Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Quan hệ Ngoại giao Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA
DÂN CHỦ ĐỨC TỪ NĂM 1955 ĐẾN 1990
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.10

Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Quốc Huy
Lớp
: 1705CTHB
Cán bộ hướng dẫn : ThS. Đặng Đình Tiến

Hà Nội, 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA
DÂN CHỦ ĐỨC TỪ NĂM 1955 ĐẾN 1990
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.10

Chủ nhiệm đề tài
: Đỗ Quốc Huy
Thành viên tham gia : Nguyễn Duy Công


Nông Ngọc Quyền
Phùng Đức Trung
Lớp
: 1705CTHB
Cán bộ hướng dẫn : ThS. Đặng Đình Tiến
Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng nhóm sinh viên
nghiên cứu khoa học chúng tôi. Các số liệu và tài liệu được sử dụng trong đề
tài có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của đề tài chưa
được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào.


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

STT

Chữ viết tắt

Tiếng Việt

1.

BMZ

Bộ Hợp tác phát triển


2.

CDU

Liên đoàn Dân chủ Thiên chúa giáo Đức

3.

CHDC

Cộng hòa Dân chủ

4.

CHLB

Cộng hòa Liên bang

5.

DAAD

Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức

6.

EKF

Quỹ Năng lượng và Khí hậu


7.

EU

Liên minh châu Âu

8.

EVFTA

9.

FDI

Về đầu tư trực tiếp nước ngồi

10.

GCF

Quỹ Khí hậu xanh

11.

IKLU

12.

KHKT


Khoa học kỹ thuật

13.

KPD

Đảng Cộng sản Đức

14.

LDPD

Đảng Dân chủ Tự do Đức

15.

MfS

Bộ An ninh Quốc gia

16.

ODA

Hỗ trợ Phát triển Chính thức

17.

SED


Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức

18.

SPD

Đảng Dân chủ Xã hội Đức

19.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên
minh châu Âu

Chương trình Sáng kiến về khí hậu và bảo vệ
mơi trường


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 5
B. PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 9
Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
NGOẠI GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC ........................ 9
1.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của Thế
kỷ XX.................................................................................................................. 9
1.2. Những nhân tố tiền đề trước khi Việt Nam – CHDC Đức thiết lập quan
hệ ngoại giao (1950-1954) .............................................................................. 14

1.3. Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhu
cầu hợp tác, chính sách đối ngoại của hai nước (1955-1990)...................... 18
Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC TRÊN
CÁC LĨNH VỰC ............................................................................................... 20
2.1. Quan hệ Việt Nam – Cộng hịa Dân chủ Đức trên lĩnh vực chính trị đối ngoại .......................................................................................................... 20
2.2. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực quân sự, an
ninh .................................................................................................................. 24
2.3. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực kinh tế khoa học – cơng nghệ ..................................................................................... 26
2.4. Trên lĩnh vực văn hố – giáo dục – y tế – cơ sở hạ tầng ....................... 30
2.5. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực hợp tác lao
động Xã hội Chủ nghĩa ................................................................................... 32
Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ
NGOẠI GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC (SỰ KẾ
THỪA CỦA LỊCH SỬ SAU KHI NƯỚC ĐỨC THỐNG NHẤT) ............... 37
3.1. Đánh giá mối quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức từ 1955 –
1990 .................................................................................................................. 37
3.2. Quan hệ ngoại giao Việt Nam– CHLB Đức dựa trên nền tảng lịch sử..
.......................................................................................................................... 38
3.3. Cộng đồng người Việt tại Đức và mối quan hệ giữa Đức và Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................... 40
3


3.4. Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam – CHLB Đức ........................... 41
C. PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 46
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 48

4



A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong suốt lịch sử bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam có sự đóng góp
khơng hề nhỏ của bạn bè quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trong đó có
Cộng hòa Dân chủ Đức (hay còn được gọi là Đông Đức).
Với tinh thần quốc tế vô sản, tình anh em xã hội chủ nghĩa trong sáng,
Cộng hịa Dân chủ Đức đã có sự giúp đỡ to lớn cho công cuộc bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tháng ác liệt của
chiến tranh và cả trong giai đoạn Việt Nam bị bao vây cấm vận với vơ vàn khó
khăn, nhà nước và nhân dân Đông Đức đã có những sự giúp đỡ vơ giá về mặt
chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng...
Năm 2020 là năm kỉ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (03/02/1930-03/02/2020) và 65 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt
Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức (03/02/1955-03/02/2020). Tuy chế độ chính trị
khơng cịn, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn luôn luôn ghi nhớ và biết ơn những
đóng góp vô giá của một nước Đức xã hội chủ nghĩa anh em. Tình cảm của nhân
dân Đức đối với nhân dân Việt Nam trong những năm tháng khó khăn cần được
biết tới rộng rãi, kể cả với thế hệ trẻ - những người sinh ra sau ngày nước Đức
thống nhất.
Mặt khác, dựa vào lịch sử quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Việt Nam và
Cộng hòa Dân chủ Đức, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức
mới cũng cần được vun đắp và phát triển sâu rộng hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quan hệ
Ngoại giao Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Hiện tại đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên
cứu về quan hệ Việt Nam – CHDC Đức trên từng lĩnh vực như:
5



GS. Nguyễn Văn Ngọ (2018), Kể Lại Chuyện Việt Nam tham gia hợp tác
KHKT ở hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV); Tác giả đã tái hiện
lại bức tranh sinh động về quá trình Việt Nam tham gia hợp tác trênh lĩnh vực
khoa học kĩ thuật ở hội đồng tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, những
khó khăn và thuận lợi trong quá trình tham gia tổ chức này
Cơ quan Ủy viên Liên bang về các tài liệu của Dịch vụ An ninh Nhà nước
Cộng hòa Dân chủ Đức cũ (2016), Quan hệ giữa An ninh Việt Nam và Stast –
Đông Đức, trong công trình nghiên cứu, tập thể tác giả đã đi vào tìm hiểu mối
quan hệ hợp tác về an ninh trong quan hệ Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức
trong thời kỳ từ năm 1950 đến trước năm 1990
Đào Đức Thuận, Phạm Thu Quỳnh (2011), Quan hệ Việt Nam - Cộng hòa
dân chủ Đức (1950 - 1990) qua tài liệu lưu trữ, Tạp chí Văn Thư - Lưu trữ Việt
Nam, Số 4. Trong bài viết tác giả đã tiếp cận mối quan hệ giữa Việt Nam và
Cộng hòa dân chủ Đức thông qua một số tài liệu lưu trữ tại Việt Nam, từ đó làm
rõ mối quan hệ Việt Nam - Cộng hòa dân chủ Đức trên một số lĩnh vực như:
kinh tế, khoa học kĩ thuật, xây dựng…
Martin Grossheim (2014), “Fraternal Support: The East German ‘Stasi’
and the Democratic Republic of Vietnam during the Vietnam War”, Cold War
International History Project Working Paper #71, September 2014, Tác giả đã
làm rõ một số nội dung trong quan hệ giữa Bộ An ninh Quốc gia Đông Đức và
Việt Nam DCCH trong Chiến tranh VN.
Các bài viết đã làm rõ một số nội dung hợp tác giữa Việt Nam và CHDC
Đức. Tuy vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về mối quan
hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức một cách tổng hợp, khái quát
trên mọi lĩnh vực.

6



3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu, trình bày mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ
Đức; để từ đó nêu bật tinh thần quốc tế vô sản, hợp tác xã hội chủ nghĩa vô tư
trong sáng giữa các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa anh em và rút ra những bài học
kinh nghiệm trong việc phát triển mối quan hệ ngoại giao trong thời kỳ hiện đại .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu, trình bày mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hịa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa
Dân chủ Đức
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lịch sử mối quan hệ
ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây)
và Cộng hòa Dân chủ Đức trên các mặt: chính trị, giao lưu nhân dân, quốc
phòng – an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng, khoa học - kỹ
thuật, lao động hợp tác.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng
hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990.

7


5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin,
quán triệt nguyên tắc khách quan, toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể; đờng thời
qn triệt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về ngoại giao và giao lưu
nhân dân.
Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu ...
6. Giả thuyết nghiên cứu
Vai trò lịch sử của mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ
Đức trước đây có vai trị quan trọng trong cơng cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng như là tiền đề cho việc phát triển mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức hiện đại. Tuy vậy, nhiều người
Việt Nam và Đức hiện tại chưa hiểu rõ và đánh giá đúng mối quan hệ lịch sử
này. Đề tài nghiên cứu giúp cho mọi người hiểu rõ và đánh giá đúng hơn về mối
quan hệ lịch sử Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trước đây) và Cộng hịa Dân chủ Đức.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Về mặt lý luận:
Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng
hòa Dân chủ Đức trên các mặt: chính trị, giao lưu nhân dân, quốc phịng – an
ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng, khoa học - kỹ thuật, lao động
hợp tác.
- Về mặt thực tiễn:
Đề tài góp phần rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển
mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức mới trong thời kỳ hiện đại.
8


B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI
GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC

1.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của
Thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ 2
Ngay từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, nhiều vấn
đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các nước Đồng minh:
- Nhanh chóng đánh bại hồn tồn chủ nghĩa phát xít
- Tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh
- Phân chia thành quả giữa các nước thắng trận
Từ 4/11/2/1945, hội nghị quốc tế được triệu tập tại Yalta (Liên Xô) với sự
tham dự của nguyên thủ 3 cường quốc là Liên Xô, Mĩ, Anh nhằm giải quyết các
vấn đề trên. Những quyết định quan trọng của Hội nghị Yalta như sau:
- Đẩy mạnh việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt
Nhật.
–Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hồ bình và an ninh thế
giới.
–Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát
xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á:
+ Ở châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông
Berlin và các nước Đông Âu; quân đội Mĩ, Anh và Pháp chiếm đóng miền Tây
nước Đức, Tây Berlin và các nước Tây Âu. Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của
9


Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ. Hai nước Áo và Phần
Lan trở thành những nước trung lập.
+ Ở châu Á: Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để tham

chiến chống Nhật bản: 1- Giữ nguyên trạng Mông Cổ; 2- Trả lại cho Liên Xô
miền Nam đảo Sakhalin và các đảo xung quanh; quốc tế hoá thương cảng Đại
Liên (Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận; Liên Xô
cùng Trung Quốc khai thác đường sắt Nam Mãn Châu – Đại Liên; Liên Xô
chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Kuril. Quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản; ở bán
đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và quân đội Mĩ chiếm
đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới; Trung Quốc cần trở thành một
quốc gia thống nhất; quân đội nước ngoài rút khỏi Trung Quốc. Chính phủ
Trung Hoa Dân quốc cần cải tổ với sự tham gia của Đảng Cộng sản và các đảng
phái dân chủ, trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần
đảo Bành Hờ; các vùng cịn lại của châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của
các nước phương Tây.
Thực chất của Hội nghị Ianta là sự phân chia khu vực đóng quân và khu
vực ảnh hưởng giữa các nước thắng trận, có liên quan tới hồ bình, an ninh và
trật tự thế giới về sau. Những quyết định quan trọng của Hội nghị và những thoả
thuận sau đó trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới (trật tự hai cực Ianta).
Theo đó, thế giới được chia thành hai phe do hai siêu cường đứng đầu mỗi phe,
đối đầu gay gắt trong gần 4 thập niên, làm cho quan hệ quốc tế luôn trong tình
trạng phức tạp, căng thẳng.
1.1.2. Cộng hịa Dân chủ Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2
Năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, các nước Đồng Minh đã
phân chia nước Đức thành các khu vực khác nhau: Khu vực từ sông Niesse đến
sông Oder được cắt hồn tồn cho Cộng hịa Nhân dân Ba Lan. Khu vực
Kưnigsberg được cắt hoàn toàn cho Liên Xơ và đổi tên thành Kaliningrad. Phần

10


còn lại của nước Đức bị chia làm 4 phần cho 4 nước: Anh – Pháp – Mỹ - Liên
Xô.

Năm 1949, khi hai cực Đông –Tây đối đầu trong cuộc Chiến tranh Lạnh, tại
3 vùng kiểm soát của Anh – Pháp –Mỹ đã kết hợp lại, thành lập chính quyền
Cộng hịa Liên bang Đức. Tại khu vực kiểm sốt của mình, Liên Xô đã bảo trợ
các lực lượng Cộng sản Đức, thành lập chính quyền Cộng hịa Dân chủ Đức.
Khi khối quân sự Warsawa và Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế Các Nước XHCN
(SEV) ra đời, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đơng Đức) trở thành một thành viên tích
cực của khối Xã hội chủ nghĩa trong cuộc Chiến tranh Lạnh đối đầu với Tây
phương Tư bản Đế quốc.
- Về chính trị: Khác với nhiều nước XHCN khác, ở CHDC Đức tờn tại một
hệ thống chính trị đa đảng phái và bản thân đảng cầm quyền ở CHDC Đức cũng
là sự kết hợp của 2 đảng chính trị. Các đảng chính trị ở CHDC Đức bao gờm:
1. Đảng chính trị cầm quyền ở Đông Đức là Sozialistische Einheitspartei
Deutschlands (Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED), được thành lập
năm 1946 dựa trên việc hợp tác và thống nhất giữa Đảng Cộng sản Đức (KPD)
và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) (các chi bộ của SPD tại Đông Đức).
2. Christlich-Demokratische Union Deutschlands (Liên đoàn Dân chủ
Thiên chúa giáo Đức, CDU), đã hợp nhất với CDU Tây Đức sau khi thống nhất
3. Demokratische Bauernpartei Deutschlands (Đảng Dân chủ Nông dân
Đức, DBD). Đảng này đặc biệt quan trọng bởi vai trò của nông dân trong nền
kinh tế. Đảng đã sáp nhập với CDU của Tây Đức sau thống nhất.
4. Liberal-Demokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Tự do Đức,
LDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất
5. Nationaldemokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Quốc gia
Đức, NDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất.

11


Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED thực hiện quyền lãnh đạo
của mình thơng qua Liên minh thống nhất của các đảng chống phát xít Mặt trận

Quốc gia Dân chủ Đức – một tổ chức mà tất cả các đảng chính trị ở CHDC Đức
phải tham gia.
Nhà nước CHDC Đức có mối liên hệ mật thiết với Liên Xô và các nước Xã
hội Chủ nghĩa khác, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc và chống lại chủ
nghĩa Đế quốc. CHDC Đức còn tham gia nghĩa vụ quốc tế tại Mozambique,
Namibia, Angola…
- Về kinh tế: Nền kinh tế CHDC Đức là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung cao độ, nằm trong hệ thống kế hoạch hóa kinh tế toàn Đơng Âu với Liên
Xơ và các quốc gia khác thuộc khối Warsawa. Kinh tế CHDC Đức có thế mạnh
về cơng nghiệp nhẹ và nơng nghiệp; cơng nghiệp nặng của CHDC Đức mới bắt
đầu được đầu tư từ đầu thập niên 1970 nhưng không mạnh bằng Liên Xơ hay
Tây Đức.
Các hàng hóa ở Đơng Đức được phân phối thơng qua các Kaufhalle (Bách
hóa Tổng hợp) của CHDC Đức. Khác với Bách hỏa Tổng hợp ở Việt Nam, hàng
hóa ở đây khơng phụ thuộc vào tem phiếu phân phối mà lưu thông như trong thị
trường bình thường. Các Kaufhalle của CHDC Đức thường thuộc quyền sở hữu
của nhà nước thông qua Công ty Bán lẻ Công cộng Nhà nước
(Handelsorganisation Kaufhalle) hoặc của Hợp tác xã Tiêu dùng (Mỗi Bách hóa
là một Tài sản hợp tác của một nhóm các cá nhân). Vì có giá bán cố định thống
nhất cho tất cả hàng hóa nên khơng có sự cạnh tranh về giá giữa các cửa hàng
khác nhau.
- Về an ninh, quân sự: Lực lượng an ninh và quân đội CHDC Đức thuộc
hàng đầu khối Warsawa. Bộ An ninh Quốc gia (MfS) của CHDC Đức là cơ
quan phản gián hàng đầu châu Âu thời chiến tranh lạnh. Các điệp viên Đông
Đức được cài cắm mọi nơi, từ trợ lý Thủ tướng Tây Đức cho tới Thư kí Hội
đờng Tham mưu trưởng NATO; thậm chí sau ngày thống nhất, CHLB Đức còn
12


không thu hồi được danh sách điệp viên của MfS. Quân đội của CHDC Đức

(NVA) là đội quân thường trực được Liên Xơ viện trợ nhiều vũ khí mạnh nhất
khối Warsawa, với 4 sư đoàn bộ binh cơ giới, 2 sư đoàn tăng, 2 sư đoàn không
quân, 2 lữ đoàn tên lửa đạn đạo, 4 hạm đội, được trang bị xe tăng T-72, thiết
giáp BMP-2, máy bay MiG-29, tên lửa đạn đạo Luna, tàu tên lửa Tarantul…
1.1.3. Việt Nam sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2
Năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập. Năm 1946, nhà
nước Việt Nam độc lập non trẻ phải tiến hành một cuộc kháng chiến chống lại
quân viễn chinh Pháp đang có mưu đồ tái lập hệ thông thuộc địa của mình ở
Đơng Dương.
Trong giai đoạn 1946-1949, tình hình của lực lượng kháng chiến Việt
Nam vơ cùng khó khăn. Vũ khí, quân tư trang, nhu yếu phẩm, thuốc men, lương
thực thiếu thốn; chưa có được các đồng minh trên thế giới và khu vực.
Năm 1949, Nội chiến Trung Quốc đi vào hời kết, nước Cộng hóa Nhân dân
Trung Hoa ra đời, Cầu nối cho lực lượng cách mạng ở Việt Nam ra thế giới đã
được mở ra. Qua 2 chiến dịch Biên Giới và Thập Vạn Đại Sơn, lực lượng cách
mạng Việt Nam đã được nước Trung Quốc mới công nhận và thiết lập quan hệ
ngồi giao. Thơng qua Trung Quốc, chủ tịch Hờ Chí Minh đã được gặp lãnh tụ
Liên Xô Stalin và từ đó thiết lập mối quan hệ Việt – Xô và vươn tới các nước
XHCN ở Đông Âu, trong đó có Cộng hòa Dân chủ Đức tử năm 1950.
Tuy vậy, chỉ sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam
thắng lợi, hịa bình lập lại ở Bắc Việt Nam, CHDC Đức mới thiết lập quan hệ
với Việt Nam ngày 03/02/1955.

13


1.2. Những nhân tố tiền đề trước khi Việt Nam – CHDC Đức thiết lập
quan hệ ngoại giao (1950-1954)
1.2.1. Lính Lê Dương Đức tại Đông Dương
Trong cuộc chiến tại Đông Dương, người Pháp có sử dụng rất nhiều những

người lính Lê Dương gốc Đức ở trong vùng chiếm đóng của Pháp trên lãnh thổ
Đức. Các tù binh là cựu quân nhân SS Đức cũng bị người Pháp đưa sang Đông
Dương để chiến đấu thay cho quân Pháp. Chỉ tính riêng khu vực Điện Biên Phủ,
đã có 8000 lính Đức chiến đấu trong biên chế lực lượng Lê Dương Pháp.
Trong quá trình chiến đấu tại Đơng Dương, những người lính Đức nhận ra
họ cũng chỉ là công cụ chiến tranh của Thực dân Pháp, Đã có khơng ít những
người lính Lê Dương gốc Đức đào ngũ và chạy về phía Việt Nam. Những người
Đức này đã trợ giúp rất nhiều về kỹ – chiến thuật cho Quân đội Nhân dân Việt
Nam.
Từ năm 1951 đến 1954, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tạo
điều kiện cho nhiều hàng binh Đức được hồi hương thông qua Liên Xô và Trung
Quốc – lúc này Việt Nam và Đông Đức chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính
thức.
1.2.2. Vai trị của Trung tá Erwin Borchers đối với cách mạng Việt Nam
Erwin Borchers, sinh năm 1906 ở Strasburg, là con trai của một sĩ quan
Phổ.
Ngay từ khi cịn trẻ, ơng là người lúc nào cũng "đam mê chính trị” và sau
đó ơng đã trở thành một nhà xã hội dân chủ học.
Erwin Borchers đã gia nhập một nhóm chống đối ở Frankfurt, sau khi
Hitler lên nắm quyền tại Đức vào năm 1933. Borchers đã in và rải truyền đơn
cho nhóm này. Chỉ thiếu chút nữa anh đã sa vào tay bọn mật thám Đức quốc xã.
Sau đó anh trốn sang Pháp và muốn phục vụ trong quân đội Pháp để chiến đấu

14


chống Hitler. Tuy nhiên, nguyện vọng này của Borchers không được chấp nhận
vì mẹ anh "đã phản bội nước Pháp" khi kết hôn với một sĩ quan Đức.
Thay vì điều đó, khi chiến tranh bắt đầu, người ta tống anh vào một trại
giam giống như những thanh niên Đức và Áo khác . Người ta coi Erwin

Borchers là một điệp viên tiềm tàng. Người Pháp đã làm cho Borchers và các tù
nhân khác hiểu rõ rằng việc gia nhập đội quân lính đánh thuê (Lê Dương) là con
đường duy nhất để không phải ngồi sau hàng rào dây thép gai cho tới khi chiến
tranh kết thúc.
Ngày 16/9/1939, Erwin Borchers trở thành lính đánh thuê. Tại Algeria, anh
gặp Rudolf Schroeder - sinh viên khoa xã hội học trốn sang Pháp năm 1933 do
bị tố giác sau khi trao cho giáo sư người Do Thái của mình một bó hoa.
Sau đó, Borchers và Schroeder lên đường sang Đơng Dương. Ở Việt Trì,
họ kết bạn với Đảng viên Cộng sản người Do Thái Ernst Frey, một người đến từ
thủ đô Vienna của Áo và cũng đã chạy trốn sang Pháp vì sự truy bức của bọn
quốc xã.
Cả ba người bạn đều ghê sợ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của nhiều sĩ
quan cấp trên, và nhìn chung họ ghê sợ cả phong cách chính trị - quân sự của đội
quân đánh thuê. Họ thành lập một nhóm cộng sản và bí mật liên lạc với Việt
Minh. Khi biết rõ việc Pháp có kế hoạch tái thực dân hóa Việt Nam, ba người đã
quyết định chạy sang hàng ngũ bên kia.
Những người nước ngoài tham gia Việt Minh khơng phải đều là "hàng
binh", vì vậy để tránh gây ngộ nhận, mặc cảm, Chủ tịch Hờ Chí Minh đặt tên
chung cho họ là "người Việt Nam mới". Trong giai đoạn đầu chiến tranh khi lực
lượng vũ trang Việt Minh còn non trẻ, gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm và kiến
thức của những người "Việt Nam mới" đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát
triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam ,trong số đó có Erwin Borchers. Erwin
Borchers đã được phong quân hàm Trung Tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chủ
15


tịch Hờ Chí Minh đã đặt cho ơng cái tên “Chiến Sĩ” khi trao cho ông một Huân
chương ghi nhận cơng lao của ơng đối với phong trào giải phóng Việt Nam.
Erwin Borchers là một người có trí óc sắc sảo và tầm hiểu biết rộng. Ơng là
một nhà trí thức, một tín đờ Tin lành mộ đạo và một người xã hội dân chủ chân

chính, tin vào chủ nghĩa của mình, đã từng học văn học và ngôn ngữ Đức, văn
học và ngôn ngữ Romania ở Đức và Pháp. Trong hàng ngũ Việt Minh, ông phụ
trách công tác tuyên truyền và đặc biệt quan tâm tới quan điểm đúng đắn của các
tù binh nói chung và các hàng binh Đức nói riêng.
Vào năm 1954 đã có khoảng 10.000 lính đánh thuê Đức tham chiến ở Đông
Dương, phần lớn là những cựu binh SS (Lực lượng Cận vệ) trước kia, không
việc làm, không trình độ. Khác với các cựu binh Wehrmacht (Quân đội Đức),
các cựu binh SS (Lực lượng Cận vệ) khơng có quyền cơng dân đầy đủ, bị coi
như tội phạm chiến tranh và khơng có nhiều cơ hội tìm việc làm tại q nhà.
Ngồi ra, cịn một số lượng không nhỏ tù binh Đức do Pháp giam giữ bị ép đi
làm lính Lê Dương để trả “Thuế máu” cho nước Pháp. Tính đến năm 1953, đã
có 5.000 lính Đức thiệt mạng. Hàng trăm người Đức trẻ tuổi đã chạy sang hàng
ngũ bên kia một số tự nguyện (một phần cũng do sự tuyên truyền của Erwin
Borchers); một số vì muốn tránh số phận nghiệt ngã của tù binh chiến tranh.
Năm 1951, Frey và Schroeder đã rời Việt Nam, đi về châu Âu. Erwin
Borchers ở lại, lấy vợ và trở thành cha của 7 đứa trẻ.
Ơng đã tích cực tham gia khi lực lượng Việt Minh phát triển từ một nhóm
nhỏ du kích qn thành một qn đội hùng mạnh, có khả năng chiến đấu và dần
dần đẩy quân Pháp ra khỏi những vị trí cuối cùng ở miền Bắc Việt Nam. Cuối
tháng 2/1954, Erwin Borchers cũng đến lòng chảo Điện Biên Phủ cùng đội
tuyên truyền của ông. Giữa những đợt tấn cơng, họ dùng loa phóng thanh kêu
gọi các lính đánh thuê cũng như các đơn vị lính Bắc Phi hạ vũ khí...
Ngày 7/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu ác liệt, cứ điểm cuối cùng của
pháo đài Điện Biên Phủ đã thất thủ, Tướng Christan de Castries và toàn bộ sĩ
16


quan, binh lĩnh còn lại phải ra hàng. Tổng cộng về phía Pháp có 6.000 người
chết, hơn 10.000 người bị bắt làm tù binh, trong đó có hàng ngàn người Đức.
Kháng chiến chống Pháp kết thúc, Trung tá Chiến Sĩ thuộc ban qn vận có

thành tích trong tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ đã được chủ tịch Hờ Chí
Minh trao tặng Huân chương chiến thắng hạng ba, cùng một món quà lưu niệm
của Bác, một chiếc đồng hồ đeo tay có hình Hờ Chí Minh trên đó. Ơng nhận một
vị trí trong Bộ Tuyên truyền và sau này làm việc cho Hãng thông tấn ADN của
CHDC Đức cũ tại Hà Nội. Năm 1965, Erwin Borchers cùng gia đình chuyển
sang Đơng Berlin. Ơng qua đời năm 1984.
Erwin Borchers là một chiến sĩ quốc tế người đã tự nguyện tham gia và ủng
hộ vào phong trào Cách mạng Việt Nam, đồng thời còn là cầu nối trong việc
thiết lập mối quan hệ giữa 2 quốc gia Xã hội Chủ nghĩa anh em Việt Nam –
CHDC Đức.
1.2.3. Vũ khí do Đức hỗ trợ trong thời kì Kháng chiến chống Pháp
Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, Liên Xô và Trung
Quốc đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hịa rất nhiều các loại vũ khí;
trong đó có khơng ít vũ khi của Đức Quốc Xã tại các nhà kho ở Đông Đức. Rất
nhiều súng trường Karabiner 98K, súng máy MG34, pháo PaK40 75mm và
sFH18 150mm đã được chuyển giao cho Quân đội Nhân dân Việt Nam thông
qua con đường Liên Xô và Trung Quốc.
Giai đọan này, do chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, những loại
vũ khí này được ghi nhận vào diện “Bàn giao vũ khí của Đức Quốc Xã cho Liên
Xơ”, rời từ đó Liên Xô mởi chuyển qua Trung Quốc với danh nghĩa “Kháng
Mỹ, Viện Triều”, rồi một lần nữa từ Trung Quốc mới qua Việt Nam. Số liệu
thống kê chính xác về số vũ khí này khơng được cụ thể do bản thân Trung Quốc
thời trước đó cũng đã sản xuất phiên bản sao chép những loại vũ khí này và gốp
chung cả số hàng từ Đức sang và số hàng tự sản xuất này đưa sang Việt Nam và
Triều Tiên.
17


Các loại vũ khí Đức và các loại vũ khí sử dụng cỡ đạn của Đức (do Tiệp,
Trung Quốc sản xuất) vẫn tiếp tục được sử dụng bởi các du kích miền Nam thập

niên 60 của Thế kỷ XX.
1.3. Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức thiết lập quan hệ ngoại giao và
nhu cầu hợp tác, chính sách đối ngoại của hai nước (1955-1990)
Sau ngày hịa bình lập lại ở miền Bắc Việt Nam, các quốc gia Xã hội Chủ
nghĩa mới bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa. Năm 1955, CHDC Đức đã đặt Đại Sứ Quán tại Hà Nội
và tới năm 1980 thì đặt tiếp Lãnh Sự Qn tại Thành phố Hờ Chí Minh.
Ngày 03/02/1955, CHDC Đức thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng
hòa Dân chủ Đức là 2 quốc gia có hệ thống chính trị tương đờng, cùng là các
nước Xã hội Chủ nghĩa, chống lại chủ nghĩa Đế quốc, cùng bị chia cắt do chiến
tranh lạnh. Việt Nam cần thêm một quốc gia đồng minh trong cuộc chiến với Đế
quốc Mỹ cũng như hỗ trợ khôi phục kinh tế thời kì hậu chiến. Cịn CHDC Đức
cũng cần có một đồng minh ở khu vực châu Á, làm gia tăng ảnh hưởng của khối
Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới.
Trải qua 35 năm, từ 1955 đến 1990, CHDC Đức và Việt Nam đã có những
hợp tác vô cùng quan trọng về cả Chính trị, An ninh - Quốc phịng, Kinh tế, Y
tế, Cơ sở hạ tầng, Giao lưu nhân dân...
Tuy nước Đức đã thống nhất và chế độ XHCN ở Đơng Đức cũng khơng
cịn, nhưng những di sản của mối quan hệ giữa những đờng chí anh em XHCN
ngày đó vẫn còn cho tới ngày nay.
Tiểu kết chương 1
Qua chương 1, nhóm tác giả đã dẫn dắt người đọc đi từng bước để tìm hiểu
về bối cảnh lịch sử, tiến trình và những nhân tố tác động để hai nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ( Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây ) và Cộng
18


hòa Dân chủ Đức thiết lập mối quan hệ ngoại giao, bắt đầu một mối quan hệ tuy
ngắn ngủi nhưng mang rất nhiều ý nghĩa to lớn.


19


Chương 2
QUAN HỆ VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC
TRÊN CÁC LĨNH VỰC

2.1. Quan hệ Việt Nam – Cộng hịa Dân chủ Đức trên lĩnh vực chính
trị - đối ngoại
2.1.1. Mối quan hệ giữa lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Có lẽ khơng nhiều người được biết: Hờ Chí Minh và Chủ tịch CHDC Đức
Wilhelm Pieck, kể từ khi hoạt động chung ở Quốc tế Cộng sản, đã là hai người
bạn chiến đấu thân thiết của nhau.
Chính tình bạn, tình anh em sâu sắc giữa Chủ tịch Hờ Chí Minh và lãnh tụ
Wilhelm Pieck đã làm cho hai dân tộc Việt - Đức dù cách xa nhau hàng vạn dặm
đã sớm hiểu biết nhau, đoàn kết gắn bó cùng nhau trong cuộc chiến đấu lâu dài
vì lý tưởng chung. Trải qua những năm tháng hoạt động sôi nổi đầy gian khổ,
hai nhà cách mạng này đều trở thành chủ tịch đầu tiên của nhà nước công nông. CHDC Đức là một trong những nước đầu tiên công nhận nước Việt Nam
DCCH.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Wilhelm Pieck, một phong trào đoàn kết
ủng hộ Việt Nam đã được phát động và phát triển ngày càng sâu rộng từ những
năm đầu nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phong
trào đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả những thanh niên Đức hồi đó đang cầm
súng trong hàng ngũ lê dương của Pháp, họ đã chạy sang hàng ngũ những người
u nước Việt Nam, khơng ít người trở thành cán bộ tin cậy của quân đội ta.
Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Wilhelm Pieck, nhiều cán bộ y tế, văn hóa, báo
chí của Cộng hịa Dân chủ Đức đã sang giúp đỡ Việt Nam ngay sau ngày toàn
thắng ở Điện Biên Phủ.


20


Cũng chính thời điểm đó, Chủ tịch Wilhelm Pieck gửi thư cho Chủ tịch Hờ
Chí Minh với nhã ý sẵn sàng đón nhận một số thanh niên và thiếu niên Việt
Nam sang Đức học tập để sau này trở về góp phần xây dựng đất nước.
Năm 1949, từ núi rừng Việt Bắc, Chủ tịch Hờ Chí Minh đã gửi điện chúc
mừng sự ra đời của nhà nước công - nông đầu tiên trên đất Đức. Từ đó, hằng
năm, cứ đến dịp kỷ niệm quốc khánh và sinh nhật hoặc nhân một sự kiện trọng
đại nào đó, hai vị lãnh tụ lại gửi điện mừng cho nhau. Một trong những bức thư
đầy xúc động mà Chủ tịch Wilhelm Pieck đã gửi cho Chủ tịch Hờ Chí Minh là
nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của người. Bức thư có đoạn viết:
"Người bạn và người đồng chí thân yêu Hồ Chí Minh của tơi! Trong ngày
vẻ vang hơm nay, những ý nghĩ của tơi đều hướng về đồng chí, nhà lãnh đạo
trung thành, đầy hy sinh, bất khuất của tất cả những người lao động Việt Nam…
Tôi vẫn lấy làm thích thú mỗi lần nhớ lại các cuộc tiếp xúc trước đây của chúng
ta, những cuộc tiếp xúc bao giờ cũng được đánh dấu bằng tình hữu nghị sâu sắc
của nhân dân hai nước chúng ta, bằng cuộc đấu tranh nhằm gìn giữ và củng cố
hịa bình và bằng việc cải thiện sinh hoạt của nhân dân lao động hai nước
chúng ta". [Theo tại liệu do bà Winter Pieck – thư kí riêng, con gái của chủ tịch
Wilhelm Pieck cơng bố]
Mùa hè năm 1957, Chủ tịch Hờ Chí Minh đã đi thăm hữu nghị chính thức
các nước anh em, riêng ở Đông Đức là từ 25/7 đến 1/8. Ở thời điểm đó, Chủ tịch
Wilhelm Pieck mệt nặng, nên Chủ tịch Hờ Chí Minh rất lo lắng cho sức khỏe
của Chủ tịch. Cho nên, việc đầu tiên sau khi đặt chân tới Berlin là Người đến tận
nhà riêng ở Pankow để thăm "người anh u q" của mình. Dự buổi nói
chuyện đó có Thủ tướng Chính phủ Otto Grotewohl, Bí thư Thứ nhất Trung
ương Đảng Walter Ulbricht và một vài Cán bộ cao cấp nữa. Cuộc gặp gỡ thân
tình này chỉ kéo dài độ 30 phút và cũng không ngờ là cuộc gặp gỡ cuối cùng của
hai vị lãnh tụ.


21


Tháng 09/1960, giữa lúc Đảng Lao động đang tiến hành Đại hội III, Chủ
tịch Hờ Chí Minh được tin Chủ tịch Wilhelm Pieck qua đời. Người rất đau buồn,
đã đến viếng Chủ tịch tại Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội và nhờ Giáo sư
Kurt Hager, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Xã hội Chủ nghĩa thống nhất Đức
(SED) sang dự Đại hội Đảng ta, chuyển lời chia buồn sâu sắc tới toàn Đảng,
toàn dân CHDC Đức và gia quyến Chủ tịch Wilhelm Pieck.
Chún thăm của Chủ tịch Hờ Chí Minh năm 1957 là một trong hai chuyến
thăm chính thức của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam sang CHDC Đức.
Chuyên đi sau đó là chuyến thăm ngày 16/10/1975 của đờng chí Lê Duẩn - Bí
thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Trong
chuyến thăm này, đờng chí Lê Duẩn và người đờng cấp Honecker đã có cuộc hội
đàm và cam kết của CHDC Đức trong việc giúp đỡ Việt Nam sau chiến tranh về
khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cường hợp tác về khoa học công nghệ, y tế
và cơ sở hạ tầng.
Sau đó, tuy không có chuyến thăm giữa lãnh đạo hai nước nữa nhưng lãnh
đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam và CHDC Đức cũng có những chương trình
làm việc song phương tại Moskva theo lời mời tham dự Đại hội Đảng Cộng sản
Liên Xô lần thứ XV, XVI, XVII (1976, 1981, 1986).
2.1.2. Cộng đồng người Việt Nam ở Moritzburg, CHDC Đức
Cộng đờng Moritzburg hay cịn được gọi là Moritzburger là tên gọi khoảng
350 người Việt tại thị trấn Moritzburg, gần thành phố Dresden, Đông Đức. Họ
tới đây bằng đường xe lửa kéo dài 3 tuần qua Bắc Kinh, Moskva, Warszawa vào
năm 1955 theo thỏa thuận giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Dân
chủ Đức. Đây là những thiếu niên Việt Nam tuổi từ 9 đến 15. Họ đã ở lại tới
1959. Khoảng 150 người Moritzburger sau đó lại sang DDR học nghề rồi học
đại học. Cũng chính từ ngơi trường Moritzburg, nhiều thế hệ học sinh Việt Nam

đã học tập, trưởng thành và trở về xây dựng quê hương đất nước, như lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn.
22


Đây chính là thế hệ những người Việt đầu tiên tới, làm việc, học tập và sinh
sống tại nước Đức Xã hội Chủ nghĩa, là một trong những cầu nối đầu tiên xây
đắp mối quan hệ Việt Nam - Cộng hòa Dân chủ Đức.
2.1.3. Sự ủng hộ của CHDC Đức về mặt ngoại giao với Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trong chiến tranh
Trong suốt nhiều năm chiến tranh, từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, cho tới 2 cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, các nước Xã hộ
Chủ nghĩa Đông Âu – trong đó có CHDC Đức vẫn ln ủng hộ cho cuộc chiến
tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Không chỉ viện trợ của cái vật chất, cơ sở hạ
tầng kĩ thuật cho tới đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; trên trường quốc tế,
CHDC Đức vẫn luôn luôn ủng hộ Việt Nam về mặt ngoại giao – chính trị.
Tại Cộng hịa Dân chủ Đức, đã có nhiều cuộc tuần hành, mít tinh lớn của
nhân dân lao động; các phong trào văn nghệ quần chúng, các chương trình nghệ
thuật lớn… ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh Vệ quốc của
mình, ví dụ như các phong trào của công nhân xe lửa Berlin, của các nghệ sĩ
Đức như nhóm Oktoberklub…
Nhóm Oktoberklub là một ban nhạc tại Đông Đức, đã có nhiều bài hát về
Việt Nam gây tiếng vang lớn tại Đông Đức nói riêng, khối các nước Xã hội chủ
nghĩa và các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết nói chung: Sài Gon
Tự Do, Pháo Binh Việt Nam, Bài Ca Về Hờ Chí Minh, Bài Ca Chiến Thắng…
Đặc biệt, trong chương trình Festival Thanh Niên và Sinh Viên Quốc tế
năm 1973, tổ chức tại Đông Berlin, CHDC Đức (Weltfestspiele der Jugend und
Studenten: Berlin 1973, Hauptstadt der DDR), đoàn cán bộ và chiến sĩ Quân dội
Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam đã được nước
chủ nhà CHDC Đức vinh danh và có một cuộc diễu hành mừng chiến thắng

ngoại giao của Hội nghi Paris ngay trên đường phố Đông Berlin. Đây là một cơ
hội to lớn cho việc nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế với tư cách
23


×