuộc sông hiện tại.. L9

3. Áp dụng vào đời sống....................-.cc che.

20

C - KẾT LUẬN.....................-..----<< << << cs« =s c=seeeeeeeees 21


A - PHẢN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử của nhân loại đã chứng kiến nhiều giai đoạn thay đổi của xã hội. Sự thay

đổi đó bắt nguồn từ ý chí phát triển mọi thứ trở nên tốt hơn phù hợp với đời sống và
nhu cầu thiết yếu của con ngươi. Nó cũng được coi là 1 sự thay thế và tuân theo l
nguyên tắc:” cái mới thế chỗ cho cái cũ, kẻ yếu hơn phải nhường chỗ cho kẻ mạnh”.
Vậy tại sao trong cuộc sống hiện tại của chúng ta -cuộc sống găn liền với khoa học tự

nhiên thì những tư tưởng duy tâm và bộ mơn triết học vẫn cịn tơn tại . Phải chăng
giữa khoa học tự nhiên và triết vẫn có I mối liên hệ nào đó khiến chúng cùng tồn tại

song song , hỗ trợ nhau ngày 1 phát triền hơn. Đề mở rộng kiến thức và cũng như lý
giải về vẫn đề trên chúng em lựa chọn đề tài “Mối liên hệ giữa khoa học tự nhiên và
bộ môn Triêt học”

Trong những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển

như vũ bão, cũng như những biến động cách mạng lớn lao làm thay đổi tận gốc rễ bộ

mặt của cuộc sống xã hội, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học chuyên môn

giải quyết đúng đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách. Sự giải
đáp này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nắm vững và vận dụng một cách đúng
đắn và sáng tạo thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác —
Lênin. Do đó việc nghiên cứu những vẫn đề về mối quan hệ giữa triết học và khoa học

cụ thê và vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối với các khoa học cụ
thể có ý nghĩa quan trọng. Vấn đề về mối quan hệ vẻ mối quan hệ giữa triết học và
khoa học tự nhiên (KHÍTN) nói riêng hay khoa học cụ thê nói chung, đặc biệt là vấn đề

về chức năng phương pháp luận của triết học đối với khoa học cụ thể, vốn là những
vân đê hêt sức quan trọng trong di sản triệt học của C.Mác và V.Lenin.
Đê mở rộng kiên thức và cũng như lý giải vê vân đề trên chúng em lựa chọn đê tải
“Môi liên hệ giữa khoa học tự nhiên và bộ môn Triệt học”


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận mà chúng em trình bày sau đây nhằm tới các mục đích:
- Hồn thành bài tiểu luận về mơn triết học theo đúng yêu cầu của giáo viên
- Đảm bảo kiến thức đã học cũng như mở rộng thêm kiến thức về vấn đề trong đề tài
- Từ việc tìm hiểu đề tài chúng em có thể củng có thêm kiến thức cho bản thân và
góp phần giải thích tầm quan trọng của vấn đề về mối quan hệ giữa Triết và các khoa
học cụ thể nói chung và KHTN (Khoa học tự nhiên) nói riêng.
Đơng thời làm rõ một sô nội dung chủ yêu trong môi quan hệ giữa triệt học và khoa
học tự nhiên: Tác động của triệt học đói với khoa học tự nhiên, tác động của khoa học
tự nhiên đơi với triệt học, những địi hỏi mà Mac Leenin nêu nên trong môi quan hệ
giữa triết học và khoa học tự nhiên.

3.Đôi tượng, phạm vi nghiên cứu của đê tài

a. Đối tượng nghiÊH Cứu: Mối quan hệ giữa Triết học Mac Lenin và khoa học tự
nhiên.

b. Phạm vỉ nghiÊn cứu: Mối quan hệ, sự tác động lẫn nhau giữa triết học và Khoa

học tự nhiên; Nêu ra vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học đối với
sự phát triển khoa học; Vận dụng thực tiễn đề giải thích thêm về mối quan hệ giữa
triết học Mac Lenin và khoa học tự nhiên...

4.Phương pháp nghiên cứu đê tài
Trước hết, ta cần hiểu rõ hơn về triết học Mac - Lenin và khái niệm thế nào là
Khoa học và Khoa học tự nhiên; Lịch sử tạo nên mối quan hệ giữa triết học Mac Lenin và khoa học tự nhiên

Chỉ ra các quan điềm trái chiêu đê làm rõ hơn vân đê:
a. Quan điểm coi Triết học không phải là Khoa học cho rằng triết học chưa bao giờ
và sẽ chẳng bao giờ là khoa học cả.
b.

Quan điểm ngược lại thì coi Triết học là khoa học, đã là Triết học thì phải mang
tính khoa học.


C.

Quan điêm khác

trung hoa quan điêm về quan hệ giữa triệt học với khoa học và

quan điểm coi triết học là khoa học như sau:


“Triết học vừa là khoa học và vừa

khơng là khoa học ”.
Trong q trình nghiên cứu, chúng em đã sủ dụng phương pháp nghiên cứu và
tổng hợp cái tài liệu liên quan, áp dụng các phương pháp nghiên cứu của các ngảnh
khoa học xã hội như: phân tích- tổng hợp, cụ thể- khái quát các kiến thức đã học và
bơ sung những vân đê liên quan.
Ngồi ra, đê tài cịn có sự liên kêt giữa lý luận và thực tiên, đê có cách nhìn

nhận đúng đắn hơn, khoa học hơn.

5.Kêt cầu của đề tài
Mục lục

A. Phần mở đầu: Khái quát, giới thiệu chung
B.Nội dung chỉ tiết

Chương I: Cơ sở lí luận chung của đề tải
Chương 2: Vận dụng vào thực tiễn

C.Kết luận, Nhận xét chung

Chú thích


B - NỘI DUNG
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐÈ TÀI
1. Khái quát chung về môi quan hệ giữa khoa học tự nhiên
và triệt học
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học không phải là vấn đề mới. Trải qua một quá

trình lịch sử phát triển lâu dài, mối quan hệ ấy đã trở thành một trong những “vấn đề
triệt học” được bàn luận sâu rộng với nhiêu quan điêm khác nhau.
Triết học là øì? Sau hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, khái niệm triết học qua các

giai đoạn được hiểu không giống nhau.Khởi thuỷ triết học ở phương Tây có ý nghĩa là
yêu thích sự thơng thái. PJi/os (Greek) = theo đuổi, Sophos (Greek) = khôn ngoan.

Triết học mang nghĩa là Theo đuổi sự khơn ngoan. Ư thời điểm triết học ra đời thì
khoa học theo nghĩa là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan
(bằng hệ thống chân lý về thế giới được diễn đạt bằng các khái niệm, giả thuyết, học

thuyết, nguyên lý... thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học đặc thủ) vẫn còn chưa
xuất hiện.Trong quá trình phát triển, triết học ngảy một đa dạng, phức tạp hơn và

HE n Hộ thiệt Dự họ độn giáo! Chấnglà sỡ thếnói độ) mi dhanhệ
qua lại giữa khoa học vả triết học nhưng có nhiều sách báo, học giả quan điểm đồng
nhất chúng với nhau, có nghĩa là: Triết học chính là Khoa học. Chúng ta thường gặp
những phát biểu như sau về triết học: “triết học là ngành khoa học về tự nhiên, xã hội,

tư duy... “
Khoa học (tiếng Anh: seience) là toản bộ hoạt động có hệ thống nhằm xây dựng và

tổ chức kiến thức dưới hình thức những lời giải thích và tiên đốn có thể kiểm tra
được về vũ trụ. Thơng qua các phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng
6


cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường của tự
nhiên nhằm thu thập thơng tin, rồi sắp xếp các thơng tin đó thành dữ liệu để phân tích
nhằm giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một trong những


cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mơ phỏng hiện tượng tự nhiên dưới
điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong khoa học lả tồn
bộ lượng thơng tinmà các nghiên cứu đã tích lũy được. Định nghĩa về khoa học được

chấp nhận phơ biến rằng khoa học là tri thứctích cực đã được hệ thống hóa.

Theo Luật Khoa học và Cơng nghệ (Quốc hội, 2013), khoa học là hệ thống tri
thức về bản chất, quy luật tỒn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội

và tư duy.
Theo Từ điển Giáo dục, Khoa học là lĩnh vực hoạt động của con người nhằm tạo ra
và hệ thơng hóa những tri thức khách quan về thực tiễn, là một trong những hình thái
ý thức xã hội bao gồm cả hoạt động để thu hái kiến thức mới lẫn cả kết quả của hoạt
động ấy, tức là toàn bộ những tri thức khách quan làm nên nền tảng của một bức tranh
về thế giới. Từ khoa học cũng còn dùng để chỉ những lĩnh vực tri thức chuyên
ngành.Những mục đích trực tiếp của khoa học lả miêu tả, giải thích và dự báo các quá
trình và các hiện tượng của thực tiễn dựa trên cơ sở những quy luật mà nó khám phá
được.
Sheldon (1997) cho rằng khoa học là một hoạt động trí tuệ được thực hiện bởi con
người, được thiết kế để khám phá cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật — hiện tưởng.

Theo Vũ Cao Đàm khoa học còn được hiểu là một hoạt động xã hội nhằm tìm tịi,
phát hiện quy luật của sự vật và hiện tượng và vận dụng các quy luật ấy để sáng tạo ra

nguyên lý các giải pháp tác động vào sự vật hoặc hiện tượng, nhằm biến đổi trạng thái
của chúng.
Khoa học tự nhiên

là một nhánh của khoa học nói chung liên quan đến các hoạt


động mơ tả, dự đoán và kiến thức về các hiện tượng tự nhiên. Dựa trên bằng chứng

thực nghiệm từ quá trình quan sát vả thử nghiệm. Các cơ chế như đánh giá ngang
hàng và độ lặp lại của các phát hiện được sử dụng để cơ găng đảm bảo tính hợp lệ của

các tiền bộ khoa học. Theo truyền thống phân tích của xã hội phương Tây, khoa học


thực nghiệm và đặc biệt là khoa học tự nhiên sử dụng các cơng cụ từ khoa học chính

thống, như tốn học và logic học, chuyển đổi thơng tin về tự nhiên thành các phép đo
có thê được giải thích lả tuyên bố rõ ràng về “quy luật tự nhiên”.
Giải thích khái quát về mối quan hệ gữa triết học và khoa học tự nhiên:
Về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, chúng ta có thể nhận ra
khoa học tự nhiên có những cung cấp cho sự ra đời các tài liệu về triết học, và mỗi

khi có một sáng chế, hay một phát minh trong khoa học tự nhiên, cũng là cơ sở
hình thành những lý luận trong triệt học. Mặt khác, từ những lý luận, tư tưởng
mang tính chân lý trong triết học đã không những chỉ đường cho khoa học tự
nhiên hướng đi đúng đắn trong các sáng chế, phát minh mà còn đồng thời chỉ ra

những hạn ché, thiếu sót đề khoa học tự nhiên kịp thời phát hiện và cải thiện.
Như vậy, có thê khẳng định khoa học tự nhiên và triết học có mối tương quan mật

thiết, chúng hỗ trợ và bổ sung cho nhau trong một mục tiêu duy nhất là mang lại
những giá trị côt lõi và tôt đẹp đên cuộc sông của con người.

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là, triết học


và các khoa học đều có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác động của triết
học đến khoa học có thể chia thành những giai đoạn và mỗi giai đoạn có những hình
thức nhất định, thì ngược lại, sự tác động của khoa học đến sự phát triển của triết học

không phải khi nào cũng rõ ràng và có khuynh hướng rõ rệt. Từ chỗ lúc đầu là một sự
hòa trộn đan xen giữa tri thức khoa học và triệt học, dân dân là sự tách ra của khoa

học và sau đó, khoa học bắt đầu ảnh hưởng đến sự phát triển của triết học.

2.Sự tác động lần nhau giữa khoa học tự nhiên và triêt học
2.1. Tác động của khoa học tự nhiên đối với triết học
Trước khi triệt học và khoa học xuât hiện, quan niệm sơ khai về thê giới của người

nguyên thủy xuất hiện thế giới quan tôn giáo:
- Thê giới quan tơn giáo là thê giới quan có niêm tin vào sức mạnh của lực lượng
siêu nhiên của các tô chức tôn giáo...


- Thế giới quan triết học là hệ thông những quan điểm có tính khái qt về thế giới
về vai trò của con người đối với thế giới.
Thế giới quan triết học có thể phân chia thành thế giới quan:
+ Duy vật;

+ Duy tâm;
+ Nhị nguyên;

+ Bất khả tri.
- Trong thời kỳ cổ đại triết học ra đời trên cơ sở lý luận từ những thành tựu của
khoa học tự nhiên làm xuất hiện triết học tự nhiên.


+ Triết học tự nhiên là khuynh hướng triết học mang tính phỏng đoán và giả
định...

+ Triết học tự nhiên thời Phục hưng, Cận đại là khuynh hướng triết học ảnh hưởng
bởi khoa học thực nghiệm. Sự xuất hiện phương pháp tư duy siêu hình và vai trị của

nó trong phương pháp luận chung của triết học...

+ Triết học tự nhiên từ thời cận đại cho đến triết học cô điển Đức tạo tiên đề cho
sự ra đời của triết học hiện đại. Trong có ba khuynh hướng cơ bản: Chủ nghĩa thực

chứng, Chủ nghĩa nhân bản, Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

=> Thế giới xung quanh được phản ánh trong ý thức nguyên thủy của loải người
dưới hình thức thần thoại. Trong thần thoại bên cạnh niềm tin vào các lực lượng

thần thánh, siêu tự nhiên, thì các vẫn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới có
một vị trí đáng kể. Triết học và thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích

thế giới. Thực chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các vẫn đề mà trước đó đã

được đặt ra trong thân thoại, nhưng băng một phương thức khác. Triết học là sự

phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lơgíc, các tri thức khoa học và kinh
nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự ra đời của triết học trùng hợp với sự xuất

hiện những mầm mồng đầu tiên của tri thức khoa học, với sự hình thành nhu cầu
nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học
Hy Lạp cô đại khi mới hình thành khơng độc lập với các tri thức khoa học, mà


thực chất là đồng nhất với chúng đề hình thành nên mơn khoa học tổng hợp. Các
nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như Thalets,
Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế

9


giới như một chỉnh thể. Trong nên triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị

đây xuống vị trí thứ yếu và bị chỉ phối bởi triết học. Triết học tự nhiên thịnh hành
ở phương Tây vảo lúc khoa học thực nghiệm chưa phát triển, khơng đủ để tìm ra
quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính vì vậy mà trên thực tế, triết học tự
nhiên là dòng triết học mang tính tư biện (speculation): Những giải thích
của nó về thế giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán và giả định. Nhưng

bắt đầu từ thời Phục hưng và đặc biệt là trong các thế kỷ XVII - XVIH, sự phát
triển của khoa học, nhất là các khoa học tự nhiên ngày cảng diễn ra nhanh chóng.
Mối quan hệ triết học - khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ phụ
thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây, nó độc lập trong lĩnh vực nghiên cứu

của mình, hơn nữa cịn tác động quyết định đến khuynh hướng phát triển của triết
học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi này đã tạo ra tiền đề cho sự ra đời
của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng (posistivism) tuyên bố răng,
chỉ có các khoa học cụ thể mới cần thiết, đem lại các tri thức tích cực
(positive), cịn triết học thì khơng. Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa
nhận trong quá khứ, khi mà các khoa học còn chưa phát triển đầy đủ, thì triết học
từng đóng vai trị tích cực là khoa học bao trùm, tổng hợp mọi tr1 thức, thậm chí
là “khoa học của các khoa học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt xuất hiện và

trưởng thành, đem lại một khối lượng tri thức không lồ thì triết học dần đánh mắt

vai trị lịch sử của mình. Số phận của triết học thật trớ trêu, chăng khác gì King
Lear - nhân vật văn học của Shakespeare, người chia toàn bộ vương quốc vả tài
sản to lớn của mình cho các con đã trưởng thành để rồi trở thành trắng tay và bị
đuổi ra đường.
Không nghi ngờ gì nữa, kế từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học
đến triết học càng ngày cảng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ
nảy, chúng ta thấy rằng quá trình phân ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học,
hóa học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học... lần lượt trở thành các khoa học độc lập.
Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. GIới tự nhiên

được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau vả trở thành đối tượng của những nghiên
cứu độc lập. Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa
học, khi mà nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập, tích lũy các tài liệu. Nhưng phương
10


pháp được coi là cần thiết và chính đáng ấy của khoa học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng

đến và in dấu lên tư duy triết học đương thời - phương pháp tư duy siêu hình. Mặt
khác, trong các khoa học tự nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là môn khoa học được

coi là đạt đến mức độ hồn thiện nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng đã
ảnh hưởng khơng nhỏ đến triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong thời kỳ Phục
hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có ảnh hướng quyết định đến sự phát
triển của triết học. Mỗi bước tiễn mới của khoa học đều bằng cách này hay cách
khác tác động lên xu hướng phát triển vả tư duy của triết học.

Như đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng là trạng thái và
các thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với các thế kỷ trước đó, khoa
học tự nhiên trong thế kỷ XIX đã khơng cịn là khoa học sưu tập nữa. Những gì nó

tích lũy được trong thời kỳ trước đã cho phép nó có thê sắp xếp, tổng hợp lại. Và

nhiệm vụ này đến lượt nó, khiến người ta phải chú ý nhiều hơn tới những mối liên hệ
vốn có của bản thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của thế giới tự nhiên, sự vận động và
phát triển nội tại của nó. Các phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX trong
các lĩnh vực vật lý và sinh vật, như định luật bảo tồn và chun hóa năng lượng,

thuyết cầu tạo tế bảo và thuyết tiền hóa của các loài, đã chứng minh trên những nét cơ

bản và đem lại một cái nhìn duy vật biện chứng về thế giới tự nhiên. “Nhờ ba phát
hiện vĩ đại đó và nhờ các thành tựu khác của khoa học tự nhiên...”, mà giờ đây đã có
thể có được “một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một hình thức

gần như có hệ thơng”. Trước kia việc cung cấp một bức tranh bao quát như vậy là
nhiệm vụ của triết học tự nhiên. Triết học tự nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là

khuynh hướng triệt học có từ thời kỳ cơ đại và tiêp tục phát triên trong nhiều thê kỷ
sau đó, khi mà các khoa học tự nhiên cịn chưa phát triển. Vì vậy, triết học tự nhiên đã

thay thế những những mối liên hệ hiện thực, chưa biết bằng những mối liên hệ tưởng
tượng, hư ảo, thay những sự kiện còn thiếu bằng những giả định, phỏng đốn, thậm
chí gán ghép cho tự nhiên nhiều sự tưởng tượng hư ảo kỳ quái. Khi làm như thế triết
học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên tài, dự đoán trước được nhiều phát hiện sau

này đồng thời cũng đưa ra nhiều điều vô lý, nhưng khơng thể nào khác được. Ngày
nay thì khác,những thành tựu quan trọng của khoa học tự nhiên đã cung cấp cho
chúng ta những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên là thống nhất.Ngày nay,

11



một bức tranh bao quát về những mối liên hệ khơng những trong các lĩnh vực riêng
biệt, mà cịn giữa các lĩnh vực hầu như của toàn bộ giới tự nhiên, được rút ra chủ yếu
từ những kết quả nghiên cứu do các khoa học tự nhiên đem lại. Trong những điều kiện
như vậy, thì một thứ triết học tự nhiên đứng ngoài và đứng trên các khoa học là hồn
tồn khơng cần thiết. Mọi ý định khơi phục triết học tự nhiên của các triết gia khơng

cịn phù hợp nữa, thậm chí, theo Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là “những bước thụt
lùi”.
v39

Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phái là trực tiếp
và theo đường thắng, mà là gián tiếp tạo ra bầu khơng khí tinh thần cho phép
hình thành một kiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của
khoa học về thế giới. Thông qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái
niệm, các phạm trủ triết học có thêm những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết nhật tâm

của Copernicus khăng định rằng, trái đất khơng phải là trung tâm của vũ trụ, thì rõ
ràng nó đã giáng một địn chí mạng vào Kitơ giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của khoa
học tách khỏi tơn giáo và thần học. Thuyết tiễn hóa của Darwin đưa đến kết luận rằng,
các loài động vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được sự sáng tạo bởi những lực
lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của một quả trình hồn tồn do các lực

lượng tự nhiên chỉ phối. Kết luận đó là một quan điểm của triết học duy vật. Thuyết
tương đối của Einstein một phát minh vạch thời đại. Tư tưởng về sự thống nhất giữa
vật chất với không gian và thời gian làm cho làm cho thuyết tương đối mang ý nghĩa
duy vật sâu sắc.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận triết
học chung như là một sự tông kêt lý luận. Những kết luận triệt học rút ra từ các phát
minh của khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện.

Ảnh hưởng của khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa đến những kết luận
tích cực, nhưng cũng có thê đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Những
phát minh khoa học những năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về phóng xạ, về điện tử... đã
khiến khơng ít nhà khoa học hoài nghi về khái niệm “vật chất” - nền tảng của chủ

nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế chủ nghĩa duy vật bằng
“chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
12


Kết luận: Triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình
đa phần mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét trên một nền tảng thế giới
quan nhất định, chúng mới thực sự trở thành định hướng tích cực cho sự phát
triển khoa học.

2.2 Tác động của triết học đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên


»

`
ê

Triệt

z

]

M


I

`

Triết học Mac - Lenin là một trong ba bộ phận cầu thành của Chủ nghĩa Mac Lenin; đầu tiên là Triết học Mác, do Mác và Ănghen sáng lập ra, được Lenin và các

nhà mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời vào những năm 40 thế kỉ 19 và
được phát triển găn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào
cách mạng công nhân. Sự ra đời của Triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự

trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy
bao hàm tính kế thừa, tiếp thu tất cả những nhân tố tiên tiến và tiến bộ mà lịch sử tư

tưởng loài người đã để lại.
Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó khơng
dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là
máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ơng đã khắc
phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiễn lên một bước phát triển mới bằng cách tiếp

thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép
biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel
là phép biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sảng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt

nó trên lập trường duy vật. Chính trong quả trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của
Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những
thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ 19, Mác và Enghen
đã tạo ra triệt học của mình.

Triết học ấy sau này đã được Lenin phát triển thêm và trở thành Triết học Mác Lenin.Triết học Mác - Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt đề.Lenin hy vọng


khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác.Trong Triết học
Mắc - Lenin, các quan điểm duy vật vẻ tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng găn bó hêt sức chặt chẽ với nhau thành một hệ

13


thống lý luận thống nhất.
b.

Triệt 7

l

M

I

`

lôi7

r.*



ˆ. »

kị




hiệ

Về mặt lịch sử, sự ra đời của triệt học trùng hợp với sự xuât hiện những mâm mông
đầu tiên của tri thức khoa học, với sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận.
Triết học ra đời không độc lập với các tri thức khoa học, mà là sự khái quát tri thức

khoa học và định hướng cho khoa học.
Triết học từ cổ đại cho đến cận đại đề ra những yêu cầu, nhiệm vụ tìm hiểu và giải
thích thế giới như một chỉnh thể. Các khoa học nói chung bị đây xuống vị trí thứ yếu
và bị chỉ phối bởi triết học. Những quan điểm, tư tưởng của triết học khi trở thành
niềm tin của con người, sẽ tích cực tham gia vào định hướng đối với sự phát triển của
khoa học.

Đối với khoa học, những quan điểm tư tưởng tiễn bộ của triết học ảnh hưởng trực
tiếp hình thành các nguyên tắc cơ bản định hướng cho khoa học, chúng thực hiện chức

năng phương pháp luận khoa học.
Thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học khăng định triết học là công
cụ tổng hợp tri thức.
- Sự phát triển của tri thức khoa học hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên

ngành mới, chuyên sâu là xu hướng ngược lại: Xu hướng liên ngảnh kết hợp nhiều
khoa học thành một hệ thống thống nhất.
- Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết

hợp của các ngành khoa học truyền thông thành các khoa học mới...


2.3 Chức năng của thế giới quan và phương pháp luận của triết học với
khoa học tự nhiên
- Vai trò thế giới quan của triết học.
s* Định nghĩa. Thế giới quan là quan niệm của con người về thế giới và về vị trí,
vai trị của con người trong thế giới đó.
s* Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi triết học mô tả những vấn
14


đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm và phạm trù, quy luật. Hơn
nữa, triết học không chỉ nêu ra các quan điểm của mình mà cịn chứng minh
cho các quan điểm đó băng lý tính. Thơng qua thế giới quan triết học, thế giới
quan sẽ được thể hiện qua các quan điểm về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp
luật, tôn giáo v...v
>
Thế

Các cấp độ thế giới quan:

øiới

5

nhiều

cấp

đô

khá


thế

øiới

huvề

¡: thể

øiới

quản tổn i40 thế GIỚI quản triết học ((HẾ giới quận UY VấT VÀ THỂ giới QUẦN QuẾ
tâm); thế giới quan khoa học vả thế giới quan không khoa học v.v. Việc xác định
cấp độ, nội dung thế giới quan phụ thuộc vào vấn đẻ, liệu lợi ích giai cấp có phù

hợp khách quan đối với xu hướng của sự phát triển lịch sử, với khoa học và với
thực tiễn xã hội hay khơng.

>

Vai trị của thê giới quan triết học đối với nhận thức và thực tiến.

Bán chật của thê giới quan là sự thông nhật biện chứng giữa nhận thức - đánh giá

với thực tiên - cải tạo; đưa lại cho con người khả năng tạo ra các mục đích xác

định, đưa ra kê hoạch, lý tưởng chung của cuộc sông, làm cho thê giới quan có sức
mạnh hiện thực.

-Vai trị phương pháp luận của triết học.

>

Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp
nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực; là hệ thống

chặt chẽ các quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong
việc xác định phương pháp cũng như xác định phạm vị, khả năng áp
dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa.
>

Các cấp độ phương pháp luận:

Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau như phương pháp luận ngành là
phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là các
quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay
phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào đó; phương
pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan điểm, nguyên
15


tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận ngành, chung và
các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
>

Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn
thê hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng
các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng
vai trị định hướng trong q trình tìm tịi, lựa chọn và vận dụng phương

pháp.

Chức năng thế giới quan vả phương pháp luận chung của triết học đối với khoa học,
được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vẫn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình
khơng cần đến một quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm

triết học rồi, song là một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của
Ph.Ănghen khi ơng nói: “Những ai phi báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ
nơ lệ của những tàn tích thơng tục hóa, tơi tệ nhất của triết học”. Albert Einstein - một

trong những nhà khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ XX khơng ít lần chỉ rõ các khái
qt triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của

cơ học lượng tử đã khẳng định rằng, thế giới quan của người nghiên cứu luôn tham
gia vào việc xác định hướng nghiên cứu của người đó.

Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học trước hết là ở vai trị nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân

tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các
hiện tượng ở mức độ khái quát chung và sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nên tảng
của nhận thức được hình thành vả phát triển như là các phạm trù của triết học và các
khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”,

“nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học không đi sâu giải quyết các vấn đề
khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc về lý luận nhận thức phố
quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể, triết học vạch ra lơgíc của
các q trình nhận thức, trở thành phương pháp luận của nhận thức khoa học.

Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học là ở sự tông kêt các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tô các
16



nguyên lý chung của chúng. Tất nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết, khái
quát các tri thức thành các nguyên lý, các quy luật nhất định. Nhưng những tổng kết,
khái quát trong mỗi khoa học cụ thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà nó nghiên

cứu. Đặc điểm của khái quát triết học là những khái quát chung nhất, có liên quan đến
các hiện tượng và các quá trình của tự nhiên, xã hội và tinh thân.

Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri
thức hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng
ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống
nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết

hợp của các ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý,
sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà cịn là sự xích lại sần nhau của các
ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Chính xu hướng liên

kết này của các khoa học cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa học
chung về thế giới, tìm kiếm một cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc phục
tính chất phân tán manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự
hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết học đóng vai trị là hạt nhân lý
luận kết nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại khả
năng thâm nhập vào các quá trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trị ngảy cảng tăng của
nó trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều kiện phát

triển xã hội và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của

nó trở nên cần thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là

quản lý sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết chế khoa học, kế hoạch chương

trình phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và
đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy chắc chắn không thể không liên quan đến
một thế giới quan nói chung, đến những quan điểm triết học nhất định.

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một q trình phát triển lâu dài. Mối
quan hệâ Ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi

và trở thành một trong
những “vân đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó ln tơn tại những quan điểm khác

17


nhau. Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trị
của triết học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai,
tuyệt đối hóa vai trị của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học.
Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một

xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học mà chúng tôi đã đề cập ở
trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là

biểu hiện của lối tư duy siêu hình — lối tư duy, mà xét trong những điều kiện nhất định
có thê được coi là chính đáng, cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ qt thì nó bộc
lộ những hạn chế nhất định.

Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích
cực về mơi quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các
khoa học là mối quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của


mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mả mặt nảy hay mặt
kia nỗi trội, tác động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy

nhất. Các kết luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có
thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa học được

định hướng bởi thế giới quan triết học nào. Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học tự nhiên, như phát hiện ra tia X, hiện
tượng phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới

vật lý, tạo nên tình thế khủng hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy,
V.IL.Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng vả xuyên tạc những thành tựu
có tính cách mạng nói trên của khoa học tự nhiên; rằng, các nhà khoa học - những
người xuât sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng lại bộc lộ các giới hạn nhận thức

trong lĩnh vực triết học. Họ, vì khơng năm vững bản chất của tư duy biện chứng, cho
nên đã dao động và tìm đến chủ nghĩa hoải nghi mà bỏ qua vai trò thực chứng trong
vật lý học của chủ nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng định rằng, trong trường
hợp nảy, chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật mới có thê thốt khỏi “cuộc khủng
hoảng vật lý” đó.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm

18


thay đối sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy
siêu hình. Con đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khn sáo, trì trệ

trong nhận thức và hành động là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy
vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa
học và thực tiên cách mạng.

CHƯƠNG 2 :VẬN DỤNG VÀ THỰC TIÊN
I.GIÁI THÍCH CHO CÂU HỎI ĐÃ NÊU RA Ở ĐÈ BÀI
Như vậy triết học và khoa học tự nhiên có 1 mối quan hệ mật thiết với nhau thể

hiện rõ nhất ở chỗ ngay từ khi triết học ra đời thì những mầm mống đầu tiên của khoa
học tự nhiên cũng xuất hiện.Qua thời gian,chúng tôn tại song song và phát triển lẫn
nhau.Nêu như sự ra đời của khoa học tự nhiên
19

làm chậm bước tiên cho sự phát triên


của triết học song triết học vẫn từng bước phát triển và sự phát triển đó từng bước làm
tiền đề cho các cơ sở khoa học hiện đại bằng những cơ sở nhận thức của nó.Sự ảnh

hưởng này xảy ra rõ rệt ,qua từng giai đoạn gây ra sự ảnh hưởng xấu hoặc tốt nhưng
để có được 1 xã hội như ngày nay thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên

là vô cùng quan trọng và khơng thể thiếu.

I.THAY ĐƠI CÁCH NHÌN CỦA MỌI NGƯỜI TRONG
CUỘC SÔNG HIỆN TẠI
Chúng ta đã hiểu rằng mối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và triết học là 1 mối
quan hệ 2 chiều nhưng mối quan hệ này lại có diễn biến: khoa học nhờ triết học mà

ngày 1 phát triển cịn triết học vì khoa học tự nhiên mà ngày càng mắt đi vị trí của

mình.Chúng ta cũng tự hiểu rằng I mối quan hệ mà 1 bên có lợi và 1 bên có hại sẽ trở

thành mối quan hệ đối kháng và đối kháng thì dễ dàng bị triệt tiêu.Vậy điều chúng ta
phải làm là làm sao, cho mối quạn hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên trở thành 1
môi quan hệ mà đổi bên cùng có lợi và phát triên cùng nhau:

Thứ nhất: chúng ta cần thay đổi tư duy của mỗi bản thân khi có rất nhiều nguời
trong chúng ta cho răng triết học là không cần thiết với cuộc sống nảy.Chúng ta phải
cho họ thấy cuộc sống hiện tại cóđều khởi nguồn từ triết học
Thứ hai: như đã nêu ở trêntác động của khoa học lên sự phát triển của triết học

không

phải là trực tiệp và theo đường thắng, mà là gián tiếp tạo ra bần khơng khí tịnh

thần ế b phép hỉnh t lành một kiều tử duy, “hột cải Rhìn tưởng Ứng vỚI trạng thái

đạt

được của khoa học về thế giới.Khoa học tự nhiên hiện nay đã trở thành 1 thứ khơng
thể thiếu với đời sống này,chính vì vậy mọi ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đều ảnh

hưởng đến mỗi chúng ta.Tư duy của nó tạo ra cũng vậy,dường như những tư duy của
khoa học tự nhiên đang đi ngược lại với những tư duy của triết học và điều đó khiến
mọi người có cái nhìn khác về triết học và khơng quan tâm đến nó.Nền khoa học tự

nhiên cần thay đổi lại những tư duy nảy.

20



HI.ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SÔNG
Triết học giải quyết mọi thứ xung quanh bằng những sự tưởng tượng những giả
định hư ảo còn khoa học tự nhiên lại giải quyết tất cả sự thực nghiệm,đưa ra những
minh chứng vô cùng rõràng . Nếu chúng ta ép triết học đi theo con đường của khoa
học tự nhiên thì chẳng bằng triết học khơng cịn tồn tại. Vậy để áp dụng được 2 thứ trái
ngược này vào trong đời sơng thì chúng ta phải năm rõ được chức năng riêng của từng
ngành và từ đó sẽ tìm ra được lợi ích chung:
>

Những kết luận triết học rút ra từ các phát minh của khoa học tự nhiên thường
do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện.

Vì vậysự phát triển của khoa

học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận triết học chung như là một sự

tổng kết lý luận. Những kết luận có thể gây ra các ảnh hưởng xấu hoặc tốt
nhưng chúng ta hãy thử tiếp nhận và hoàn thiện nó hơn.

>_

Triết học giải quyết mọi thứ bằng sự tưởng tượng nên nó cũng chính là tiền đề
cho sự tư duy,vạch ra logic cho quá trình nhận thức ,trở thành phương pháp
luận cho các cơ sở khoa học.

>_

Khoa học tự nhiên phát triển mạnh đồng nghĩa với việc sẽ phân chia làm
nhiều luồng tri thức.Đề các luồng tri thức nảy có thể trở nên thống nhất giúp

các nhà khoa học tìm kiếm được 1 phương pháp luận chung cho các ngành thì
triết học đóng vai trị là hạt nhân lý luận kết nối các ngành khoa học, lả trung
tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm nhập vào các q trình này một
cách chủ động và tích cực.

C - KÉT LUẬN
Cuối cùng xin được đúc kết lại về nội dung đã trình bày cụ thể như sau: thời kì
đầu KHTN tơn tại trong triết học- Triết học tự nhiên, đề cao lý chí con người. Đến
thời Trung cơ, Thiên Chá giáo thống trị,triết học kinh viện nỗi lên nhưng lại là bước

lùi so với triết học thời trước, nó đề cao niềm tin hơn lí trí, tác động làm KHỈTN không
21


còn đường phát triển, rộng đường phát triển thần học. Đến khi KHTN vụt dậy và phát
triển trong bối cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ vào
thời phục hung- cận đại thì chủ nghĩa duy vật, tư duy siêu hình sớm hồi phục và phát
triển nhanh chóng, triết học lại có bước nhảy vọt mới. Vào cuối thời cận đại, cách
mạng tư sản nô ra, tạo tiền đề cho KHTN phát triển mạnh mẽ, KHTN phân

ra thành

các ngành độc lập, tách khỏi triết học tự nhiên, tư duy siêu hình khơng cịn phù hợp và
do đó, tư duy biện chứng lên ngơi, triết học phát triển lên trình độ tư duy mới,TDBC.
Đến thời hiện đại, cùng với sự phát triển của KHTN, là những hậu quả nghiêm trọng
mà nó mang lại cho XH: đạo đức, xã hội, mơi trường.... Và đây chính là cơ sở cho
triết học Mac Lenin ra đời.Tóm lại, sự hình thành và phát triển của triết học không thể
tách rời với sự phát triên của KHÍTN và ngược lại.

Trên đây ta đã thấy được tầm quan trọng của vấn đề về mối liên hệ giữa triết học và

các khoa học cụ thê nói chung hay KHTN nói riêng.
Vì thời gian nghiên cứu không được nhiều, đề tài này chỉ mang tính thu thập lại một
số nhận định của một số nhà nghiên cứu trước, gom nhặt và có sắp xếp lại cùng VỚI ý
tưởng nêu lại một cách khái quát và ngắn gọn về một vẫn đề có ý nghĩa to lớn- mối
liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, từ đó

để chúng ta có thể có một cái nhìn

khái qt về mối quan hệ giữa chúng.

Chú thích:
- KH N: khoa học tự nhiên

- XH: xã hội
- TDBC: tư duy biện chứng

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN


23



×