Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn tốt nghiệp mối quan hệ giữa phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu của người việt ở đồng bằng bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT GIÁO VỚI
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT
Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH : TRIẾT HỌC
KHĨA

: 60 (2015 - 2019)

HỆ

: CHÍNH QUY

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS ĐẶNG THỊ LAN

Hà Nội - 2019
1


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” là nội dung nghiên cứu và làm khóa
luận tốt nghiệp của tôi tại khoa Triết học - trường Đại học Khoa học Xã


hội và Nhân văn.
Để hoàn thành q trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận này, lời
đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô PGS.TS Đặng Thị Lan
thuộc Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Cô
đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt q trình nghiên cứu để tơi
hồn thiện khóa luận này. Ngồi ra, tơi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô
trong khoa Triết học và các Thầy, Cô trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã tận tình truyền đạt kiến thức bổ ích, kinh nghiệm sống trong suốt
những năm em học tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Nhưng do hạn chế về kiến thức và quá trình nghiên cứu nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của các Thầy, Cơ để bài khóa luận được hồn
chỉnh hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019
Sinh viên
Trần Thị Hồng Nhung

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu trong
khóa luận này hồn tồn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu
tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tơi xin chịu trách nhiệm về khóa
luận của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019

Sinh viên
Trần Thị Hồng Nhung

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .................................. 8
1.1. Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam............................ 8
1.1.1. Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam .................................... 8
1.1.2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo ........................................................... 13
1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam .................................................. 15
1.1.4. Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam .................... 18
1.2. Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc bộ ........................ 21
1.2.1. Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ .......... 21
1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu.................................................. 24
1.2.3. Nghi lễ, tổ chức, nơi thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu .................. 26
1.2.4. Vai trị của tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................................... 30
CHƯƠNG II. MỘT SỐ BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ ............................................................................................... 34
2.1 Cơ sở cho mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ................................................................... 34
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt...................................... 34
2.1.2 Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ......................... 36
2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ .................................................................... 37

2.2.1 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua tục thờ Nữ thần 37
2.2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ thể hiện thơng qua việc thực hành tín ngưỡng Tam phủ. ............. 43
4


2.3 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo .............................................. 49
2.3.1 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với q trình phát triển của
Phật giáo Việt Nam thể hiện qua không gian thờ cúng. ........................... 49
2.3.2 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo được thể hiện qua thực hành
nghi lễ thờ cúng.......................................................................................... 52
2.4 Giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ................................................................... 56
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................ 64
PHỤ LỤC ẢNH

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng và tơn giáo như
Phật giáo, Hồi giáo, Kitơ giáo…Trong đó, Phật giáo là một tơn giáo lớn, có
vai trị quan trọng trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước suốt chiều dài lịch
sử dân tộc, và là một học thuyết có tính triết học sâu sắc và giá trị nhân văn
cao cả. Trước khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, người Việt Nam đó có tín

ngưỡng dân gian truyền thống của mình, Với tinh thần “Tùy duyên nhi giáo”
thì Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa của người Việt
cổ làm cho Phật giáo hóa tín ngưỡng bản địa và bản địa hóa Phật giáo. Một
trong những biểu hiện của sự hòa nhập và dung hợp của Phật giáo với các tín
ngưỡng bản địa là tục thờ Mẹ hay tục thờ Nữ thần của người Việt.
Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng hòa quyện với Phật giáo để bổ
sung cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, lịng từ bi hỷ xả vượt ra
ngồi biên giới quốc gia, nâng triết lý nhân sinh lên một tầm cao mới. việc
nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Đồng bằng bắc Bộ là một vấn đề tuy khơng cịn mới nhưng hết sức cần thiết,
vì giờ đây, chúng ta có điều kiện hơn để nhìn nhận lại quá trình này như một
trong những con đường văn hóa Việt Nam lưu giữ bản sắc riêng, cùng với
việc nhìn nhận ra sự dung hợp, mối quan hệ giữa Phật giáo đối với tín ngưỡng
Thờ Mẫu.
Từ đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
cuả người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ là để khẳng định bản sắc riêng của
Phật giáo Việt Nam, nhằm khai thác các giá trị văn hóa dân tộc, nhằm góp
phần xây dựng nên nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân. Tất cả những khía cạnh trên là cơ sở để tơi lựa
chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” làm đề tài khóa luận của mình.
1


2. Tình hình nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và nhiều dân tộc thiểu số khác ở
Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Tín ngưỡng thờ Mẫu
lấy việc tơn thờ người phụ nữ làm đấng sáng tạo và sinh thành ra vũ trụ, đất
nước và con người. Chính vì thế thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân
gian khá tiêu biểu và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi đạo Phật du

nhập vào Việt Nam thì nó đã nhanh chóng dung hợp với tín ngưỡng bản địa
của người dân Việt Nam tạo nên nét đặc sắc riêng của Phật giáo Việt Nam.
Vấn đề đạo Phật với tín ngưỡng thờ Mẫu ln được các nhà nghiên cứu
trong và ngồi nước quan tâm, mỗi cơng trình đều làm sáng tỏ, sâu sắc và
phát hiện thêm nhiều giá trị mới. Nghiên cứu về Phật giáo với Tín ngưỡng thờ
Mẫu đã có các cơng trình tiêu biểu sau:
Nguyễn Lang với tác phẩm: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn
học, Hà Nội, 1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào
Việt Nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ở
mỗi giai đoạn, tác giả đều đi sâu vào phân tích các nội dung tư tưởng của Phật
giáo và các đại diện tiêu biểu cho từng trường phái và đã khái quát đặc điểm
nổi bật của Phật giáo Việt Nam gắn với các thời kỳ tương ứng. Đây là một
cơng trình nghiên cứu rất chi tiết về Phật giáo Việt Nam từ khi mới du nhập
vào nước ta cho đến thế kỉ XX.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (Nxb. Thuận Hoá, 1999
Huế) đã phác họa một cách rõ nét diện mạo của Phật giáo Việt Nam qua
những đặc điểm và các trường phái cơ bản.
Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011), trong tác phẩm Phật giáo trong
văn hóa Việt Nam, Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam in trong Về tín
ngưỡng tơn giáo Việt Nam hiện nay. Hai tác phẩm này đã bàn sâu về hai đặc
điểm cơ bản của phật giáo Việt Nam, đó là tính dân gian và tính thống nhất.
Cơng trình Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh (Nxb.
Hội Nhà văn,Hà Nội 1999) đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo
2


Việt Nam. Từ đó, tác giả lý giải những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt
Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có
tiếp thu tơn giáo ngoại nhập.
Cùng với đó cịn có các tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến Phật

giáo như:
Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ, Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà Bắc),
Tạp chí văn hóa dân gian, số 1- 1987.
Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng: “Ảnh hưởng của đạo đức
Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay”, Hà Nội,
2004.
Vấn đề tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều
học giả như: Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Đăng Duy, Đặng Văn Lung, Đỗ Thị
Hảo,… đã cơng bố các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng Mẫu gắn với đời
sống văn hố, lịch sử, tôn giáo… Ngô Đức Thịnh với cuốn “Đạo Mẫu ở Việt
Nam” (2 tập), Nhà xuất bản Văn hóa dân gian, Hà Nội, 2002 được coi là một
tác phẩm nghiên cứu một cách cơ bản và tương đối hoàn chỉnh về tín ngưỡng
Mẫu ở Việt Nam và đã tiếp cận tín ngưỡng này dưới góc độ văn hóa và phần
nào cũng chỉ ra được ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo.
Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh (Nxb
Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội 2005) đã trình bày về sự phát triển từ nguyên lý
Mẹ của văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu và phát triển
thành tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ. Cuốn sách đã phân tích và chỉ ra vị
trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung,
tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ nói riêng thơng qua các nguồn thư tịch cổ về Bà
trong dân gian.
Văn hóa Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung (Nxb Văn hóa -Thơng tin,
Hà Nội, 2004) cũng đã đưa ra một “Văn hóa Thánh Mẫu” của người Việt trên
cơ sở phân tích sự hình thành và phát triển của các biểu tượng Thánh Mẫu.
Tuy nhiên, tác phẩm này mới chỉ dừng lại ở việc tìm ra sự phát sinh, hình
3


thành, truyền bá và sự sửa đổi cốt truyện, lễ hội theo lơgic - lịch sử - chính trị
- văn hóa - xã hội của đất nước.

Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc với cuốn Các Nữ thần Việt Nam (Nxb
Phụ nữ, Hà Nội, 1984) cũng đã cung cấp đủ rất nhiều thông tin về hệ thống
các Nữ thần ở Việt Nam. Thơng qua việc trình bày thần tích của các vị nữ
thần ở Việt Nam, cơng trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong phú và
bổ ích về các Nữ thần và sự phân chia nữ thần ở Việt Nam thành các Nữ thần
trong thần thoại, Nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các Chư
thần. Để từ đó các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở
Việt Nam.
Bên cạnh đó có thể kể đến các cơng trình như: “Việt Nam phong tục”
của Phan Kế Bính, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Nữ Thần và Thánh Mẫu
Việt Nam” do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002,
“Các hình thái tơn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy , Nxb
Văn hố – Thơng tin, Hà Nội, 2001; “Về tơn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện
nay” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên , Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
Về báo, tạp chí về tín ngưỡng thờ Mẫu có thể kể đến bài viết của một
số tác giả như: Nguyễn Hữu Toàn với bài “Một số sinh hoạt văn hố - tín
ngưỡng ở vùng Dâu”, Tạp chí Di sản văn hố, số 17, 2004; Nguyễn Quốc
Phẩm với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí
Văn hố nông thôn, số 11, trang 11 – 13, 1998; Đinh Gia Khánh với bài “Tục
thờ Mẫu và những truyền thống văn hố dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn
hố, số 5, trang 7 - 13, 1992...
Nhìn chung, khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, các tác giả đã
tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như tơn giáo học, văn học, nghệ thuật,
lịch sử… Ở các góc độ này, các cơng trình đã cung cấp một lượng thơng tin
phong phú về sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống thần linh cùng
các thần tích của tín ngưỡng thờ Mẫu, các không gian thờ cúng, những giá
trị về mặt văn học, nghệ thuật của tín ngưỡng thờ Mẫu. Từ đó, đã chỉ ra
4



những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của người Việt cả trong lịch sử
cũng như ở hiện tại.
Những cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ của Phật giáo với tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có các cơng trình như:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Đặng Minh Châu về “Mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi
chùa tiêu biểu của phật giáo Bắc tông)”(Hà Nội, 2015).
Đức Thiện - Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn hóa Ấn
Độ, số 6 - 2002.
Luận văn Thạc sỹ của Phan Thị Kim: "Tìm hiểu mối quan hệ giữa
phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở vùng đồng bằng bắc bộ" (Hà Nội, 2011)
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Huyền Trang "Sự dung thông giữa Phật
giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập" (Hà Nội ,2013)
Nguyễn Hữu Thụ với bài viết: “Đơi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo
và tín ngưỡng thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh
mẫu Liễu Hạnh”, Tạp chí nghiên cứu Tơn giáo, số 4 – 2009...
Các cơng trình nghiên cứu trên đều vấn đề mối quan hệ Phật giáo với
tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Do đó,
khóa luận này sẽ định hướng nghiên cứu làm rõ hơn về mối qua hệ giữa Phật
giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở trình bày một cách khái quát về Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận làm rõ
mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam và rút ra một số giá trị
của mối quan hệ này.
- Nhiệm vụ:

5



+ Phân tích, khái quát những nội dung cơ bản của Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.
+ Trình bày phân tích những biểu hiện cơ bản của mối quan hệ biện
chứng giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng
bằng Bắc Bộ.
+ Phân tích một số giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về mối quan
hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo
với tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ qua 2 thời kỳ cơ bản là
thời kỳ du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và thời kỳ phát triển của Phật
giáo ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên cơ sở là quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về tơn giáo và tín ngưỡng. Khóa luận cũng dựa trên một số lý thuyết
nghiên cứu của tôn giáo học hiện đại như lý thuyết về giao lưu, tiếp biến...
Đồng thời khóa luận cũng kế thừa những kết quả của những cơng trình nghiên
cứu trước đó.
- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác Lê-nin trong nghiên cứu những vấn đề của đời sống xã hội, có
kết hợp một số phương pháp nghiên cứu: logic và lịch sử, phân tích- tổng
hợp, khái quát, so sánh, đối chiếu…
6. Đóng góp của khóa luận
- Trên cơ sở trình bày khái qt chung về Phật giáo và tín ngưỡng thờ
Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ khóa luận chỉ ra mối quan hệ mật thiết

giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng bằng
6


Bắc Bộ như: tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức người dân Đồng bằng Bắc
Bộ qua thực hành nghĩ lễ ở chùa, mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với
q trình phát triển của Phật giáo Việt Nam.
- Khóa luận đã phân tích mối quan hệ, sự tác động hai chiều của Phật
giáo lên tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và
ngược lại, từ đó chỉ ra những giá trị của mối liên hệ này trong văn hóa tín
ngưỡng nước ta.
7. Ý nghĩa của khóa luận
- Khóa luận đã góp phần sáng tỏ về mối quan hệ giữa các hình thái ý
thức xã hội với nhau mà cụ thể là mối quan hệ giữa một tơn giáo ngoại nhập
với một hình thái tín ngưỡng dân gian Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau của dân tộc.
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo
của Đảng và nhà nước hiện nay.
8. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương 6 tiết.

7


CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA
NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
1.1 . Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam

1.1.1 Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Xã hội Ấn Độ cổ đại xuất hiện từ
rất sớm, vào khoảng thế kỉ XXV trước công nguyên. Xã hội Ấn Độ thời cổ
đại được phân chia thành bốn đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do
và nơ lệ cung đình. Mỗi giai cấp giữ một thế sinh hoạt riêng và có sự phân
biệt sâu sắc giữa các giai cấp từ đó đã dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các đẳng
cấp trong xã hội. Trong khi những người Bà La Mơn có uy tín tuyệt đối trong
quần chúng và hưởng rất nhiều đặc quyền thì giai cấp tiện nô lại sống cuộc
sống cơ cực lầm than, khơng có quyền ăn nói cũng như đóng góp ngang hàng
với mọi người.
Nhìn rõ được cảnh khổ của chúng sinh, Đức Phật Thích Ca vốn là Thái
tử của Ấn Độ lúc bầy giờ, Ngài đã quyết xuất gia tầm đạo để giải thoát khổ
đau cho con người trong xã hội. Ròng rã sáu năm tu hành khổ hạnh trong
rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới gốc cây Bồ Đề, Đức Phật đã giác ngộ
được đạo quả vô – thượng, chính – đẳng, chính – giác. Phật giáo ra đời trong
làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-La-Mơn và chế độ đẳng cấp. Phật
giáo đã lí giải căn ngun nỗi khổ và tìm đường giải thốt cho con người
khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội.
Đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Á-Phi,
gần đây được truyền tới các nước Âu -Mỹ. Trong quá trình truyền bá của
mình, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hố bản địa
để hình thành rất nhiều tơng phái và học phái, có tác động vơ cùng quan trọng
với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.

8


Con đường du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt – đó là nằm trên trục giao
thơng từ Nam Á lên Bắc Á, gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á và là

cái lưng của bán đảo Ấn Trung – vị trí nằm gữa Ấn Độ và Trung hoa. Với địa
thế này, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của kinh tế mà cịn có cả văn
hóa và tôn giáo của hai nền văn minh cổ xưa này, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo đã có mặt ngay tại nước ta từ những năm đầu sau công
nguyên, nếu khơng nói là sớm hơn. Q trình du nhập đó của Phật giáo được
thực hiện thông qua hai con đường:
Phật Giáo du nhập qua con đường bộ (Ấn Độ - phía bắc Việt Nam) cịn
gọi là con đường tơ lụa. Những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng
tuyến đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sơng Kanburi
xuống châu thổ sơng Menam, từ đó đến sơng Mêkơng qua đất Lào rồi vào
Thanh Hóa, Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trong cuốn Lịch sử
Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ
Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối
liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sơng
Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn
Độ vào đầu cơng nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây
vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Phật Giáo du nhập qua con đường biển (Ấn Độ - phía nam Việt Nam):
Qua những tài liệu người ta đã tìm thấy những di tích, di chỉ của q trình
truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Do đó, người ta đã kết luận rằng những
bước đầu văn minh và tôn giáo từ Ấn Ðộ đã truyền qua Indonesia phải xảy ra
trước công nguyên và hệ luận đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn

9


Ðộ xuôi buồm đến Giao Châu cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường

biển lên phương Bắc.
Hơn nữa, từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Ðộ vẫn mua được
vàng ở Xibêri nhưng từ thế kỷ thứ hai trước cơng ngun vì các đợt di dân lớn
ở Trung Á đã làm chướng ngại con đường chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển
hướng nhập vàng từ La Mã thế nhưng chẳng bao lâu La Mã khơng bán vàng
ra nước ngồi nữa nên Ấn Ðộ mới chuyển qua các nước phía Ðông và lên tận
Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm hương, vàng bạc và các loại ngọc
thạch.
Vì địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á
và gần như nằm giữa các nước Ðông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Ðộ theo gió
Tây Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm
dừng chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của
Việt Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.
Như vậy, Phật giáo được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu)
trực tiếp từ Ấn Độ, và vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, Phật giáo đã
trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ thống
những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác dịch
thuật kinh điển... tại trung tâm Luy Lâu.
Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo đóng vai trị quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, nó đã hịa quyện vào đời sống nhân dân và góp
phần vào việc xây dựng nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Phật giáo Việt
Nam chia làm 4 thời kỳ khác nhau, nhưng lúc nào Phật giáo cũng tìm mọi
cách thích ứng để có những đóng góp thiết thực nhất cho dân tộc.
Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam
(từ thế kỉ thứ II đến thế kỉ thứ V): Với sự nỗ lực truyền giáo của các tăng sĩ Ấn
Độ, tại Luy Lâu, nơi đây đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn nhất trong
vùng. Với sự truyền đạo của nhà sư Khâu Đà La thì đã xuất hiện hình tượng
10



Thạch Quang Phật và Phật Mẫu Man Nương - là một mơ hình Phật giáo Việt
Nam đầu tiên. Sang thế kỉ thứ III, có thêm ba nhà sư đến truyền giáo vào
nước ta tại Giao Châu là ngài Khương Tăng Hội, ngài Chi Cương Lương Tiếp
và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ). Sang thế kỷ thứ V, có 2 thiền sư xuất
hiện là: Đạt Ma Đề Bà người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V và
thiền sư Huệ Thắng là người địa phương.
Thời kỳ thứ hai, Phật giáo Việt Nam thời kỳ phát triển ( từ thế kỷ VI đến
thế kỷ IX). Sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đồn
truyền giáo từ Trung Quốc và có ba tơng phái chính được truyền vào nước ta
đó là Thiền Tơng, Tịnh Độ Tơng, Mật Tơng.
Thiền tơng có nghĩa là tập trung khả năng, trí tuệ để tìm ra chân lý và
được Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt
cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma. Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma,
là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã
Ða La, Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để truyền bá Phật pháp. Tại nơi đây,
Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
Tịnh Ðộ Tơng: chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Chính
Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải
giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Sự giúp đỡ đó cịn cho
thấy bản thân của người tín đồ là phải thường xuyên đi chùa dâng hương,
cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên
niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà, trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán
tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
Mật tơng: Là một tơng phái chủ trương sử dụng những hình ảnh cụ thể
và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật
Tơng do Phật Ðại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật
và Kinh Kim Cương. Mật tông khi truyền vào Việt Nam đã nhanh chóng hịa
vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các nghi lễ truyền thống như chẩn tế,
cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tơng khơng có

11


dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng
chùa và của mỗi cá nhân có cơ dun đến với tơng phái này.
Ở Việt Nam, khơng có tơng phái Phật giáo nào thuần khiết. Dịng Thiền
Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mật tơng, nhiều thiền sư phái này nhất là
những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh
Không đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thơng. Cùng với
đó, Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực
và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.
Thời kỳ thứ ba, thời kỳ Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh (từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIII). Chính trong thời kỳ này, Phật giáo đã phát triển cực
thịnh và có nhiều đống góp cho đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng
định giai cấp cho các tăng sĩ và chính thức tiếp nhận Phật giáo làm nguyên tắc
chi đạo tâm linh cho chính sự. Các thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Ngô
Chân Lưu,... đã được phong làm cố vấn chính sự. Chính vì thế, Phật giáo Việt
Nam thời Kỳ này đã Phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Đặc biệt có thể
coi thời Trần là thời đại thống nhất của Phật giáo khi ba thiền phái Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập thành một và đưa tới sự
phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới thời Trần.
Thời kỳ thứ tư, thời kỳ phục hưng của Phât giáo Việt Nam trong thế kỷ
XX. Dưới thời Lý – Trần Phật giáo Việt Nam đã phát triển cực thịnh, nhưng
đến thời Hậu Lê dưới sự phát triển của Nho giáo thì Phật giáo đã phải nhường
bước để Nho giáo chiếm vị trí độc tơn.
Đến đời vua Tự Đức dưới sự đơ hộ của Pháp thì Việt Nam đã tiếp nhận
thêm một tôn giáo mới ở phương Tây đó là Ky Tơ giáo từ đó đã làm cho Phật
giáo càng suy tàn hơn. Mặc dù tinh thần khai phóng, dung hợp của Phật giáo
trong suốt mấy thế kỷ qua nhưng Phật giáo vẫn là một tôn giáo chính của dân
tộc Việt Nam, đóng vai trị hịa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây

dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.

12


Vào khoảng những năm 1920 – 1930, cùng với phong trào chấn hưng
Phật giáo trên thế giới, các tăng sĩ và cư sĩ cũng đã phát động phong trào chấn
hưng Phật giáo tại Việt Nam và đã đưa đến sự thành lập Tổng hội Phật giáo
Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 ở chùa Quán Sứ, ở miền Trung vào
năm 1934 ra mắt tại chùa Từ Đàm, tại miền Nam vào năm 1920 hội nghiên
cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn,...
1.1.2 . Giáo lý cơ bản của Phật giáo
Nội dung giáo lý cơ bản của Phật giáo được tập chung hết trong kinh
sách Phật giáo. Sinh thời đức Phật không viết sách mà tất cả các kinh sách
này là do học trò của Người đã kế tục và phát triển, trải qua bốn lần kết tập
kinh điển để xây dựng thành một học thuyết tơn giáo hồn chỉnh. Kinh sách
của Phật giáo được chia làm ba bộ phận gọi là Tam tạng gồm Kinh, Luật,
Luận.
Kinh là những sách ghi lời giảng của Phật về giáo lý, gồm năm bộ.
Luật là sách ghi những giới luật do Phật chế định làm khuôn phép cho
những người đệ tử, những người xuất gia tu hành.
Luận là các tác phẩm luận bàn các chú giải các vấn đề Phật giáo của
các học giả cao tăng về sau.
Phật giáo phản ánh đối tượng về thế giới và con người, quan niệm này
có hệ thống chặt chẽ và mang tính triết học sâu sắc, trên cơ sở tiếp thu nhiều
yếu tố của đạo Bà la môn và các trào lưu triết học Ấn Độ cổ đại. Quan niệm
về thế giới, theo Phật giáo các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không phải do
một đấng siêu nhiên nào tạo ra. Các sự vật, hiện tượng ấy không đứng in mà
luôn luôn chuyển động, biến đổi không ngừng, và các sự vật, hiện tượng ấy
đều do nhân duyên mà thành. Khi bàn về không gian và thời gian, Phật giáo

cho rằng thời gian là vô cùng, không gian là vô tận nhưng Phật giáo cũng thừa
nhận giới hạn của khơng gian và thời gian, tức là có khởi đầu và có kết thúc.
Trong quan niệm về con người, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác là
bàn đến vấn đề sinh tử của con người, đặc biệt là bàn đến nỗi khổ và con
13


đường giải thốt nỗi khổ đó. Con người bao gồm phần sinh lý, phần tâm lý và
là sự kết hộ của "ngũ uẩn". Và con người mất đi chẳng qua chỉ là sự tan rã của
"ngũ uẩn" theo quy luật "sinh - trụ - dị - diệt" mà thôi. Bên cạnh đó thì Phật
giáo lại quan niệm con người sau khi chết đi có thể đầu thai ở một khiếp khác.
Q trình ấy như vịng ln hồi khơng dứt, "ln hồi nghiệp báo" đó là quy
luật nhân quả của con người tồn tại trong vũ trụ.
Như vậy, cuộc sống cũng như cái chết của con người luôn đi theo quy
luật ln hồi, khơng có bất cứ sự can thiệp nào của đấng thần linh. Từ đó,
Phật giáo đi tới phủ nhận linh hồn bất tử. Bản chất của con người ai cũng như
ai. Phật đã từng nói: "Khơng có đẳng cấp trong dịng máu cùng đỏ như nhau,
khơng có đẳng cấo trong giọi nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra không
phải mang sẵn trong bào thai dây chuyền hay dấu tin - ka giữa trán"[5;115].
Phật giáo chủ trương kêu gọi con người phải biết yêu thương, đùm bọc nhau
trên tinh thần "từ bi hỉ xả".
Giáo lý cơ bản của đạo Phật được tập trung trong "tứ diệu đế", nghĩa là
bốn chân lý tuyệt diệu. Chân lý đầu tiên là "khổ đế" gồm 8 nỗi khổ là sinh,
lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Nhìn chung
trong Phật giáo ngồi khổ đau thì khơng tồn tại điều gì khác.
Chân lý thứ hai là "tập đế" là chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau
của con người. Có nhiều nguyên nhân dẫn con người tới khổ đau nhưng quy
lại thì có 3 nguyên nhân cơ bản của con người đó là: "tham, sân, si".
Chân lý thứ ba là "diệt đế". Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu
diệt được đó là tiêu diệt nguyên nhân gây ra sự khổ đau ấy. Tức là thốt khỏi

vơ minh, thốt khịi vịng ln hồi sinh tử của con người.
Chân lý thứ tư là "đạo đế" là con đường lên cõi Niết Bàn, là giải thốt
khỏi vịng ln hồi. Có tám giải pháp chính để trở thành chính quả là: chính
kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính tinh tiến,
chính niệm và chính định. Phật giáo nêu cao tinh thần từ bi, bác ái, thiện tâm
là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì thế, Phật
14


giáo đã ra đời để đáp ứng được nguyện vọng mong mỏi của quần chúng nhân
dân và được lan truyền rộng rãi khắp Ấn Độ và còn lan rộng đến nhiều nước
khác trên thế giới.
1.1.3 Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam
Do vị trí địa lý của Việt Nam là nằm ở tận cùng phía đơng nam châu Á
nên nước ta thuộc loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp, trồng trọt điển hình. Tất
cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp, trơng trọt đều
được thể hiện rất rõ trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Vì nghề nông nhất là nghề nông nghiệp lúa nước phải phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tự nhiên như: thời tiết, nước, khí hậu,… từ đó dân gian đã có
câu: “Trơng trời, trơng đất, trơng mây, Trơng mưa, trơng gió, trơng ngày,
trơng đêm,…”. Từ đó, bề mặt nhận thức của người Việt đã hình thành nên lối
tư duy tổng hợp, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính. Người Việt đã tích
lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm
thì mưa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…
Hơn nữa, bản tính của người Việt là cởi mở, bao dung chứ khơng hẹp
hịi kỳ thị, khép kín nên dù là tín ngưỡng nào, tơn giáo nào, đến từ đâu thì
cộng đồng người Việt cũng sẵn sang tiếp nhận - miễn là nó khơng vi phạm
đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại với truyền thống văn hóa dân tộc. Khác
với một số nước phương Tây, ở Việt Nam khơng có một tơn giáo nào giữ vai
trị thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trị của từng tơn giáo

gắn liền với sự hung thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến
trình phát triển của lịch sử dân tộc. Chính vì thế khi Phật giáo du nhập vào
Việt Nam với khế lý, khế cơ của mình, đã hịa nhập, thích nghi kết hợp với
đời sống tâm linh, văn hóa của người dân Việt Nam nên nó có những đặc
điểm riêng biệt làm cho Phật giáo Việt Nam trở nên linh hoạt và phong phú.
Thứ nhất, tính dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian, dung
hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác

15


Khi mới vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng
truyền thống của dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với
chúng. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là
Tứ pháp: Mây – Mưa - Sấm - Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật
hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp
Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn
điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng
tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế,
những khế ấn, và khn mặt đầy lòng từ mẫn,... Các hệ thống thờ phụ này
tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật,
hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành hoàng thổ
địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu,
bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng
mấy chục pho tượng Phật, Bồ Tát, La hán của các tông phái khác nhau. Ở
phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang
hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo
lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo

vàng vẫn có đồ nâu lam.
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Cơng
ngun. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo.
Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng ngun" (cả
ba tơn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tơn giáo có
cùng một mục đích). Ba tơn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã
hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con
người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni
ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi
người Việt.
16


Ngồi ra Phật giáo Việt Nam cịn được hịa trộn với tất cả các tơn giáo
khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên
nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
Thứ hai, Phật giáo có tính hài hịa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hịa âm dương là một trong những đặc tính khác
của lối tư duy nơng nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm
cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành
Phật Ông – Phật Bà. Bồ tát Quán Thế Âm đã được biến thành Phật Bà Quan
Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sơng
nước Đơng Nam Á (nên cịn gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay
cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ. Ngồi ra người Việt cịn có
những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật
Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu
Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
Dưới con mắt của một số tín đồ Phật giáo thì Phật Bà Quan Âm có khi
cịn gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhiều nơi

như đền, miếu, phủ… trở thành là nơi hương hoa, oản quả nhằm thờ phụng
những bậc thánh thần thuộc giới nữ.
Thứ ba, Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín
ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa:
“Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân” (Ca dao)
làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ
pháp); ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả
nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình
dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc lúc giao

17


thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu
kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hịa với những tên gọi rất
dân gian: ơng Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Dilặc to béo), ơng Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo
lối ngồi khơng phải trên tòa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản
dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương cịn lấp ló lọn tóc đi gà truyền thống của
phụ nữ Việt Nam.
1.1.4 Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam
Phật giáo là một hệ thống triết học uyên thâm, tư tưởng rộng lớn, lý
luận phong phú... với bao thế hệ tu sĩ hoằng pháp, hành đạo. Có thể thấy
rõ vai trị của của Phật giáo thể hiện trong xã hội qua những biểu hiện cơ
bản sau:
Thứ nhất, tạo cho người Việt một đời sống tâm linh sâu sắc
Nhà sư và ngơi chùa có vai trị quan trọng trong đời sống dân gian cổ
truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngồi thờ Phật,

chùa cịn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có cơng với
nước. Ngơi chùa trở thành một trung tâm văn hố làng. Có thể nói Phật giáo
đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hố dân tộc. Nho giáo về mặt nào
đó chỉ làm cho tư tưởng văn hố Việt Nam khơ cứng thì Phật giáo lại có phần
làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa, hội làng là tiêu biểu
cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm,
hồ cái ta của mình vào cái ta của làng xã, khơng bị giáo lý khn phép gị bó.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có
thể mất đi như mọi hiện tượng vơ thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật
giáo đã được dân tộc hố và dân gian hố thì mãi mãi trường tồn. Trong mấy
chục năm gần đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi
lễ của mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng thành kính trong
khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện.
18


Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen khơng thể thiếu của người theo
Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu
siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui
định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách
riêng biệt.
Thứ hai, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam
Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tơn giáo gắn bó mật
thiết, thể hiện được tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền thống
yêu nước, gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trong Phật giáo Việt Nam đã ghi
nhận hai trường hợp đặc biệt: Lý Công Uẩn – một vị sư xả pháp, xuất tu để ra
đời làm bậc quân vương khai mở triều đại nhà Lý, và Trần Nhân Tơng – một
vị hồng đế từ bỏ ngai vàng để vào núi ẩn tu trở thành một vị Tổ sư của Phật
giáo đời Trần. Trong thời kỳ hội nhập, Phật giáo ln chia sẻ những khó

khăn, hỗ trợ những người gặp hồn cảnh khốn khó, gặp thiên tai, địch họa để
chung tay cùng đất nước góp phần ổn định xã hội, xóa đói giảm nghèo và phát
triển kinh tế xã hội. Đồng hành cùng dân tộc Việt, Phật giáo có cơ hội phát
huy tư tưởng đồn kết của mình, tạo ra một sợi dây liên kết để cả dân tộc
đồng lịng trong cơng cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Thứ ba, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho kiến trúc và lễ
hội ở Việt Nam
Về kiến trúc : Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam đã đem theo các kiểu
kiến trúc chùa tháp, lầu chng, gác trống theo mơ hình kiến trúc của Ấn Độ,
Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối
hợp cùng với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mơ hình kiến
trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam như: Chùa tháp ở Việt Nam mái chùa
bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh
trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng.

19


Về điêu khắc : Ngày nay, những cốt tượng, phù điêu của Phật
giáo được trưng bày trong viện bảo tàng là một niềm tự hào của nền văn hóa
dân tộc Việt và cũng là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có
mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay. Chùa Hạ (Vĩnh Phú cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của
chùa Tây Phương (Hà Tây), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây), Bộ
tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam, Đà Nẵng),
Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho).
Thứ tư, góp phần điều chỉnh hành vi xã hội theo chuẩn mực đạo đức
truyền thống
Phật giáo Việt Nam đã xây dựng và giáo dục được nền đạo đức tốt
đẹp, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giảm bớt tiêu cực và tệ

nạn xã hội, hướng dẫn tín đồ tu tâm dưỡng tính, làm những việc thiện, tránh
những việc ác. Biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thể hiện đức tính tốt
đẹp của những người con Phật. Thơng qua đó, cịn giúp con người tránh vơ
minh, chế ngự dục vọng, lòng tham lam để mang lại sự sáng suốt, an
lạc, hạnh phúc và sẵn sàng làm mọi việc vì nước, vì dân, vì cộng đồng, góp
phần ổn định xã hội. Đạo Phật là tơn giáo có tình thương bao la bát ngát nhất
trong các tơn giáo.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào
như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý:
“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam, tham gia các chiến dịch nhân
đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt, các công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp
đỡ người nghèo, người già không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị
ảnh hưởng chất độc màu da cam, nuôi dạy trẻ em mồ cơi, trẻ em bị bỏ rơi; vận
động tài chính, lương thực, đồ dùng để giúp đỡ người nghèo, tặng q cho Bà
mẹ Việt Nam anh hùng, người có cơng với cách mạng,...

20


×