Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quá trình vận động dân tộc cách mạng giải phóng dân tộc ở hoàng hoá thời kỳ 1939 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.29 KB, 88 trang )

Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Lời cảm ơn!
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Trần Văn Thức người Thầy đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên
cứu và tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Lịch
sử Việt Nam, Khoa Lịch sử trường Đại học Vinh, Bảo tàng thư viện huyện
Hoằng Hóa, Ban tuyên giáo Huyện ủy Hoằng Hóa, Phịng địa chính Thanh
Hóa, Ban tun giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa, Ban nghiên cứu biên soạn lịch sử
Thanh Hóa đã tạo điều kiện giúp đở tác giả trong q trình sưu tầm tư liệu và
hồn thành luận văn.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Bố - Mẹ và bạn bè
thân thiết đã tạo điều kiện động viên tác giả hoàn thành luận văn này.
Vì thời gian và khả năng có hạn nên không thể tránh khỏi những hạn
chế của đề tài. Tác giả rất mong muốn sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và
các bạn sinh viên.

Vinh, ngày 5 tháng 5 năm 2003
Tác giả:

Nguyễn Văn Bài

1


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa điển hình đã giành đƣợc thắng lợi. Thắng lợi đó đã mở ra một kỷ
nguyên mới, một thời đại mới trong lịch sử dân tộc và có tác động ảnh hƣởng
tích cực, rộng lớn tới tồn cục. Tuy nhiên ở từng địa phƣơng trong cả nƣớc
cuộc cách mạng đó mang những nét độc đáo riêng biệt mà Hoằng Hoá là một
điển hình tiêu biểu về việc giành và giữ chính quyền trong cách mạng tháng
Tám. Hoằng Hố là một trong những địa phƣơng giành đƣợc chính quyền đầu
tiên trong cả nƣớc và giữ vững chính quyền đến ngày tồn quốc giành đƣợc
độc lập. Lê nin từng nói rằng: “Giành chính quyền đã khó, song giữ chính
quyền lại càng khó hơn”. Vậy điều gì đã làm nên sự “kỳ diệu‟‟ đó ở Hoằng
Hố trong khi điều kiện lịch sử chƣa chín muồi trong tồn quốc?
Việc đi sâu vào nghiên cứu phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở
Hoằng Hố (Thanh Hố) trong thời kỳ 1939 - 1945 khơng chỉ đƣa lại những
đóng góp về lý luận khoa học mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Từ đó giúp
chúng ta có cái nhìn tồn diện đầy đủ hơn về diện mạo của cuộc Cách mạng
tháng Tám trong cả nƣớc. Những bài học lịch sử quý giá rút ra từ phong trào
cách mạng ở Hoằng Hoá trong giai đoạn lịch sử này khơng chỉ có ý nghĩa cổ
vũ cho phong trào cách mạng của tồn tỉnh Thanh Hố và cả nƣớc bấy giờ mà
đối với công cuộc bảo vệ q hƣơng trong thời kỳ hiện nay nó vẫn cịn giữ
nguyên giá trị.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hoằng Hoá giàu truyền thống yêu
nƣớc, cách mạng, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, hiếu học... Đồng
thời là sinh viên khoa lịch sử sắp ra trƣờng đối với tôi việc nghiên cứu – biên
soạn lịch sử địa phƣơng là một cơng việc hồn tồn mới mẻ và hữu ích vì nó
tập cho tơi làm quen với kinh nghiệm, phƣơng pháp nghiên cứu khoa học lịch
2



Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

sử để tiến tới phục vụ cho nghiên cứu - biên soạn, cũng nhƣ giảng dạy lịch sử
địa phƣơng sau này.
Bởi những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Q trình vận động cách
mạng giải phóng dân tộc ở Hoằng Hoá thời kỳ 1939 - 1945” làm khoá luận tốt
nghiệp của mình.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
Nhiều năm gần đây việc nghiên cứu biên soạn lịch sử địa phƣơng đƣợc
đẩy mạnh và trở thành một nhu cầu thực sự quan trọng có ý nghĩa giáo dục to
lớn đƣợc nhiều cấp, ngành ở địa phƣơng quan tâm, chú ý.
Cũng nhƣ các địa phƣơng khác trong cả nƣớc, Thanh Hố có nhiều
cơng trình nghiên cứu lịch sử có chất lƣợng cao nhƣ “Địa chí Thanh Hố”
,“Lịch sử Thanh Hố” „Danh sỹ Thanh Hoá và việc học đời xƣa”, “Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Thanh Hố‟‟....
Nhƣ các địa phƣơng khác, Hoằng Hố cũng có những cơng trình lịch sử
có chất lƣợng cao nhƣ : “Địa chí văn hố Hoằng Hố”, “Lịch sử Đảng bộ
Hoằng Hoá”, “Hoằng Hoá 20 năm xây dựng, đổi mới và phát triển”... Một số
làng xã của Hoằng Hoá cũng bắt đầu biên soạn lịch sử địa phƣơng mình nhƣ:
Lịch sử xã Hoằng Lộc, Hoằng Quang, Lịch sử làng Hội Triều ( xã Hoằng
Phong)....
Viết về phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Hoằng
Hoá trong thời kỳ 1939 - 1945, cho đến nay đã đƣợc nhiều cơng trình lịch sử
đề cập tới với nhiều khía cạnh khác nhau. Đặc biệt phải kể đến những cơng
trình lịch sử sau:

- “Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng của nhân dân Hoằng Hoá,
Tập 1 (1930-1975). Nhà in báo Thanh Hố 1995. Cơng trình đã dành những
trang nhất định viết về lịch sử Hoằng Hoá từ năm 1939 đến 1945 (từ trang 73
đến trang 120).
3


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

- “55 năm hoạt động của Đảng bộ và nhân dân huyện Hoằng Hoá”, Nhà
xuất bản Thanh Hoá, 1985, đề cập tới cách mạng Hoằng Hoá viết giai đoạn
1939 - 1945 các trang từ 18-40.
- “Những sự kiện lịch sử Đảng Cơng sản Việt Nam huyện Hoằng Hố”
1925 - 1954. NXB Thanh Hố 1982, cũng trình bày những sự kiện lịch sử tiêu
biểu ở Hoằng Hoá thời kỳ (1939 - 1945) ở các trang từ 26 - 67.
- “Sơ giản lịch sử cách mạng tháng 8 (1939- 1945)”, NXB Thanh Hoá
1966, cũng đề cập tới một số nét lớn của cách mạng Hoằng Hoá 1939 – 1945,
đặc biệt dành những trang viết nhất định nói về cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở Hoằng Hố vào cuối tháng 7 năm 1945 ở các trang 19, 52 - 55, 66 70.
- “Niên biểu lịch sử Thanh Hố”, XN in Ba Đình Thanh Hoá 1998,
cũng giới thiệu những sự kiện lịch sử tiêu biểu của cách mạng Hoằng Hoá
(1939 - 1945) ở các trang: 111 - 112, 123 - 127, 129, 132 - 133 và 134.
- “Lịch sử Đảng Bộ tỉnh Thanh Hoá, tập I, 1930 - 1954”, NXB Thanh
Hoá, 2000, cũng đề cập đến cách mạng Hoằng Hoá thời kỳ 1939 - 1945 rải
rác ở các trang: 110, 113, 122 - 123, 125, 128, 156, 159 - 163.
- “Sơ thảo lịch sử Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Thanh Hoá, tập I (1939 1945)”, NXB Thanh Hố, 1982. Cơng trình cũng thể hiện một số chủ trƣơng
của tỉnh đảng bộ Thanh Hoá về chỉ đạo cách mạng Hoằng Hoá và một số sự

kiện tiêu biểu của lịch sử Hoằng Hoá( 1939 - 1945) ở các trang: 74, 81 - 82,
107, 111 - 113, 119, 125 và 128 - 129.
-“Vƣơn tới cao trào tập II ( trích Hồi ký cách mạng 1939 - 1945 )”,
NXB Thanh Hoá 1977, cũng dành một đề mục ghi hồi ký của đồng chí Lê
Chủ nói về phong trào đấu tranh của Nhà máy diêm Hàm Rồng (Nhà máy bấy
giờ đóng tại thơn Từ Quang - xã Hoằng Long - Hoằng Hoá) từ trang 26 - 62.

4


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

- “Năm mƣơi năm hoạt động của Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Thanh Hoá”.
NXB Thanh Hoá 1986, cũng đề cập đến cách mạng Hoằng Hoá 1939 - 1945 ở
các trang 31, 53 và 61 - 62.
- “Lịch sử Thanh Hoá, tập V 1930 - 1945”, NXB KHXHNV - Hà Nội
1996, cũng dành một chƣơng viết về phong trào chống Pháp ở Thanh Hố
trong đó có một số sự kiện nhắc tới Hoằng Hoá (1930 - 1945).
- “Sự phát triển của tƣ tƣởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng
tháng Tám” Trần Văn Giàu, NXBCTQG - Hà Nội (1997) có đề cập đến sự
kiện chống bắt phu của nhân dân Hoằng Hóa vào tháng 11 - 1943, ở trang
544.
- “Địa chí văn hố Hoằng Hố”, Ninh Viết Giao, chủ biên, NXBKHXH
- Hà Nội 2000, cũng dành một đề mục trình bày những nét khái quát của cách
mạng Hoằng Hoá từ khi Ban Vận động phản đế cứu quốc Hoằng Hoá ra đời
tháng 5- 1940 đến Cách mạng tháng Tám thành cơng, từ trang 288 - 232.
- “Địa chí Thanh Hố, Q1 (địa lý và lịch sử) ”, NXB Thanh Hoá 1996,

cũng nhắc qua cách mạng Hoằng Hoá giai đoạn 1939 - 1945 ở các trang 533,
538, 544 - 547.
- “Những sự kiện Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, 1925-1945”, NXB
Thanh Hoá 1978, cũng nhắc tới một số sự kiện lịch sử Hoằng Hố trong thời
gian này.v.v...
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đây dù ít hay nhiều, trực
tiếp hay gián tiếp đã đề cập đến nhiều khía cạnh của đề tài do chúng tơi lựa
chọn. Song chƣa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống,
nhiều vấn đề vẫn chƣa đƣợc làm sáng tỏ nhƣ chƣa đánh giá đúng mức về vai
trò của lực lƣợng cách mạng Hoằng Hoá và rút ra những bài học cần thiết,
những đặc điểm riêng của cách mạng Hoằng Hoá trong thời kỳ 1939 - 1945.

5


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Tuy nhiên những cơng trình nghiên cứu đƣợc đề cập trên sẽ là cơ sở
ban đầu vô cùng quý giá cho tác giả khi nghiên cứu, sẽ là nguồn tƣ liệu bổ
sung cho tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học lịch sử với một số vấn
đề cần làm sáng tỏ.

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
a. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tƣợng của đề tài là phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
Hoằng Hố trong thời kỳ 1939-1945. Do đó tác giả chủ yếu đi sâu vào tìm
hiểu các sự kiện lịch sử có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đối tƣợng đã

xác định trên.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đƣợc giới hạn trong thời gian lịch sử từ 1939-1945 tức là từ khi
Nghị quyết trung ƣơng VI (tháng 11-1939) của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chuyển hƣớng chiến lƣợc cách mạng Việt Nam cho đến khi cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ở Hoằng Hố giành thắng lợi mà đỉnh cao là vào ngày
24/07/1945. Đây là phần trọng tâm của đề tài. Tuy nhiên để trình bày một
cách có hệ thống hơn chúng tôi điểm qua phong trào cách mạng ở Hoằng Hoá
trƣớc năm 1939, khái quát một số nét lớn về lịch sử Hoằng Hố và vị trí địa lý
Hoằng Hoá. Đề tài cũng đƣợc xác định trong một khơng gian xác định là
huyện Hoằng Hố.
Việc giới hạn đề tài trong phạm vi nhƣ trên sẽ giúp chúng tôi có điều
kiện đi sâu vào nghiên cứu sâu hơn nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá xác
đáng về phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Hoằng Hố
trong thời kỳ 1939-1945. Đây chính là mục đích cuối cùng mà đề tài cần đạt
đến.

6


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

4. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Nguồn tư liệu.
Để phục vụ nghiên cứu - biên soạn đề tài, chúng tơi sƣu tầm tìm kiếm
các nguồn tƣ liệu có liên quan tới phong trào cách mạng của nhân dân Hoằng
Hoá trong thời kỳ 1939-1945.

Nguồn tƣ liệu thứ nhất phải kể đến các tài liệu đƣợc Ban nghiên cứu
lịch sử Đảng tỉnh Thanh Hoá tổ chức biên soạn nhƣ:
- “Sơ thảo lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá, tập I,
1925-1945”. NXB Thanh Hoá 1982.
- “Sơ giản lịch sử Cách mạng tháng Tám ở Tỉnh Thanh Hoá”. NXB
Thanh Hoá 1966.
- “42 năm hoạt động của đảng bộ Thanh Hoá”. NXB Thanh Hoá 1974.
-“50 năm hoạt động của Đảng bộ Thanh Hoá”. NXB Thanh Hoá 1986.
- “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá - tập 1-(1930-1954). NXB Thanh
Hoá 2000.
- “Vƣơn tới cao trào, tập II”. NXB Thanh Hoá1977 v .v. . .
Tuy nhiên đây là đề tài lịch sử riêng về Hoằng Hố nên tơi chủ yếu sƣu
tầm các tƣ liệu do chính địa phƣơng Hoằng Hố tổ chức biên soạn có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài nhƣ :
- “Địa chí văn hố Hoằng Hoá”. NXB KHXH - HN 1995; “Lịch sử
Đảng bộ và phong trào cách mạng của nhân dân Hoằng Hoá- tập I, (19301945)”. Nhà in báo Thanh Hoá 1995 ; “Những sự kiện lịch sử Đảng bộ
ĐCSVN huyện Hoằng Hoá (1925-1954)”. NXB Thanh Hoá 1982, “Văn kiện
Đảng bộ Hoằng Hoá” v v ...

7


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Các tƣ liệu lịch sử dân tộc có tính chất tham khảo hoặc liên quan ít
nhiều tới đề tài nữa nhƣ là: “Văn kiện Đảng (1939-1945)- BNCLSĐ TW 1963; “Đất nƣớc Việt Nam qua các đời” Đào Duy Anh, NXB Sử học 1962;
“Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XX” của tác giả Dƣơng Thị The - Phạm

Thị Hoa dịch và biên soạn, NXBKHXH 1988 v .v. . cũng đƣợc chúng tơi
tham khảo sử dụng trong q trình thực hiện đề tài.
Ngồi ra chúng tơi cũng cố gắng tiếp xúc với một số nguồn tƣ liệu gốc
nhƣ: văn bản, ấn phẩm của chính quyền cách mạng có liên quan đƣợc lƣu trữ
tại Bảo tàng Hoằng Hoá, Ban tuyên giáo Huyện uỷ Hoằng Hố, tham quan
các di tích lịch sử của Hoằng Hố ...Đồng thời chúng tơi cịn cố gắng lắng
nghe ý kiến của một số nhân chứng lịch sử, các vị lão thành cách mạng để
thực hiện đề tài của mình.
b) Phương pháp nghiên cứu.
Nguồn sử liệu viết khố luận này rất phong phú nhƣng cũng không kém
phần phức tạp. Do vậy việc lựa chọn phƣơng pháp nghiên cứu là một vấn đề
hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công hay thất bại của đề tài. Cho
nên nghiên cứu đề tài này tôi lựa chọn phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp
logic, phƣơng pháp so sánh, xác minh phê phán tƣ liệu lịch sử và phƣơng
pháp điền dã sƣu tầm lịch sử địa phƣơng.
Dựa vào các nguồn tƣ liệu đã thu thập đƣợc, đặc biệt là các tƣ liệu có
liên quan tới phạm vi của đề tài, công việc của chúng tôi không phải là lắp
ghép một cách máy móc, sao chép lại các nguồn tƣ liệu sẵn có mà từ các
nguồn tƣ liệu đó chúng tơi suy ngẫm, khái quát lại, phát hiện thêm những nét
riêng biệt độc đáo biến thành cái riêng của mình. Các tài liệu đó là cơ sở để
chúng tơi thực hiện đề tài này.

5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI.

8


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.


Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Hoằng Hoá trong phong trào cách mạng 1930-1939.
Chương 2: Hoằng Hoá với quá trình chuẩn bị lực lƣợng tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền (từ tháng 11 năm 1939 đến tháng 7 năm 1945).
Chương 3: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hoằng Hố .

Chƣơng 1:
HOẰNG HOÁ TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
1930 - 1939
1.1. VÀI NÉT KHÁI QT VỀ HOẰNG HỐ.
1.1.1 Vị trí địa lý.
Hoằng Hố là mảnh đất gắn bó hữu cơ với tỉnh Thanh Hoá, với Tổ
quốc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Nằm ở hạ lƣu sông Mã, Hoằng Hố là một huyện ven biển: Phía Đơng
giáp biển; Phía Tây giáp các huyện Thiệu Hố, Vĩnh Lộc; Phía Bắc giáp
huyện Hậu Lộc; Phía Nam giáp huyện Quảng Xƣơng, Thành Phố Thanh Hố
và một phần huyện Đơng Sơn.
Xét theo vĩ độ và kinh độ trên mặt địa cầu thì Hoằng Hoá ở vĩ tuyến
190 50‟50” Bắc ở Lạch Trào đến 19030‟30” vĩ độ Bắc ở núi Sơn Trang và kinh
độ 105050‟50” ở Ngã Ba Bông đến 105059‟30” ở Lạch Trƣờng.
Nhìn vào địa hình Hoằng Hố chúng ta thấy trừ phía Đơng là biển cịn
ba bề đều có sơng Mã bao bọc . Đây là một vùng châu thổ đƣợc bồi đắp bởi
nền đất cũ do hiện tƣợng biển lùi và sự lắng đọng của phù sa sông Mã, sông
Chu. Nhìn chung có thể chia mảnh đất Hoằng Hố làm hai vùng:
9



Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

- Vùng ven biển: bờ biển Hoằng Hoá kéo dài từ cửa Lạch Trƣờng (cửa
sông Mã cũ) đến Lạch Trào (cửa sông Mã hiện tại ) dài 12km . Sách Thanh
Hố dƣới triều Nguyễn ghi rằng: “Thanh Hố có nhiều cửa biển nhƣng chỉ có
2 cửa Hội Triều (Lạch Trào ) và Y Bính (Lạch Trƣờng) nếu có việc cần kíp
thì hai huyện Hoằng Hố và Hậu Lộc giữ vị trí xung yếu” [6; trang 8]. Các xã
ven biển gồm 8 xã thuộc tổng Ngọc Chuế cũ (8 xã là : Hoằng Trƣờng , Hoằng
Hải, Hoằng Yến, Hoằng Tiến, Hoằng Thanh, Hoằng Ngọc và Hoằng Đông ).
Đây là một dải đất cát rộng hẹp không đều, độ màu mỡ cũng khơng đều đƣợc
hình thành bởi các dịng hải lƣu xi ngƣợc dọc bờ biển bởi các đợt sóng
nhào của phù sa sông Mã, sông Chu. Đƣợc các dải cồn cát che chở và sự phát
triển của các dảỉ cồn cát đến đâu, cƣ dân định cƣ lập làng đến đó nên giờ đây
chúng ta còn thấy các tên làng nhƣ: Cồn Tiền, Cồn Tân, Cồn Hậu, Cồn Định
xã Hoằng Tiến v.v...
- Vùng đồng bằng: bao gồm tất cả các xã còn lại thuộc 7 tổng trƣớc đây
(7 tổng là : Từ Minh, Bái Trạch, Hành Vĩ, Bút Sơn, Dƣơng Sơn, Dƣơng Thuỷ,
Lỗ Hƣơng). Những giải thích về vùng biển Hoằng Hố có thể cắt nghĩa cho cả
địa bàn huyện Hoằng Hoá. Bởi lẽ nhiều xã trƣớc đây là biển nhƣ xã Hoằng
Thắng, Hoằng Phong... Khi biển rút đi cùng với q trình lịch sử địa lí đến
một thời gian nào đó hình thành vùng đồng bằng trũng, mà hễ mƣa nếu
khơng có đê là nƣớc ngập, nhắc chúng ta nhớ tới các dịng sơng, các đầm lầy
cũ. Vùng đất cao vẫn có nhƣng rất ít, chỉ có mấy làng ven núi Sơn Trang (xã
Hoằng Khánh), một số làng ở Hoằng Trung.
Tóm lại bộ mặt địa hình Hoằng Hố bằng phẳng phì nhiêu, bộ mặt địa
hình ấy khơng phải chỉ do thiên nhiên tạo ra mà phần lớn cảnh quan của đồng
bằng, độ màu mỡ của đồng bằng, sự sầm uất, trù mật của xóm làng.Ở cái địa

bàn khá đơng dân cƣ này đều mang dấu vết của bàn tay trí não của con ngƣời

10


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Hoằng Hố rịng rã bao thế kỷ tạo nên một quê hƣơng giàu đẹp và rất đỗi tự
hào.
Địa hình Hoằng Hố nhƣ đã nói trên nhìn chung là bằng phẳng. Du
khách đến Hoằng Hố muốn ngắm nhìn thiên nhiên cũng không phải chỉ thấy
sự bao la của đồng bằng mà cịn có những ngọn núi xen kẽ nhƣ núi Kim Trà
(Sơn Trang hay Nghĩa Trang) thuộc xã Hoăng Khánh, núi Linh Trƣờng (Kim
Chuế, Trƣờng Lệ, Lạch Trƣờng hay núi Hà Rò) nằm ở 3 xã Hoằng Yến,
Hoằng Hải, Hoằng Trƣờng, núi Băng Sơn (Mộc Sơn, núi Bƣng) thuộc địa
phận làng Xuân Sơn, xã Hoằng Sơn. Núi Ngọc Hàm Rồng (hay gọi núi con
Nít) thuộc xã Hoằng Long. Núi Cữi ở xã Hoằng Trinh... Mỗi vùng là mỗi một
thắng cảnh gắn với bao kỳ tích chiến đấu và xây dựng của tiền nhân nên núi
nào cũng có linh hồn, cũng lung linh sinh động, tiềm ẩn thể hiện những nét
tinh hoa, khát vọng, nỗi niềm của con ngƣời Hoằng Hoá, vẻ đẹp, đức cần cù,
trí tuệ thơng minh của nhân dân Hoằng Hố. Một số núi có vị trí đặc biệt quan
trọng nhƣ núi Kim Trà, núi Linh Trƣờng, núi Ngọc Hàm Rồng. Dãy Kim Trà
ở phía Bắc làm ranh giới với Vĩnh Lộc, Hà Trung có nhiệm vụ án ngữ các đợt
gió mùa Đơng Bắc vào mùa đơng. Cịn dãy Linh Trƣờng nằm ở phía Đơng
Bắc của Hoằng Hố có đỉnh cao nhất là 205m, có mỏm đá ăn lan ra biển nhƣ
múi hài có nhiêm vụ ngăn chặn xu hƣớng chuyển dịch của Lạch Trƣờng về
phía Nam giữ thế ổn định lâu dài cho bờ biển Hoằng Hoá. Các núi thấp và

nhỏ tạo nên cho cảnh quan Hoằng Hoá trù mật trữ tình, phối hợp với dịng
sơng Mã bao bọc cùng hệ thống sơng ngịi chảy ngang dọc nhƣ sông Cung nối
liền 2 cửa biển Lạch Trƣờng và Lạch Trào; sơng Tuần chảy giữa huyện
Hoằng Hố nối thành mạng lƣới giao thông đƣờng thuỷ lên rừng, xuống biển
dễ dàng.
Hoằng Hố nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nhƣng lại ở vùng biển
nên hàng năm nhận đƣợc 3 luồng gió chính: gió mùa Đơng Bắc, gió mùa Tây
11


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Nam và gió mùa Đơng Nam. Cũng nhƣ tồn Tỉnh Thanh Hoá thời tiết Hoằng
Hoá chia làm hai mùa rõ rệt mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ trung
bình là 280C, có khi lên tới 400C cũng có ngày 210C, thƣờng xun giơng bão.
Mùa lạnh từ tháng 1 đến tháng 4 năm sau, có nhiệt độ trung bình 20 0C, có khi
giảm xuống đột ngột cịn 100C, khí hậu khơ, lạnh thƣờng có sƣơng mù.
Với vị trí địa lý tự nhiên nhƣ trên, Hoằng Hoá là huyện vừa có đƣờng
biển, đƣờng sơng, đƣờng bộ thuận lợi cho phát triển giao thơng, giao lƣu kinh
tế, văn hố với nhiều vùng xung quanh. đặc biệt là tuyến giao thông quan
trọng nhƣ quốc lộ 1A song song với một đƣờng sắt Bắc - Nam dài 9 km từ
Nghĩa Trang đến Hàm Rồng, hơn 30km đƣờng sông của các sông Mã, sơng
Bút, sơng Cung.
Tuy nhiên, điều kiện địa lý nói trên cũng đƣa lại cho cƣ dân Hoằng Hố
khơng ít khó khăn, nhất là khó khăn trong sản xuất kinh tế nhƣ lũ lụt, hạn hán
gây ảnh hƣởng tới mùa màng, vật ni, làm hƣ hỏng các cơng trình thuỷ lợi...,
khiến cho cƣ dân Hoằng Hố ln phải vật lộn với điều kiện thiên nhiên khắc

nghiệt để sinh tồn.
Về mặt địa lí hành chính, từ thời Hùng Vƣơng đến nay Hoằng Hoá trải
qua nhiều lần thay đổi tên gọi đơn vị hành chính nhƣ:
Ở thời Văn Lang- Âu Lạc, Hoằng Hố là đất thuộc bộ Cửu Chân, một
trong 15 bộ của nƣớc ta bấy giờ. Sang thời Bắc thuộc cũng nhƣ nhiều vùng
trên lãnh thổ Việt Nam, Hoằng Hoá bị phong kiến Trung Hoa đô hộ hơn 1000
năm. Trong hơn 1000 năm thống trị, chính quyền đơ hộ đã nhiều lần thay đổi
tên gọi đơn vị hành chính nhƣ: thời thuộc Hán, đất đai Hoằng Hoá thuộc quận
Tƣ Phố; đời Tam Quốc, Lƣỡng Tấn là đất huyện Kiến Sơ và Cao An. Thời
Nam - Bắc triều vẫn thế. Sang thời Tuỳ đổi tên là Long An. Đời thuộc Đƣờng
đổi Long An thành Sùng An (712), sau đổi thành Sùng Bình.

12


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Vào năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đƣa đất nƣớc
ta giành lại độc lập tự chủ lâu dài. Tiếp theo các nhà nƣớc Ngô - Đinh - Tiền
Lê...đã tìm cách bãi bỏ hẳn các tên gọi đơn vị hành chính cũ, cũng nhƣ chế độ
quận huyện thời Bắc thuộc, chia nƣớc ta thành các đạo, phủ, trấn.
Từ thế kỷ X-XV, Hoằng Hoá thuộc đất của hai huyện Cổ Hoằng (vùng
nam Hoằng Hoá) và Cổ Đằng (vùng bắc Hoằng Hoá ngày nay) [2; tr 29].
Đời Lê sơ thế kỷ XV Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây: “năm Quang
Thuận thứ 10 (1469), đổi làm Thanh Hoá Thừa tuyên - tên Thanh Hố có từ
đây, huyện Cổ Đằng đổi thành huyện Hoằng Hoá” [1; tr 198]. Cái tên Hoằng
Hoá chính thức bắt đầu từ đấy và tồn tại đến ngày nay.

Hoằng Hoá theo “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XX” có “7 tổng,
161 xã, thơn, trang, sở, đến năm 1945 có 8 tổng, 169 xã, thơn”.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, theo quy định của chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, các phủ, huyện, châu đều gọi là huyện. Các
huyện chỉ điều chỉnh lại một số phần đất riêng. Hoằng Hoá vẫn đủ 8 tổng và
nhập thêm 1 làng của huyện Hậu Lộc là làng Trung Hoá nay thuộc xã Hoằng
Trinh. Hiện nay Hoằng Hoá có 47 xã, thị trấn huyện lỵ là Bút Sơn.
Nhƣ vậy mặc dù tên gọi và một số phần đất có sự chuyển dịch qua các
thời kỳ nhƣng nhìn chung Hoằng Hố vẫn ln là địa bàn ổn định và phát
triển liên tục qua các qua các thời kỳ lịch sử.
1.1.2 Truyền thống yêu nước và cách mạng
Gắn bó máu thịt với xứ Thanh, với Tổ quốc Việt Nam, Hoằng Hoá là
nơi hội tụ nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc nhƣ: truyền thống tự lực tự
cƣờng, sáng tạo, hiếu học... , đặc biệt là truyền thống yêu nƣớc và cách mạng
rất đáng tự hào.

13


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Trong hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến Trung Hoa, cùng với nhân
dân Thanh Hoá và cả nƣớc, nhân dân Hoằng Hố khơng ngừng vƣơn lên, kiên
trì đấu tranh chống lại âm mƣu đồng hoá của kẻ thù. Điều đó đã tạo ra cho
Hoằng Hố một sắc thái riêng biệt, một truyền thống yêu nƣớc kiên cƣờng, là
cơ sở cho các phong trào cách mạng sau này.
Ngay từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trƣng vào Mùa xuân năm 40 bùng nổ

ở quận Giao Chỉ, nghĩa binh Hoằng Hoá đã có mặt ở trung tâm ban đầu của
cuộc khởi nghĩa. Thần tích làng Phú Hạng xã Tân Phú huyện Quốc Oai - Hà
Tây ghi rõ: “ ông Nguyễn Viên ở Hoằng Hoá giữ chức trƣởng doanh ở Cổ
Châu, lấy bà Trần Thị Lâm sinh đƣợc Ả Lã sau đổi là nàng Đê và ngƣời con
trai tên là chàng Quốc. Đến tuổi trƣởng thành, Ả Lã và chàng Quốc theo Hai
Bà khởi nghĩa và mất tại Cấm Khê. Hình ảnh chị em Ả Lã còn ăn sâu trong
tâm khảm của nhân dân các vùng Hoài Đức (Hà Tây) và Gia Lƣơng ( Hà
Bắc)” [19; tr183].
Thời thuộc Ngô vào năm 248, Triệu Trinh Nƣơng, ngƣời anh hùng xứ
Thanh khởi binh đánh giặc Ngô, bấy giờ tại ngã ba sông Tuần Ngu (xã Hoằng
Lý) đã có đồn tiền tiêu của Bà Triệu và qn của Bà Triệu cịn đóng ở bãi
“Cồn Binh” ở Hoằng Giang và “bãi binh” ở Lộc Bồi - Hoằng Hợp. Nhân dân
nhiều nơi ở Hoằng Hoá cũng đã gia nhập vào đội quân khởi nghĩa của Bà
Triệu. Đến nay vẫn còn câu thơ lƣu truyền ở Quỳ Chử (xã Hoằng Quỳ) nhƣ :
„Phƣờng ta, phƣờng Tổ, tổ tiên
Nuôi quân Bà Triệu đã quen từng ngày
Voi ngựa trú ở mã này
Mỗi khi xung trận đánh rày quân Ngô‟‟ [6; tr19].
Năm 542, Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa đuổi quân Lƣơng, nhân dân Hoằng
Hố đã góp phần xứng đáng vào cuộc khởi nghĩa này. Thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa đã đem đến cho nhân dân Hoằng Hoá những giây phút thanh bình
14


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

của nhà nƣớc Vạn Xuân. Nhiều danh tƣớng của cuộc khởi nghĩa Lý Bý nhƣ

Lý Thiên Bảo, Triệu Quang Phục đƣợc nhân dân Hoằng Hoá lập đền thờ
cúng tế ở thôn Dƣơng Thành (xã Hoằng Thành), ở Phƣợng Mao (xã Hoằng
Phƣợng). . .
Trên dọc sông Tuần, sông Mã nhân dân vùng ven cũng đã đem thuyền
chiến, lƣơng thực ủng hộ Ngô Quyền từ Ái Châu qua đây đi đánh giặc Nam
Hán tại sơng Bạch Đằng.
Dƣới thời phong kiến, Hoằng Hố là địa bàn chiến lƣợc quan trọng
đƣợc nhiều triều đại chú ý tới.
Ở thời Lý (1010 - 1225), trong nhiều lần cất quân đánh Chiêm Thành,
các vua nhà Lý đã dừng lại ở Hoằng Hoá đễ tuyển thêm quân đánh giặc
(1031, 1035, 1044). Bấy giờ Hoằng Hố có nhiều tƣớng giỏi nhƣ Lê Phụng
Hiểu (xã Hoằng Sơn) đƣợc vua Lý Thái Tổ phong làm Vũ Vệ tƣớng quân.
Khi Thái Tổ qua đời, các vƣơng gây biến, ông đã đánh dẹp đƣa Thái Tơng lên
ngơi, giữ n triều Lý. Ơng cịn có cơng lớn lao trong việc dẹp giặc Chiêm
Thành giữ yên bờ cõi phía Nam. Danh tƣớng Nguyễn Tuyên (Hoằng Lộc)
cũng có nhiều cơng lớn dƣới triều Lý, khi chết đƣợc phong làm phúc thần
đƣợc lập đền thờ tại quê hƣơng.
Những năm kháng chiến chống quân Nguyên Mông và bọn giặc
phƣơng Nam ở đời Trần, cửa Lạch Trƣờng là nơi đọ sức quyết liệt giữa thuỷ
quân triều đình với quân địch. Nhiều làng xã quanh vùng đã nhanh chóng
đóng bè mảng, chặt cây vót nhọn để ủng hộ binh lính nhà vua. Hoằng Hố
cũng đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nhiều danh tƣớng
nhƣ: Nguyễn Công Đàn (Hoằng Thịnh), lập công lớn đƣợc nhà vua phong tới
chức Phụ ký lang hầu đô tổng thống. Khi chết đƣợc triều đình cho làm phúc
thần, đền thờ hiện nay cịn ở làng Đoan Vĩ (Hoằng Thịnh). Danh tƣớng

15


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử

2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Hồng Phụng Thế có cơng bắt sống bọn phản loạn Phạm Sƣ Ơn chiếm giữ
Thăng Long giúp nhà Trần thốt khỏi sự xâm lƣợc của Chiêm Thành...
Dƣới thời thuộc Minh, có lần nghĩa qn Lam Sơn vƣợt qua sơng Mã ở
Cổ Đằng, Lê Lợi đã đƣợc nhân dân nhiều nơi giúp đỡ. Về sau có ngƣời nhƣ
bà Hà Thị Cai ở Nghĩa Hƣng ( Hoằng Xuân), đƣợc vua Lê ghi công lập đền
thờ tƣởng niệm tại quê nhà gọi là đền Quốc Mẫu. Hoặc có ngƣời đã trở thành
danh tƣớng khai quốc công thần của nhà Lê nhƣ : Lê Viện (Hoằng Thành),
từng chỉ huy đánh thắng các trận Tuỵ Động, Chúc Động bao vây thành Đông
Quan và hy sinh anh dũng (1426). Khi đất nƣớc thanh bình đƣợc vua Lê Thái
Tổ ban là “Hoàng Triều Trận Vong” khen là “hết lòng tiết tháo‟‟ và truy tặng
chức “Lê triều quận công‟‟.
Cuối năm Mậu Thân (1788) Quang Trung mang đại binh ra Bắc diệt
giặc Thanh thì nhân dân vùng bến đị Đồng Lộng ( xã Hoằng Tân- Hoằng
Hoá) đã tới tấp mang thuyền bè chở nghĩa qn vƣợt sơng nhanh chóng.
Nửa sau thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, triều đình nhà
Nguyễn đại diện cho thế lực phong kiến từng bƣớc nhƣợng bộ, thoả hiệp, đầu
hàng dâng nƣớc ta cho giặc. Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân nhiều nơi
đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Ngay từ khi thực dân
Pháp đặt chân lên đất Thanh Hố, nhân dân Hoằng Hố đã tích cực tham gia
phong trào Cần Vƣơng do các sỹ phu yêu nƣớc lãnh đạo, tiêu biểu nhƣ cụ
Nguyễn Đôn Tiết (Hoằng Đức), Cao Điển (Hoằng Giang), Lý Trực (Hoằng
Trung)….Phong trào yêu nƣớc do các sĩ phu yêu nƣớc Hoằng Hoá lãnh đạo
đã liên kết phối hợp với 2 cuộc khởi nghĩa nổi tiếng ở Thanh Hố là Ba Đình
và Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân, Trần Xuân Soạn lãnh đạo.
Sau phong trào Cần Vƣơng là phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông
Kinh Nghĩa Thục và cuộc vận động chống thuế ở Trung Kỳ. Hoằng Hố đã có

nhiều ngƣời tham gia nhƣ thủ khoa Nguyễn Đôn Dự (Hoằng Đức), cử nhân
16


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Nguyễn Đức Phƣơng ở Hoằng Long và một lớp trí thức mới nhƣ Nguyễn
Phục Thuỷ ( Hoằng Đạt), Lƣơng Tái Tạo (tức Hàn Quang) ở xã Hoằng
Phong...
Tinh thần yêu nƣớc của các vị tiền bối đã để lại một di sản thiêng liêng
cho các thế hệ con cháu Hoằng Hoá tiếp nối.
Kế tục truyền thống vẽ vang đó, các tầng lớp thanh niên, của quê hƣơng
Hoằng Hoá sau này nối tiếp cha ông tiếp bƣớc trên con đƣờng cứu nƣớc.
Năm 1925 – 1926, luồng gió cách mạng mới thổi vào Hoằng Hố, các
đồng chí Lê Mạnh Trinh (Hoằng Lộc) Lê Tất Đắc (Hoằng Phúc) Phùng
Quang Diệu (Hoằng Đức), là những thanh niên yêu nƣớc tiêu biểu của Hoằng
Hoá sớm tiếp thu tƣ tửơng cách mạng vô sản .
Từ sự tiếp thu này cùng với một số đồng chí ở tỉnh ngồi về hoạt động
ở Hoằng Hố đã đƣa đến sự ra đời các tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng.
Các tổ chức tiền thân lần lƣợt đƣợc ra đời ở Hoằng Hoá nhƣ Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội thành lập năm 1927 ở Cự Đà (Hoằng Minh),
các chi bộ của Tân Việt cách mạng Đảng ra đời ở Phú Khê (Hoằng Phú), Yên
Vực (Hoằng Long), Hội Triều (Hoằng Phong).
Sự ra đời 2 tổ chức tiền thân cách mạng của Đảng ở Hoằng Hoá đã đáp
ứng đƣợc yêu cầu khách quan của lịch sử, trong việc xây dựng một Đảng tiền
phong lãnh đạo cách mạng, Đảng của giai cấp vô sản. Trên cơ sở của 2 tổ
chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và Tân Việt Cách

Mạng Đảng, ngày 1 tháng 9 năm 1930 chị bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam
Hoằng Hoá đƣợc tổ chức. Từ đây nhân dân Hoằng Hoá đã đi lên với lịch sử
đấu tranh hào hùng của Đảng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân.
Tóm lại trải qua quá trình lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc
truyền thống yêu nƣớc và cách mạng nhân dân Hoằng Hoá ngày càng đƣợc
17


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

khẳng định bên cạch các truyền thống cần cù sáng tạo, hiếu học.... Truyền
thống đó là di sản vơ cùng q giá để nhân dân Hoằng Hố phát huy khơng
ngừng trong việc xây dựng và bảo vệ quê hƣơng, góp phần xứng đáng vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

1.2 PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở HOẰNG HOÁ TRONG
NHỮNG NĂM 1930-1939
Ngày mồng 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh ra đời. Đây
là một sự kiện có ý nghĩa chính trị lớn lao trong lịch sử dân tộc: “là bƣớc
ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó
chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã trƣởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng‟ [20;
tr152]. Đồng thời nó chấm dứt thời kỳ đen tối khơng có đƣờng ra, chấm dứt
sự khủng hoảng bế tắc đƣờng lối cách mạng Việt Nam.
Từ đây dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh,
nhiều chi bộ, Đảng bộ địa phƣơng đã lần lƣợt ra đời trên cả 3 miền đất nƣớc
(Bắc- Trung- Nam), kể cả trong các cơ sở Việt kiều ở nƣớc ngoài.

Tháng 7-1930, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hố đƣợc
thành lập. Đồng chí Lê Thế Long trở thành Bí thƣ Đảng bộ đầu tiên [8; tr
45]. Sự kiện lịch sử quan trọng ấy mở ra trong đời sống chính trị của nhân dân
Thanh Hoá con đƣờng tiến lên dƣới sự lãnh đạo của của Đảng tiền phong, của
giai cấp công nhân để tự giải phóng. Sau sự kiện này khơng lâu, tháng 91930, chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hoằng Hoá đƣợc tổ chức ở thôn Cự
Đà (xã Hoằng Minh) do đồng chí Lê Viết Phồn làm Bí thƣ chi bộ [6; tr 58].
Sự kiện này đánh dấu một bƣớc chuyển biến mới của phong trào cách mạng ở
Hoằng Hoá .
18


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Chi bộ Đảng vừa mới ra đời đã bị kẻ thù khủng bố ráo riết và tan rã
vào cuối tháng 10 năm 1930. Tuy nhiên, dƣới ảnh hƣởng đƣờng lối cách
mạng của Đảng, các phong trào đấu tranh của nhân dân Hoằng Hố vẫn tiếp
tục đƣợc duy trì, phát triễn trong thời kỳ 1930-1931 và mở rộng trong thời kỳ
Mặt trận Dân chủ (1936-1939), tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền .
Đầu năm 1931 đồng chí Lê Tất Đắc, Uỷ viên Xứ ủy Trung Kỳ quê ở xã
Hoằng Phúc - Hoằng Hoá, sau khi gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nghệ
An đƣợc xứ uỷ cử về Thanh Hoá gây dựng lại phong trào cách mạng và khôi
phục lại Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá vừa mới bị khủng bố và tổ chức phong trào
đấu tranh chống địch khủng bố trên tồn tỉnh Thanh Hố. Một lần nữa kẻ thù
bị phát hiện, khủng bố, bắt đƣợc đồng chí Lê Tất Đắc và một số đảng viên
khác làm cho phong trào tạm thời lắng xuống.
Ở Hoằng Hoá vào thời điểm này tuy chƣa bắt đƣợc mối với Đảng bộ
tỉnh Thanh Hoá nhƣng một bộ phận thanh niên tiến bộ bấy giờ nhƣ Hoàng

Minh Phụng, Hoàng Minh Việt, Phùng Quang Diệu…, do ảnh hƣởng của cao
trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh đã bí mật tập hợp nhau lại tại thơn Phú
Vinh xã Hoằng Vinh để tìm cách hoạt động. Trên cơ sở đó, họ đã liên hệ đƣợc
với một tổ chức Công hội đỏ của Nhà máy diêm Hàm Rồng (nhà máy cũ nằm
trên đất Từ Quang - Xã Hoằng Long - Hoằng Hố) và tổ chức cho cơng nhân
đấu tranh địi tăng lƣơng giảm giờ làm. Phong trào cơng nhân đã ảnh hƣởng
tới phong trào nông dân các khu vực lân cận. Tháng 9-1931 Công hội đỏ Nhà
máy diêm Hàm Rồng đã vận động rải truyền đơn hƣởng ứng kỷ niệm Cách
mạng tháng 10 Nga và Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Cuộc rải truyền đơn đã lôi kéo
đƣợc một bộ phận nơng dân các làng Phƣợng Đình (xã Hoằng Anh), Yên Vực
(xã Hoằng Quang) tham gia hƣởng ứng [3;tr 17].
Cuối tháng 11-1931 cuộc đình cơng của nữ cơng nhân Nhà máy diêm
Hàm Rồng diễn ra ở nhà chấm thuốc và nhà que địi tăng tiền cơng cho chị em
19


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

công nhân. Trƣớc áp lực của phong trào đấu tranh, bọn chủ nhà máy phải
chấp nhận cải thiện mội phần đời sống của công nhân cho chị em tăng từ 5 xu
lên 6 xu một ngày [3;tr18]. Từ tháng lợi ấy, số cơng nhân làm khốn ở nhà
máy, càng thêm tin tƣởng đồn kết chống áp bức, bóc lột.
Cũng trong năm 1931 phong trào đấu tranh của nông dân Hoằng Hố
cũng phát triễn mạnh mẽ. Điển hình là cuộc đấu tranh của nông dân 2 thôn
Hồng Văn và Nhuệ Bút (xã Hoằng Thắng) dƣới sự chỉ đạo của đồng chí
Phùng Quang Diệu (Hoằng Đức ),đã tổ chức nông dân đấu tranh đòi miễn
giảm sƣu thuế. Cuộc đấu tranh đã thu hút hơn 50 nông dân 2 thôn trên tham

gia ký vào bản kiến nghị gửi lên lý trƣởng và cai tổng Hành Vĩ địi quyền lợi
cho nơng dân. Hoảng sợ trƣớc phong trào đấu tranh của nông dân Hồng Văn,
Nhuệ Bút, bọn cai, lý ở địa phƣơng đã trình báo lên tri phủ cho lính về đàn áp
và kết quả là có 2 quần chúng tiêu biểu là Lý Xừ và Nguyễn Văn Tân bị
chúng bắt và giải về phủ trị tội, nhằm răn đe sự nỗi dậy của nông dân [6;tr 6061]. Việc làm của tri phủ đã bị nhân dân 2 thôn trên phản đối gay gắt, họ tập
trung lực lƣợng kéo lên phủ đƣờng gây áp lực đòi tri phủ trả ngƣời và nêu yêu
sách miễn giảm sƣu thuế, buộc tri phủ phải miễn cƣỡng chấp nhận thả 2 quần
chúng tiêu biểu trên. Thắng lợi của cuộc đấu tranh càng làm cho nông dân tin
tƣởng hơn ở sức mạnh đồn kết của lực lƣợng mình. Đặc biệt phong trào đã
gây tiếng vang trong tồn huyện Hoằng Hố.
Song cũng nhƣ phong trào chung trong tỉnh Thanh Hoá, do thiếu sự chỉ
đạo cụ thể của tổ chức Đảng nên sau các cuộc đấu tranh này, phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân dân Hoằng Hoá bị lắng xuống một thời gian từ
1932 - 1935 trƣớc sự tăng cƣờng khủng bố của bọn thực dân, phong kiến. Đến
thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939), một phong trào đấu tranh mới lại
bùng lên mạnh mẽ thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân huyện Hoằng Hoá
tham gia hƣởng ứng.
20


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Bƣớc sang năm 1936, tình hình thế giới và trong nƣớc có nhiều chuyển
biến mau lẹ. Mặt trận nhân dân đƣợc thành lập ở nhiều nƣớc nhƣ: Tây Ban
Nha, Trung Quốc. Tháng 1-1936 Mặt trận nhân dân Pháp đƣợc thành lập,
theo đó chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp lên nắm quyền (chính phủ Lê Ơng
Blum làm thủ tƣớng) và có những chính sách tiến bộ đối với thuộc địa nhƣ

việc thả tù chính trị ở các thuộc địa và cử ngƣời sang điều tra tình hình kinh
tế - xã hội thuộc địa. Tình hình đó gây ảnh hƣởng tích cƣc đến cuộc đấu tranh
của các thuộc địa Pháp, trong đó có Việt Nam.
Trƣớc tình hình quốc tế thuận lợi trên, Trung ƣơng Đảng chủ trƣơng
chuyển hƣớng sang đấu tranh công khai hợp pháp. Tại hội nghị Ban chấp
hành Trung ƣơng của Đảng Cộng Sản Đông Dƣơng (tháng 7-1936) do đồng
chí Lê Hồng Phong chủ trì đã phát động phong trào đấu tranh đòi tự do, dân
sinh, dân chủ, cơm áo, hồ bình trong tồn quốc. Chủ trƣơng mới của Đảng
có tác động tích cực tới phong trào cách mạng của nhân dân Hoằng Hoá bấy
giờ.
Tại Hoằng Hoá, ngay từ tháng 7-1936 đã hình thành “Ban vận động
đọc sách báo cơng khai” của Đảng do đồng chí Hồng Minh Phụng chủ trì,
thu hút nhiều thanh niên, tri thức cách mạng tham gia. Ban vận động ra đời
khẩn trƣơng triễn khai phong trào đọc sách báo công khai của Đảng tại một số
tổng ở Hoằng Hoá nhƣ Bái Trạch, Bút Sơn, Hành Vĩ , Ngọc Chuế [6;tr 63].
Đồng thời, Ban vận động còn tuyên truyền chủ trƣơng cách mạng của
Đảng trong các tầng lớp nhân dân trong tồn huyện Hoằng Hố. Nhờ các hoạt
động tích cực của Ban vận động đọc sách báo cơng khai Hoằng Hố mà các
chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng nhanh chóng đƣợc phổ biến trong tồn huyện
Hoằng Hố và đƣợc nhân dân tích cực hƣởng ứng trong các cuộc đấu tranh
tiếp theo.

21


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -


Tháng 1-1937, thực hiện chủ trƣơng của tỉnh uỷ Thanh Hoá phát động
phong trào lấy chữ ký vào bản kiến nghị gửi Gt Tanh Gơ Đa (phái viên
chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang Đơng Dƣơng điều tra tình hình thuộc
địa), địi quyền dân sinh, dân chủ .
Ở Hoằng Hố các đồng chí Phùng Quang Diệu, Lê Trọng Nghi…, đã
kịp thời tổ chức vận động lấy chữ ký hƣởng ứng phong trào. Cuộc vận động
diễn ra sôi nổi ở các tổng Bút Sơn, Hành Vĩ, Bái Trạch, thu hút hơn 500 quần
chúng tham gia hƣởng ứng [3; tr19-20].
Qua hai cuộc vận động công khai rộng lớn, cuối tháng 7 năm 1936 và
đầu năm 1937, năng lực tổ chức, chỉ đạo phong trào của một số cán bộ nòng
cốt trong huyện Hoằng Hoá đƣợc nâng lên rõ rệt nhƣng phong trào cũng bộc
lộ những nhƣợc điểm quan trọng nhƣ phong trào diễn ra chƣa đồng đều, chủ
yếu mới dừng lại ở một số làng tổng phía Nam huyện. Mặt khác phong trào
mới đi sâu vào một số quần chúng tiến bộ ở tầng lớp trên, lớp quần chúng cơ
bản chƣa đƣợc phát triễn rộng rãi nên chƣa có sức mạnh vững chắc.
Nhận thức đƣợc tồn tại này, Ban vận động chủ trƣơng đẩy mạnh các
cuộc vận động chống cƣờng hào nhũng nhiễu ở nơng thơn địi cải thiện quyền
lợi dân sinh, dân chủ hàng ngày của nông dân lao động .
Trong lúc đang chuẩn bị bƣớc vào cuộc đấu tranh của giai cấp nơng
dân ở các làng tổng, thì một số tù chính trị ở Lao Bảo và nhà tù Thanh Hoá,
do tác động của phong trào Mặt trận Dân chủ, đã đƣợc trả lại tự do. Nhiều
đồng chí đã trở về địa phƣơng Hoằng Hoá hoạt động nhƣ Lê Viết Phồn (xã
Hoằng Minh ), Trƣơng Khắc Khoan (xã Hoằng Đơng)..., phối hợp với nhóm
thanh niên cách mạng ở Hoằng Hoá đẩy cuộc vận động dân chủ phát triển lên
một bƣớc mới với những cuộc đấu tranh thu đƣợc kết quả rõ rêt. Tiêu biểu là
các cuộc vận động chống cƣờng hào áp bức bóc lột ở 2 thơn Nguyệt Viên (xã
Hoằng Quang) và Cự Đà (xã Hoằng Minh).
22



Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

Đầu tháng 4 năm 1937, nông dân làng Nguyệt Viên đã tổ chức cuộc
vận động đấu tranh đòi hội đồng lý, hƣơng phải trả số tiền đấu cố ruộng đất
công cho nông dân [3; tr 20]. Cuộc đấu tranh này diễn ra dƣới hình thức làm
đơn kiến nghị gửi lên quan trên và viết báo công khai tố cáo hành động tham
nhũng của hội đồng lý, hƣơng. Kết quả bọn lý hƣơng làng Nguyệt Viên phải
trả lại cho dân làng 300 quan tiền và một số tên bị cách chức. Trƣớc áp lực
đấu tranh của quần chúng và dƣ luận báo chí , tháng 4-1937 Khâm sứ Trung
Kỳ Gờ - Ráp - Phơi phải chỉ thị cho Công sứ Thanh Hoá buộc hội đồng lý,
hƣơng phải bồi thƣờng cho dân và cắt chức một số tên trong hội đồng hƣơng,
lý. Ngày 8-4-1937, tờ báo “Dân chúng” ở Sài Gòn đã đăng tin thắng lợi của
cuộc đấu tranh này [6,tr 66]. Thắng lợi của nông dân làng Nguyệt Viên đã cổ
vũ cho phong trào đấu tranh của nơng dân tồn huyện Hoằng Hoá.
Đƣợc sự cổ vũ của phong trào đấu tranh của dân làng Nguyệt Viên,
nông dân ở nhiều làng tổng trong huyện cũng nỗi dậy đấu tranh chống bọn địa
chủ, cƣờng hào địa phƣơng. Điển hình là cuộc đấu tranh của nông dân làng
Cự Đà (Hoằng Minh) vào tháng 8-1937 nhằm hạ uy thế của tên lý trƣởng
gian ác trong làng. Phong trào đựơc sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Viết
Phồn (Bí thƣ chi bộ Đảng Hoằng Hoá đầu tiên 9-1930) trực tiếp chỉ đạo. Cuộc
đấu tranh diễn ra liên tiếp trong một tuần lễ đã lôi khéo đƣợc một số tuần phu
đứng về phía quần chúng bắt trói tên lý trƣởng giải lên cho tri phủ Hoằng Hoá
trị tội. Trƣớc áp lực mạnh mẻ của quần chúng, tri phủ buộc phải cho lính giải
lý trƣởng về làng cho nhân dân trị tội [6; tr 66]. Thắng lợi của dân làng Cự Đà
một lần nữa chứng tỏ sức mạnh đồn kết của nhân dân Hoằng Hố trong đấu
tranh cách mạng.
Cùng với các cuộc vận động trên, cuối năm 1937, cuộc vận động bầu

cử Viện dân biểu Trung Kỳ diễn ra sơi nổi trong huyện Hoằng Hố. Đƣợc báo
chí cơng khai hƣớng dẫn, hội đọc sách báo cơng khai Hoằng Hố tích cực cổ
23


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

động cho những ứng cử viên mà tỉnh Đảng bộ Thanh Hố giới thiệu trên báo
chí. Kết quả tại khu vực Hoằng Hoá - Hậu Lộc các ứng cử viên gồm những
nhân sĩ tiến bộ đã trúng cử với tỉ lệ 522/883 phiếu bầu [6; tr 67]. Cuộc vận
động bầu cử Viện dân biểu Trung Kỳ một lần nữa chứng tỏ phong trào Mặt
trận Dân chủ Hoằng Hoá đƣợc mở rộng.
Từ thắng lợi của các cuộc vận động dân chủ trong năm 1937 ở Hoằng
Hoá đã gây đƣợc tiếng vang trong phong trào đấu tranh của cả tỉnh Thanh
Hố. Vì vậy mà đầu năm 1938 phong trào cách mạng Hoằng Hoá tiếp tục
nhận đƣợc sự chỉ đạo của ỉnh uỷ Thanh Hố. Đồng chí Lê Chủ, phó Bí thƣ
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đựơc cử về chỉ đạo phong trào cách mạng ở Hoằng
Hoá. Sau một thời gian thâm nhập vào phong trào, đến cuối tháng 5-1938 đã
tổ chức ra “Uỷ ban vận động quần chúng” huyện Hoằng Hoá tại thơn Phú
Vinh (xã Hoằng Vinh). Uỷ ban gồm có 3 đồng chí là Hồng Minh Phụng,
Hồng Minh Việt và Phùng Quang Diệu, do đồng chí Hồng Minh Phụng làm
trƣởng ban.
Chƣơng trình hoạt động của uỷ ban gồm:
-Vận động thành lập các hội tƣơng tế ái hữu.
-Vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật.
-Tổ chức các hội quần chúng nhƣ: Hội đọc sách báo công khai, Hôi học
sinh, Hội cứu tế đỏ ,Thanh niên, Phụ nữ...

-Vận động các cuộc tranh đòi dân sinh dân chủ hàng ngày.
-Vận động học chữ quốc ngữ [ 3; tr;22].
Uỷ ban vận động quần chúng là hình thức bƣớc đầu của Mặt trận Dân
chủ ở Hoằng Hoá trong thời kỳ 1936 -1939 .
Với một chƣơng trình hoạt động thích hợp của Uỷ ban vận động quần
chúng Hoằng Hoá, đến giữa năm 1938 đã tổ chức đƣợc hàng chục hội quần
chúng ở các địa phƣơng. Tiêu biểu và phổ biến hơn là các hội tƣơng tế ái hữu,
24


Nguyễn Văn Bài - 40B Sử
2003.

Khoá luận tốt nghiệp 1999 -

hội thanh niên, học sinh... . Ngoài ra Uỷ ban còn tổ chức đƣợc các phong trào
đấu tranh nhƣ cuộc vận động làm kiến nghị gửi Viện dân biểu Trung Kỳ
chống “Dự án thuế mới” vào tháng 5-1938 thu hút trên 300 nông dân các làng
Đại Lộc, Trung Hy (nay thuộc Hoằng Vinh) tham gia ký và điểm chỉ vào bản
kiến nghị. Cuộc vận động còn thu hút đƣợc cả một số lý trƣởng tham gia. Tri
phủ Hoằng Hoá đã cho lính bắt giam các quần chúng tích cực nhằm khủng bố
phong trào. Nhân dân đia phƣơng đã kéo lên phủ đƣờng để đấu tranh đòi tri
phủ phải trả tự do cho những ngƣơì bị bắt. Trƣớc sức mạnh đấu tranh của
quần chúng, tri phủ phải nhựơng bộ, những ngƣời bị bắt đƣợc trả lại tự do.
Đặc biệt cuộc vận động truyền bá chữ quốc ngữ đã có ý nghĩa rộng lớn giúp
cho việc phổ biến học tập các đƣờng lối của Đảng đƣợc thuận lợi. Ở các
trƣờng học bấy giờ, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác đƣợc thanh
niên Hoằng Hoá nghiên cứu nhƣ Tƣ bản luận, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Hoặc những cuốn sách đƣợc thanh niên dùng làm tài liệu
tuyên truyền lâu dài nhƣ cuốn “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh và Vân Đình

(tức Trƣờng Chinh và Võ Nguyên Giáp)…. Từ trong những phong trào
trƣờng học, tháng 3-1938 ở thơn Cự Đà (Hoằng Minh) đã lập ra Đồn thanh
niên tân tiến [17; tr 104]. Đến tháng 9 năm 1938 dƣới sự chỉ đạo của Uỷ ban
vận động quần chúng Hoằng Hố, Đồn thanh niên tân tiến Cự Đà đƣợc
chuyển thành Đồn thanh niên Dân chủ Hoằng Hố [6; tr72]. Đây là cơ sở
tiền thân của Đoàn thanh niên Cộng sản Hoằng Hố . Bên cạnh Đồn thanh
niên Dân chủ, Hội phụ nữ Dân chủ cũng đƣợc thành lập ở Yên Vực (Hoằng
Long).
Cuối năm 1938 đầu năm 1939 phong trào đấu tranh của công nhân
Nhà máy diêm Hàm Rồng và đồn điền Yên Tập đã thu đựoc kết quả. Phong
trào cơng nhân cũng diễn ra dƣới hình thức hồ bình, lấy chữ ký vào bản kiến
nghị thu hút hàng trăm công nhân tham gia. Nội dung của bản kiến nghị đòi
25


×