Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn thạc sĩ giải pháp chính sách thúc đẩy đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm tạo doanh nghiệp khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.09 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG VĂN QUÂN

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG VĂN QUÂN

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TẠ DOÃN TRỊNH

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.Tạ Doãn Trịnh. Các số liệu, những kết
luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hồn tồn trung thực.Tơi
xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học viên

Phùng Văn Quân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: VAI TRÒ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐỐI VỚI VIỆC ƯƠM
TẠO DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ....................... 19
1.1. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ ............................................. 19
1.2. Ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ ............................... 30
1.3. Đầu tư mạo hiểm .............................................................................. 19
Chương 2: ĐẦU TƯ MẠO HIỂM CHO ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TẠI
VIỆT NAM VÀ CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUỐC TẾ .................... 35
2.1. Thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm
tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam và quốc tế ........................................ 35
2.2. Thực tiễn đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư vào dự
án/công ty KH&CN khởi nghiệp .................................................................... 46
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển
ĐTMH vào ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam .............................. 51
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................. 55

Chương 3 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU
TƯ MẠO HIỂM CHO HOẠT ĐỘNG ƯƠM TẠO DOANH NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .................................................................. 58
3.1. Nguyên tắc đề xuất vào các văn bản quy phạm pháp luật ............... 60
3.2. Các đề xuất chính sách ..................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
KH&CN

Khoa học và công nghệ

ĐTMH

Đầu tư mạo hiểm

PTTTDN

Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và
công nghệ

OECD

Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế

IPO

Phát hành công khai lần đầu ( Initial Public Offering)


VC

Venture capital funds

GVC

Government venture capital


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Hình 1: Các giai đoạn khởi nghiệp phân loại theo nhu cầu vốn ..................... 6
Hình 2: Giai đoạn cần vốn đầu tư mạo hiểm ................................................. 27
Hình 3: Các chủ thể trong hệ sinh thái khởi nghiệp........................................ 33
Hình 4: Vốn đầu tư mạo hiểm các doanh nghiệp Châu Âu huy động được ... 43
Hình 5: Số lượng các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp tại
Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2015 .................................................. 50
Hình 6: Số lượng giao dịch và tổng số tiền đầu tư mạo hiểm vào doanh
nghiệp khởi nghiệp (đơn vị triệu đô la) ................................................ 51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xây dựng và phát triển thị trường KH&CN là mục tiêu đặt ra cho
rất nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là những nước đang phát triển.Chính phủ
các nước đó đều hiểu rằng một thị trường KH&CN hoạt động hiệu quả và
mạnh mẽ sẽ trở thành đòn bẩy đưa nền kinh tế phát triển một cách nhanh
chóng và bền vững.
Trên thế giới, một trong những phương pháp phổ biến để thúc đẩy thị
trường KH&CN phát triển chính là việc đầu tư cho hoạt động ươm tạo doanh

nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa học – công nghệ nhằm phát triển hệ
sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp. Trong các nghiên cứu về đầu tư cho hoạt động
này nổi bật lên 2 vấn đề chính: (1) nghiên cứu về đầu tư cho hoạt động ươm
tạo nói chung và (2) nghiên cứu về đầu tư trực tiếp cho đối tượng doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp.
Hiện nay, hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN được thực hiện ở
một số dạng chính sau: (1) hoạt động hỗ trợ hồn thiện cơng nghệ; (2) hoạt
động đào tạo, tư vấn về mơ hình kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, xây dựng
thương hiệu, phát triển thị trường, sở hữu trí tuệ…; (3) Hoạt động hỗ trợ gọi
vốn đầu tư cho doanh nghiệp; và (4) hoạt động trực tiếp đầu tư cho doanh
nghiệp khởi nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu khác nhau trong các giai đoạn ươm tạo, phát
triển của doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, Nhà nước cần có chính sách hỗ
trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hoạt động của các cơ sở ươm tạo
(incubators) và hỗ trợ các doanh nghiệp non trẻ thông qua hoạt động của các
tổ chức thúc đẩy kinh doanh (business accelarators). Nhà nước cũng cần có
chính sách đầu tư ban đầu dưới dạng cấp vốn mồi (seed money) cho các nhóm
khởi nghiệp và hỗ trợ tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

1


(tài trợ, hỗ trợ đầu tư nghiên cứu thử nghiệm, cho vay ưu đãi, cho vay có thể
chuyển đổi thành cổ phần .v.v.).
Chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu của Nhà nước cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp là tác nhân quan trọng để thu hút các nguồn vốn đầu tư của xã hội
cho hoạt động ươm tạo, hỗ trợ doanh nghiệp cơng nghệ khởi nghiệp. Chính
sách đầu tư của Nhà nước cần hướng đến sự quan tâm của các nhà đầu tư xã
hội có ý nghĩa quan trọng hình thành nên hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp, bao
gồm các nhà đầu tư thiên thần (angel investors), các quỹ đầu tư mạo hiểm

(venture capitals) và các công ty đầu tư (corporate investors).
Nhà nước cần liên kết với khu vực tư nhân để đầu tư phát triển mạng
lưới các cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh.Đồng thời, các
chương trình hỗ trợ đầu tư của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp cần được quản lý hiệu quả với cơ chế đặc thù để thực sự trở thành
các nhân tố tiền đề tạo nên hệ sinh thái hỗ trợ doanh nhân công nghệ khởi
nghiệp tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, hầu hết các hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN
diễn ra ở các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN cơng lập. Tuy nhiên, hình
thức ươm tạo ở các cơ sở này hầu hết chỉ dừng lại ở việc cung cấp mặt bằng
và một số cơ sở vật – chất dùng chung hoặc cung cấp tài chính cho việc
nghiên cứu, phát triển hồn thiện cơng nghệ, chứ chưa có hoạt động trực tiếp
cung cấp nguồn tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Hoạt động của
những cơ sở ươm tạo này được đánh giá là chưa có hiệu quả bởi số lượng và
chất lượng của các doanh nghiệp tốt nghiệp khởi các cơ sở này là chưa cao.
Trong khi đó, hầu hết những doanh nghiệp đã đăng ký doanh nghiệp KH&CN
mà Cục PTTTDN tổng hợp được đều không đi qua quá trình ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN chuyên nghiệp nào.
Theo phân tích ban đầu của nhóm nghiên cứu, hoạt động cấp vốn trực

2


tiếp cho doanh nghiệp được coi là hoạt động không thể thiếu được trong quá
trình ươm tạo doanh nghiệp và nhất là đối với doanh nghiệp khởi nghiệp dựa
trên công nghệ. Trong hoạt động này, vai trò tham gia của Nhà nước là vô
cùng quan trọng bởi thời kỳ khởi nghiệp của doanh nghiệp KH&CN là thời
kỳ rủi ro nhất trong quá trình phát triển của doanh nghiệp mà các nhà đầu tư
tư nhân, nhất là những nhà đầu tư tại Việt Nam không muốn tham gia.
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động đầu tư mạo hiểm thực tế hầu hết được

thực hiện bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài như IDG Ventures hay
Cyber Agents và bản thân họ chỉ chú trọng vào đầu tư cho doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin với chu kỳ đầu tư ngắn và khoản
đầu tư ban đầu khơng cao. Như vậy có thể nói doanh nghiệp khởi nghiệp
trong các lĩnh vực KH&CN không phải công nghệ thông tin như lĩnh vực vật
lý, hóa học, cơng nghệ sinh học, hay những lĩnh vực công nghệ mới, công
nghệ cao, cơng nghệ có giá trị đối với người nơng dân, xóa đói giảm nghèo,
bảo vệ mơi trường,… đang bị các nhà đầu tư tư nhân “lãng quên” vì lý do
lợi nhuận, rất cần được Nhà nước quan tâm trong chính sách đầu tư phát
triển các cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, hỗ trợ nguồn vốn
khởi nghiệp ban đầu và hỗ trợ thúc đẩy kinh doanh của các doanh nghiệp
KH&CN khởi nghiệp.
Nguồn gốc sâu xa của đầu tư mạo hiểm đối với ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN là nuôi dưỡng nguồn thu cho tương lai với những đối tượng tiềm
năng lớn. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư luôn hàm chứa yếu tố rủi ro. Hay nói
cách khác, rủi ro cao luôn song hành với đầu tư mạo hiểm. Việc chấp nhận
điều này, đồng thời có cơ chế quản lý và xử lý rủi ro phù hợp là cần thiết
trong khuyến khích đẩy mạnh các hình thức đầu tư mạo hiểm đối với ươm tạo
doanh nghiệp KH&CN. Hiện tại các luật như Luật doanh nghiệp, Dự thảo
Luật quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, Luật đầu tư, Bộ

3


Luật hình sự (trong mối liên quan với các luật nội dung) vẫn chưa thể hiện rõ
các chính sách khuyến khích nói trên, thậm chí cịn có một số rào cản đối với
các chủ thể tham gia trong hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp. Ví dụ, việc Nhà
nước đầu tư “vốn mồi” cho doanh nghiệp khởi nghiệp chưa được cho phép
trong bất kỳ văn bản luật hay dự luật nào nói trên. Mặc dù tại Luật Đầu tư
2014 đã có quy định ưu đãi đầu tư mạo hiểm, ươm tạo doanh nghiệp công

nghệ cao, tuy nhiên các quy định về đầu tư của Nhà nước trong các hoạt động
này chưa được quy định cụ thể[18]. Mặt khác, ở cả Luật doanh nghiệp (sửa
đổi) và Dự thảo Luật quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
đều có những quy định chặt chẽ buộc người đại diện vốn nhà nước chịu trách
nhiệm bảo toàn và phát triển vốn đầu tư của Nhà nước trong doanh nghiệp,
khơng có ngoại lệ nào cho hoạt động đầu tư ươm tạo doanh nghiệp nghiệp
khoa học và cơng nghệ. Quy định đó sẽ làm nản lòng những cơ sở ươm tạo, tổ
chức thúc đẩy kinh doanh, người được giao quản lý các chương trình hỗ trợ
đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Chính vì những lý do nêu trên, để tạo điều kiện cho đầu tư của Nhà
nước/đầu tư có sự tham gia của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN, Luận văn này tập trung vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về các loại hình đầu tư của Nhà
nước cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN và tác động
của nó trong hình thành hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước.
- Nghiên cứu thực trạng chính sách, thực tiễn hoạt động đầu tư của
Nhà nước và của tư nhân cho ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN ở
Việt Nam; nhu cầu phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước.
- Đề xuất một số chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư của Nhà nước
và thúc đẩy đầu tư mạo hiểm từ xã hội cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN tại Việt Nam.

4


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Tình hình nghiên cứu quốc tế:
Theo các nghiên cứu nước ngoài, hoạt động đầu tư mạo hiểm thường
được gắn liền với các doanh nghiệp KH&CN trong giai đoạn đầu, hay cịn gọi
là doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp (technology startup). Có thể phân loại

các loại hình đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp theo đối tượng
đầu tư như sau: (1) Sáng lập viên khởi nghiệp, gia đình, bạn bè của doanh
nghiệp khởi nghiệp; (2) Nhà đầu tư thiên thần (business angels), là nhà đầu tư
cá nhân khơng phải gia đình, bạn bè nhưng là những người giàu có đầu tư cho
doanh nghiệp khởi nghiệp trong giai đoạn đầu phát triển; (3) Các trung gian
gọi vốn cộng đồng (crowdfunding) là nơi thu hút vốn đầu tư từ mọi người dân
cho doanh nghiệp khởi nghiệp; (4) Các cơng ty, tập đồn đầu tư cho khởi
nghiệp (corporate ventures); (5) Các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital
funds - VC); và (6) Nhà nước đầu tư cho khởi nghiệp (OECD, 1996; Lerner,
2002).
Các loại hình đầu tư này đóng các vai trị khác nhau trong từng bước
phát triển của startups, bao gồm: ươm mầm, bắt đầu khởi nghiệp, phát triển và
mở rộng, thoái vốn bằng mua bán & sáp nhập và chuẩn bị IPO. Nếu ở giai
đoạn ươm mầm, các nhà đầu tư thiên thần với các khoản tiền nhỏ nhưng rủi ro
cao đóng vai trò quan trọng trong việc cấp vốn ĐTMH cho startup thì ở giai
đoạn sau, các quỹ ĐTMH thường là đối tượng chính để cấp vốn cho doanh
nghiệp khởi nghiệp. Trong khi đó, các tập đồn đầu tư có thể vừa đóng vai trị
của người cung cấp vốn đầu tư cho startups, vừa có thể thực hiện các khoản
mua bán và sáp nhập, chính là lúc các khoản đầu tư có thể thoái vốn. Nhà
nước thường tham gia vào giai đoạn ban đầu, cung cấp vốn cho doanh nghiệp
dưới dạng tài trợ hoặc đầu tư bằng cổ phần trực tiếp, hoặc đầu tư thông qua
một quỹ đầu tư tư nhân mà nhà nước góp vốn.

5


Hình 1: Các giai đoạn khởi nghiệp phân loại theo nhu cầu vốn [7]
Nguồn: />Các đặc điểm chính của các loại hình đầu tư mạo hiểm cho doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp có thể tổng quát như sau:
- Nhà đầu tư thiên thần: đây là những nhà đầu tư cá nhân giàu có,

khơng phải bạn bè và gia đình của các sáng lập viên khởi nghiệp, họ đóng vai
trị lớn trong việc cung cấp các khoản vốn ban đầu cho các startup tại thời
điểm mà rủi ro vẫn còn rất cao và startup khó có thể gọi vốn từ các quỹ
ĐTMH. Nhà đầu tư thiên thần, ngoài việc là người cung cấp vốn thì cịn đóng
vai trị hỗ trợ truyền đạt lại kinh nghiệm kinh doanh, hướng dẫn startup trong
quá trình khởi nghiệp của doanh nghiệp KH&CN (Mason, 2007), đồng thời
mang đến các mối quan hệ để startup gọi vốn ở các vòng tiếp theo (Mason,

6


2000). Hầu hết ở khắp nơi trên thế giới, số lượng doanh nghiệp mà nhà đầu tư
thiên thần đầu tư vào đều cao hơn số lượng được đầu tư bởi các quỹ ĐTMH
và các tổ chức tài chính (Sohl, 2012).Cung đầu tư từ nhà đầu tư thiên thần
cũng ít bị chịu ảnh hưởng bởi sự lên xuống của nền kinh tế hơn là các tổ chức
đầu tư lớn (Mason & Harrison, 2013).
- Crowdfunding được coi là mơ hình trung gian mới, hiệu quả, cho
phép sử dụng hạ tầng internet để các doanh nghiệp khởi nghiệp ở giai đoạn
đầu có thể thu hút vốn đầu tư rất nhiều người, hầu hết là các khoản đầu tư nhỏ
từ vài trăm đến khoản vài ngàn USD mà không cần đi qua các trung gian tài
chính truyền thống (Mollick, 2013). Trong gọi vốn cộng đồng lại có 3 loại
hình chính là: (1) gọi vốn cộng đồng bằng tài trợ (donation-based
crowdfunding); (2) gọi vốn cộng đồng bằng phần thưởng (reward-based
crowdfunding); (3) gọi vốn cộng đồng bằng vốn vay (lending-based
crowdfunding) và (4) gọi vốn cộng đồng bằng cổ phần (equity-based
crowdfunding) (McCahery & Vermeulen, 2014; World Bank, 2013). World
Bank (2013) cho rằng nếu biết cách tạo môi trường thuận lợi, crowdfunding
sẽ là một loại hình trung gian phù hợp để thu hút vốn đầu tư cho các doanh
nghiệp KH&CN khởi nghiệp ở các nước đang phát triển.
- Quỹ ĐTMH: là loại hình tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, chuyên đầu tư

vào các công ty mới thành lập và có tiềm năng phát triển nhanh. Khác với các
tổ chức đầu tư tài chính truyền thống, VC có quy trình đánh giá, lựa chọn
startup rất kỹ lưỡng, khơng chỉ đầu tư mà còn hỗ trợ startups trong việc quản
lý doanh nghiệp, tìm kiếm các vịng đầu tư sau và chuẩn bị cho việc thối vốn
thơng qua mua bán & sáp nhập hoặc IPO (Lerner, 2009). Nhiều nghiên cứu
cho rằng VC có sự ảnh hưởng lớn và tích cực đến việc phát triển hoạt động
đổi mới sáng tạo (Hellmann & Puri, 2000). Các công ty được đầu tư từ VC
(VC-backed companies) hầu hết đóng vai trị quan trọng, dẫn đầu trong các

7


ngành như cơng nghệ sinh học, máy tính, bán dẫn (Lerner, 2009). Ngồi ra,
theo thống kê của các cơng ty đã niêm yết trên sàn chứng khốn Hoa Kỳ, các
cơng ty được đầu tư bởi VC cũng có xu hướng phát triển nhanh hơn (thời
điểm niêm yết kể từ khi thành lập), phát triển bền vững hơn sau khi phát hành
IPO và tạo ra nhiều việc làm hơn so với các công ty không được đầu tư bởi
các quỹ này (Lerner, 2009).
Về mặt các chính sách liên quan đến đầu tư của nhà nước, đã có một số
nghiên cứu như sau:
Có hai cách chính mà Nhà nước sử dụng để ảnh hưởng đến nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm: (1) đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc (2)
gián tiếp hỗ trợ cho các khoản đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân (Lerner,
2002). Đối với hình thức thứ nhất, Nhà nước mở ra các chương trình ĐTMH
riêng (government venture capital – GVC), trong khi đó đối với hình thức thứ
hai, nhà nước thường đầu tư dưới dạng cổ đông trách nhiệm hữu hạn (limited
partner) của các quỹ ĐTMH tư nhân hoặc đầu tư đối ứng với các nhà đầu tư
tư nhân, bao gồm cả quỹ ĐTMH, nhà đầu tư thiên thần, công ty đầu tư lẫn các
cơ sở ươm tạo.
Nhà nước đầu tư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp vì một số giả định

rằng: (1) khu vực tư nhân không cung cấp đủ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ; (2) nhà nước có khả năng lựa chọn
các khoản đầu tư có tiềm năng mang lại lợi ích xã hội hoặc lợi ích kinh tế cao
hoặc có thể khuyến khích để các trung gian làm việc này và (3) đầu tư của
nhà nước vào những lĩnh vực liên quan đến nhiều đến nghiên cứu và phát
triển có thể tạo ra được những ảnh hưởng lan tỏa tích cực đến thị trường, ví
dụ thơng qua việc các đối thủ trên thị trường bị sức ép cạnh tranh khiến cho
phải thường xuyên cập nhật, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm (Lerner, 2002).

8


Tại Châu Âu, Nhà nước đóng góp khoảng 40% vào tổng số vốn đầu tư
cho khởi nghiệp trong năm 2012 (so với 10-15% từ những năm trước suy
thoái kinh tế) (Vlerick Business School, 2013). Các GVC hầu hết đầu tư vào
giai đoạn ươm mầm (seed stage) và giai đoạn ban đầu (early stage) của
startups. Có một số nghiên cứu cho rằng việc đầu tư từ nhà nước cho startups
có ảnh hưởng tích cực đến việc phát triển hoạt động ĐTMH (Leleux &
Surlemont, 2003; Cumming, 2011; del-Palacio, Zhang & Sole, 2012;
Cumming & Li, 2013; Brander, Du & Hellmann, 2013).
Mặc dù vậy, việc xây dựng các chính sách về trực tiếp đầu tư từ các
GVC là rất khó khăn trên các cơ sở lý thuyết cũng như thực tế, ví dụ:
+ Hầu hết những người quản lý GVC là công chức, cán bộ nhà nước,
chính vì vậy họ sẽ thiếu kinh nghiệm và động lực (tài chính) phù hợp để có
thể lựa chọn và cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp được đầu
tư (Leleux & Surlemont, 2003).
+ Rất nhiều nghiên cứu như Olson (1965) and Stigler (1971), Peltzman
(1976) and Becker (1983) đều cho thấy kết quả là hầu hết các hỗ trợ của Nhà
nước cho các tổ chức trung gian đều bị lợi dụng bởi các tổ chức có quan hệ

chính trị tốt chứ khơng dựa trên năng lực thực sự của các tổ chức đó.
+ Do GVC thường có các mục tiêu về xã hội như việc làm tạo ra, kết
quả nghiên cứu được thương mại hóa, hơn là mục tiêu về tài chính nên các
quỹ này có xu hướng đầu tư dưới giá thị trường, do đó thu hút hầu hết các dự
án startup tốt, để lại những dự án chất lượng thấp hơn cho các nhà đầu tư tư
nhân (Leleux & Surlemont, 2003). Có một số nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy thực sự đầu tư từ nhà nước đã có ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tư nhân
ở một số nước Châu Âu, Hoa Kỳ và Canada (Armour & Cumming, 2006;
Cumming & MacIntosh, 2006; Da Rin et al. ,2006).
Chính vì các lý do nêu trên, nhiều nghiên cứu cho rằng GVC thường ít

9


khi thành cơng (Lerner, 2002).
Tuy nhiên, hình thức đầu tư gián tiếp tư nhà nước được coi là có hiệu
quả hơn so với hình thức đầu tư trực tiếp từ GVC (OECD, 2013).Khi đó, nhà
nước đầu tư phần vốn của mình vào các quỹ ĐTMH của tư nhân như vậy nhà
nước có thể tận dụng bộ lọc và kinh nghiệm của các quỹ tư nhân trong việc
lựa chọn và hỗ trợ các startup phát triển (Cumming, 2007; Munari & Toschi,
2011).Các quỹ tư nhân cũng sẽ làm tốt hơn các GVC trong việc hỗ trợ thoái
vốn từ startup (Luukkonen, Deschryvere & Bertoni, 2013). Tại Israel, Chương
trình hỗ trợ đầu tư mạo hiểm Yozma từ năm 1993 đến 1998, được coi là động
lực quan trọng nhất để phát triển ngành đầu tư mạo hiểm tại nước này. Yozma
đã đầu tư 80 triệu USD để góp vốn vào 10 quỹ đầu tư mạo hiểm của tư nhân
và 20 triệu USD để hỗ trợ, đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp. Với sự tham gia đầu tư của Yozma mà lượng vốn đầu tư mạo hiểm
trên thị trường của Isarel tăng từ 27 triệu USD năm 1992 lên đến 2,712 triệu
USD vào năm 2000. Sau 5 năm, nhà nước đã thoái vốn thành cơng (bảo tồn
vốn) tại tất cả 10 quỹ được nhận đầu tư (Avnimelech, 2009).

* Tình hình nghiên cứu trong nước:
Các nghiên cứu trong nước hầu hết tập trung vào vấn đề chính sách của
nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN và gần đây là một số nghiên cứu về
tình hình đầu tư mạo hiểm trong nước, cụ thể là:
Về các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN
Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hoá từ kết
quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Luật KH&CN 2013) [19].
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về phát
triển doanh nghiệp KH&CN: quy định tiêu chí, điều kiện thành lập và các
chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp KH&CN. Tại Quyết định số

10


1244/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2015 và định hướng trong
giai đoạn 2015-2020 sẽ phát triển 3.000 doanh nghiệp KH&CN. Trong đó, số
lượng doanh nghiệp KH&CN hình thành từ các trường đại học, viện nghiên
cứu chiếm khoảng 70%[16]. Gần đây nhất, Luật KH&CN số 29/2013/QH13
ngày 18/6/2013 quy định về doanh nghiệp KH&CN (Điều 58) đã góp phần
hồn thiện cơ sở pháp lý thúc đẩy sự hình thành và phát triển doanh nghiệp
KH&CN.
Các chính sách đưa ra các ưu đãi cho doanh nghiệp KH&CN như sau:
- Được xem xét, giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc sở hữu nhà nước;
- Được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn
lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà;
- Được ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu cơng nghệ cao;

- Được hưởng chính sách ưu đãi về tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát
triển Việt Nam, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và các quỹ khác để thực
hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh;
- Được ưu tiên sử dụng trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu
khoa học và phát triển cơng nghệ tại phịng thí nghiệm trọng điểm quốc gia,
cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học
và công nghệ của Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN
cịn nhiều khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
- Vấn đề đăng ký chứng nhận doanh nghiệp KH&CN còn rất phức tạp,
mất thời gian để doanh nghiệp chứng minh được quyền sở hữu, quyền sử
dụng hợp pháp đối với kết quả nghiên cứu, đặc biệt là các kết quả nghiên cứu

11


hình thành từ ngân sách nhà nước (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
KH&CN, 2013b).
- Nhiều doanh nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) không mấy “mặn
mà’’ với việc đăng ký doanh nghiệp KH&CN do các ưu đãi họ được hưởng
khi là doanh nghiệp CNTT đã được hưởng rất nhiều ưu đãi (Tia sáng, 2013).
- Phần “công nghệ” trong doanh nghiệp chưa thực sự phát triển. Hằng
năm có q ít các kết quả nghiên cứu từ người Việt Nam được đăng ký bảo hộ
sở hữu trí tuệ (Báo cáo hằng năm, Cục Sở hữu trí tuệ, 2015; Mai Hà, Mai Hà,
Hồng Văn Tun, Đào Thanh Trường, 2015).
- Các chính sách về hỗ trợ tài chính, ví dụ thơng qua ưu đãi thuế, cho
doanh nghiệp KH&CN rất khó để có thể tiếp cận, chưa thực sự tạo được động
lực cho các doanh nghiệp đó (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
KH&CN, 2013b).
- Để phát triển các doanh nghiệp KH&CN mới thành lập, vai trò của

các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN là rất quan trọng.Tuy nhiên, hầu
hết các cơ sở ươm tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam
hoạt động chưa thật hiệu quả. Nguồn tài chính đầu tư hiện nay cho các vườn
ươm chủ yếu từ ngân sách nhà nước nên còn nhiều hạn chế, đặc biệt khó thu
hút nhân lực có kinh nghiệm để làm việc. Các vườn ươm hiện có chưa thu hút
được sự quan tâm của các quỹ đầu tư và các doanh nghiệp lớn để đầu tư cho
các doanh nghiệp được ươm tạo (Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp
khoa học và cơng nghệ, 2013b).
- Các chính sách về hỗ trợ tài chính, thuế đối với doanh nghiệp
KH&CN cịn chưa thực đồng bộ, gây khó khăn trong q trình thực hiện. Ví
dụ, điều kiện để doanh nghiệp KH&CN được nhận hỗ trợ theo Nghị định số
80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN và Thông tư liên tịch số
06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV hướng dẫn Nghị định tập trung vào tỷ lệ

12


doanh thu của việc sản xuất, kinh doanh hàng hóa hình thành từ kết quả
nghiên cứu KH&CN trên tổng doanh thu của doanh nghiệp, trong khi điều
kiện được nhận hỗ trợ của những doanh nghiệp có hoạt động đổi mới công
nghệ tại Luật chuyển giao công nghệ lại không phụ thuộc vào các điều kiện
như vậy mà vào địa bản, lĩnh vực (Nguyễn Thị Vân Anh, 2013).
Do cịn có nhiều vướng mắc, số lượng doanh nghiệp KH&CN được cấp
chứng nhận đến cuối năm 2015 mới đạt 204 doanh nghiệp, thấp hơn rất nhiều
so với chỉ tiêu 3000 doanh nghiệp KH&CN đến năm 2015 và 5000 doanh
nghiệp KH&CN đến năm 2020 đề ra trong Quyết định số 1244/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 25/7/2011 về việc phê duyệt phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu giai đoạn 2011-2015 (Hội nghị
“Phát triển doanh nghiệp doanh nghiệp khoa học và cơng nghệ năm 2015”).
Về tình hình đầu tư mạo hiểm

- Trong khi các dự án về phát triển, thương mại hóa cơng nghệ mới,
cơng nghệ cao khó có thể tiếp cận được các tổ chức tài chính truyền thống thì
họ có thể tiếp cận đầu tư từ các quỹ ĐTMH. Ở nhiều nước trên thế giới,
ĐTMH đã được chứng minh là đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển
các cơng ty có tiềm năng phát triển nhanh dựa trên cơng nghệ.Cũng có nhiều
chính sách liên quan đến phát triển ĐTMH. Tuy nhiên, tác giả của các nghiên
cứu trong nước về vấn đề này cho rằng biện pháp hiệu quả nhất là phải
khuyến khích được tư nhân cùng tham gia với nhà nước để thành lập các quỹ
ĐTMH phối hợp cơng – tư (Viện Chính sách và Chiến lược khoa học và công
nghệ, 2015).
- Từ năm 2000 đến nay, mới chỉ có khoảng 3 – 4 quỹ đầu tư mạo hiểm
ở Việt Nam và tất cả là quỹ nước ngồi, có văn phịng đại diện ở Việt Nam.
Trong năm 2016, Tập đồn cơng nghệ FPT mở quỹ đầu tư FPT Ventures tuy
nhiên vẫn chưa rõ đây là mô hình cơng ty đầu tư hay quỹ đầu tư (được phép

13


phát hành chứng chỉ quỹ để huy động vốn). Điều này thể hiện một số thực tế
sau: (1) Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có quy
định về đăng ký hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm dành cho khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo trong khi đó ở các nước phát triển trên thế giới, việc thành
lập và hoạt động của các quỹ này được quy định riêng biệt và có những điều
kiện thấp hơn nhiều về vốn và các nguyên tắc đầu tư hơn so với điều kiện của
quỹ đầu tư chứng khoán thơng thường; (2) Cũng chưa có các ưu đãi thuế dành
cho nhà đầu tư từ quy mô cá nhân (nhà đầu tư thiên thần) đến quy mơ quỹ
trong khi đó các nước như Hồng Kơng, Singapore đều có các ưu đãi rất lớn
cho nhà đầu tư mạo hiểm; (3) Hệ thống tài chính của Việt Nam chưa thật sự
phát triển, chính vì vậy các cơng cụ đầu tư, cách thức đầu tư và cấu trúc tài
chính của doanh nghiệp chưa được chuyên nghiệp, chưa thực sự thu hút nhà

đầu tư nước ngoài; (4) đặc biệt, thị trường mua bán và sáp nhập cũng như thị
trường chứng khoán của Việt Nam chưa thực sự phát triển, do đó nhà đầu tư
chưa nhìn thấy được “đầu ra”, chính là việc thối vốn từ các khoản đầu tư
mạo hiểm cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam. Chính vì những lý
do trên mà các nhà đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài cảm thấy “quen” làm việc
hơn với các thị trường phát triển như Singapore, Hồng Kông hay ở Hoa Kỳ
hơn là mất cơng tìm hiểu và vượt qua các rào cản để đầu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra, trong 67 phi vụ đầu tư mạo hiểm thống kê được trong năm
2015 bởi Topica Founder Institute, khoảng ½ là các khoản đầu tư mà trong đó
nhà đầu tư yêu cầu doanh nghiệp khởi nghiệp phải đăng ký trụ sở tại nước
ngoài trước khi thực hiện đầu tư. Nói cách khác, đó khơng còn là những
doanh nghiệp đúng nghĩa Việt Nam mà là doanh nghiệp nước ngồi có người
sáng lập là người Việt Nam.
*Bình luận, đánh giá
Các tài liệu và nghiên cứu trong nước hầu hết tập trung vào các chính

14


sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Có rất ít các nghiên cứu về nội dung
đầu tư mạo hiểm. Chỉ có một số nghiên cứu như Đề tài “Nghiên cứu xây dựng
chính sách khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để
thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao”,
Viện Chính sách và Chiến lược khoa học và cơng nghệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ (2015) là tổng kết được các chính sách nước ngồi về vấn đề
ĐTMH và cho rằng Việt Nam nên học tập mơ hình liên kết giữa nhà nước và
tư nhân để thành lập các quỹ này. Tuy nhiên, các mơ hình ĐTMH là gì, điểm
mạnh, yếu của từng mơ hình, các chính sách liên quan và việc tham gia của
nhà nước vào từng hình thức đầu tư mạo hiểm đóchưa được nghiên cứu sâu.
Các nghiên cứu cũng chưa phân biệt rõ giữa đầu tư cho dự án KH&CN

và đầu tư dưới dạng góp vốn doanh nghiệp. Do đó, các nghiên cứu hầu hết tập
trung phân tích khía cạnh KH&CN; trong khi đó những vấn đề về cấu trúc
doanh nghiệp, chính sách về doanh nghiệp (ví dụ, quy định về phá sản, bảo
hiểm,…), hay những chính sách về thị trường đầu tư (ví dụ: quy định về
chứng khốn, các tổ chức tín dụng, ngân sách nhà nước,…) có ảnh hưởng ra
sao đến đầu tư vẫn chưa được nghiên cứu. Hơn nữa, các nghiên cứu hầu hết
sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu quốc tế để đưa ra những đề xuất cho
việc phát triển đầu tư cho công nghệ ở Việt Nam, chứ chưa thực sự dựa trên
khung pháp lý hiện có và tình hình văn hóa, xã hội trong nước để đưa ra
những đề xuất phù hợp.
Từ những nghiên cứu và thực tiễn trên thế giới, tại Việt Nam về đầu tư
mạo hiểm, tôi đã chọn thực hiện Luận văn với chủ đề “Giải pháp chính sách
thúc đẩy đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động ươm tạo doanh nghiệp
khoa học và công nghệ tại Việt Nam”, để có cái nhìn tổng quan về tình hình
đầu tư và chính sách đầu tư cho mơ hình startup trên thế giới và những điểm
còn cần tiếp tục đào sâu, phân tích đối với thực trạng và chính sách đầu tư cho

15


ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất chính
sách khuyến khích đầu tư mạo hiểm có sự tham gia của Nhà nước cho hoạt
động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước về các loại hình đầu tư của Nhà
nước cho hoạt động ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN.
- Nghiên cứu thực trạng chính sách, thực tiễn hoạt động đầu tư cho

ươm tạo và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam.
- Đề xuất một số chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư mạo hiểm có
sự tham gia của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN tại
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn này là các chính sách, kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn của Việt Nam liên quan đến thúc đẩy đầu tư mạo hiểm
cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khơng gian nghiên cứu: chính sách của Việt Nam và một số
nước đi trước đã thành công trong việc thúc đẩy đầu tư cho ươm tạo doanh
nghiệp KH&CN.
Phạm vi thời gian nghiên cứu:
- Đối với nước ngoài: kể từ khi ban hành các chính sách, chương trình
của Chính phủ quy định về đầu tư mạo hiểm.
- Đối với Việt Nam: trong khoảng 05 năm trở lại đây.

16


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đưa ra được các nội dung về doanh nghiệp khoa học và công nghệ,
các nội dung về ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đầu tư mạo
hiểm.
- Nêu ra và phân tích thực trạng hoạt động đầu tư mạo hiểm trong nước
và quốc tế, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu trong nước và nước ngồi

về vấn đề chính sách thúc đẩy đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Việc nghiên cứu Luận văn với đề tài trên một phần là củng cố tri thức,
phương pháp nghiên cứu khoa học cho người nghiên cứu về đầu tư mạo hiểm.
Đồng thời Luận văn sẽ làm phong phú thêm phạm vi nghiên cứu, lĩnh vực
nghiên cứu về đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ được những đặc điểm và cơ chế hoạt động
của ĐTMH trong hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, phân tích thực
trạng quốc tế về các loại hình đầu tư của Nhà nước cho hoạt động ươm tạo và
phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ và tác động của nó trong hình
thành hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp trong nước, phân tích thực trạng của
Việt Nam và nêu lên một số bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất các giải
pháp chính sách nhằm phát triển hoạt động ĐTMH ở Việt Nam trong thời
gian tới

17


7. Bố cục của Luận văn
- Mở đầu
- Chương 1: Vai trò đầu tư mạo hiểm đối với việc ươm tạo doanh
nghiệp khoa học và công nghệ
- Chương 2: Đầu tư mạo hiểm cho ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN: Thực trạng chính sách tại Việt Nam và các bài học kinh nghiệm
quốc tế.
- Chương 3: Đề xuất giải pháp chính sách thúc đẩy đầu tư mạo hiểm
cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.

- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.

18


Chương 1
VAI TRÒ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐỐI VỚI VIỆC ƯƠM TẠO
DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1.

Đầu tư mạo hiểm

1.1.1. Khái niệm:
Khái niệm về đầu tư nói chung được hiểu “là q trình sử dụng các
nguồn lực tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất
khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng
các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ của ngành, cơ quan quản lý và xã hội nói riêng” (Giáo trình về
đầu tư và dự án đầu tư, Đại học Kinh tế quốc dân).
Việc đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp cũng tương tự như
vậy và có thể được phân biệt theo chủ thể đầu tư như đối với doanh nghiệp
khởi nghiệp ĐMST (OECD, 1996; Lerner, 2002), bao gồm: Sáng lập viên
khởi nghiệp; Gia đình, bạn bè của doanh nhân KH&CN khởi nghiệp; Nhà đầu
tư thiên thần (business angels), là nhà đầu tư cá nhân khơng phải gia đình, bạn
bè nhưng là những người giàu có đầu tư cho doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp trong giai đoạn đầu phát triển; Các trung gian gọi vốn cộng đồng
(crowdfunding) là nơi thu hút vốn đầu tư từ mọi người dân cho doanh nghiệp
khởi nghiệp; Các cơng ty, tập đồn lớn trong cùng lĩnh vực (corporate
ventures); Các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital funds - VC); và Nhà

nước đầu tư cho khởi nghiệp. Đồng thời, cũng bao gồm cả chủ thể đầu tư là tổ
chức “mẹ” đối với trường hợp spin-off.
Về động lực đầu tư, có thể phân làm các loại sau:
- Sáng lập viên khởi nghiệp đầu tư vào doanh nghiệp KH&CN khởi
nghiệp vì tin tưởng vào sản phẩm, dịch vụ của mình; vì mong muốn đưa các
sản phẩm, dịch vụ mới được tạo ra từ trí tuệ của mình đến cộng đồng, xã hội;

19


×