Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Luận văn nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên bát xát, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRỊNH XUÂN CÔNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NGUỒN
TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG
MÃ SỐ: 8440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ THỊ XUYẾN
TS. NGUYỄN QUỐC BÌNH

Hà Nội, 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Để đảm bảo tính trung thực của luận văn tốt nghiệp, tôi xin cam đoan:
Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây

thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai ” là cơng trình nghiên


cứu của cá nhân tơi, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Đỗ Thị Xuyến,
Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên và TS. Nguyễn Quốc Bình, Bảo tàng Thiên
nhiên Việt Nam. Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc
công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu khoa học nào trƣớc đây.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018
Học viên

Trịnh Xuân Công


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đƣợc bản luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ và tạo
điều kiện của các thầy, cô thuộc bộ môn Khoa học Thực vật, Khoa Sinh học,
Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên; Phòng Sinh học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt
Nam; Khoa Sau đại học, Trƣờng Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, nhân dịp này, tơi
xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ q báu đó. Đặc biệt tơi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Thị Xuyến, TS. Nguyễn Quốc Bình, ngƣời đã dìu dắt tơi
những bƣớc đi đầu tiên trong con đƣờng nghiên cứu khoa học, cảm ơn sự giúp đỡ
của Ban giám đốc Khu BTTN Bát Xát, lãnh đạo, cán bộ các xã Sàng Ma Sáo, Dền
Sáng và Y Tý, huyện Bát Xát đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong q
trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, cho phép tơi bày tỏ lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trƣờng,
Khoa Sau đại học, các phịng ban, các thầy cơ trong khoa Quản lý bảo vệ tài nguyên
rừng và môi trƣờng, trƣờng Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt
thời gian để tôi thực hiện tốt đề tài này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ
tơi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhƣng chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu

sót, tơi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp của các thầy cơ, các nhà khoa
học và bạn bè đồng nghiệp để bản luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018
Học viên
Trịnh Xuân Công


iii

MỤC LỤC
Trang

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC HÌNH .......................................................................................vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................... viii
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................ 3
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nƣớc trên thế giới .......3
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam ................................8
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát
Xát, tình Lào cai [36] ............................................................................................13
1.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh
Lào Cai ..................................................................................................................14
1.4.1. Đặc điểm tự nhiên [36] .........................................................................14
1.4.2. Điều kiện kinh tế, xã hội [36] .................................................................17

Chƣơng 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ......................................................................................................... 21
2.1. Mục tiêu của đề tài .........................................................................................21
2.1.1. Mục tiêu chung .......................................................................................21
2.1.2. Mục tiêu cụ thể .......................................................................................21
2.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên ........................................................................21
2.2.1. Đối tượng ................................................................................................21
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................21
2.3. Nội dung nghiên cứu......................................................................................21
2.3.1. Thành phần lồi và đa dạng lồi ............................................................21
2.3.2. Tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh
Lào Cai .............................................................................................................22
2.3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc .......................................................................22
2.3.4. Các nguyên nhân, tác động gây suy giảm và đề xuất một số giải pháp
bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát,
tỉnh Lào Cai .....................................................................................................22
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................................22
2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến ...................................................................22


iv

2.4.2. Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA) .23
2.4.3. Phương pháp kế thừa và phương pháp chuyên gia ................................24
2.4.4. Xử lý số liệu ............................................................................................24
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 29
3.1. Thành phần loài và xây dựng danh lục các loài cây thuốc tại khu BTTN Bát
Xát, tỉnh Lào Cai ...................................................................................................29
3.2. Đánh giá về đa dạng các loài cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát,
tỉnh Lào Cai ..........................................................................................................29

3.2.1. Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây thuốc ...........................29
3.2.2. Đa dạng về dạng cây của các loài cây thuốc .........................................35
3.2.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu. ...37
3.2.4. Các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ .......................................39
3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 43
3.3.1. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận......................................43
3.3.2. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng.........46
3.3.3. Các nhóm bệnh được chữa trị bởi các loài cây thuốc ở Khu BTTN Bát
Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ......................................................................47
3.3.4. Một số bài thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc ở Khu BTTN Bát
Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ......................................................................48
3.4. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa
cho cộng đồng dân cƣ địa phƣơng ........................................................................63
3.4.1 Tình hình khai thác, sử dụng và thị trường nguồn dược liệu và các bài
thuốc dân gian ..................................................................................................63
3.4.2. Mối nguy cơ đối với tài nguyên tại khu vực nghiên cứu: .......................65
3.4.3 Các giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên cây thuốc và bài thuốc dân gian.
..........................................................................................................................66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 71
PHỤ LỤC


v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BQL: Ban quản lý
BTTN: Bảo tồn thiên nhiên
ĐDSH: Đa dạng sinh học

HST: Hệ sinh thái
SCN: Sau công nguyên
TCN: Trƣớc công nguyên
TNTN: Tài nguyên thiên nhiên
VQG: Vƣờn quốc gia
WHO: World Health Oganization


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu) .................................... 25
Bảng 3.1. Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc đƣợc đồng
bào ở Khu BTTN Bát Xát sử dụng ........................................................................... 30
Bảng 3.2. So sánh hệ cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát ................... 31
Bảng 3.3. Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín ............................................... 32
Bảng 3.4. Sự phân bố số lƣợng các loài cây thuốc trong các họ của các ngành thực
vật .............................................................................................................................. 33
Bảng 3.5. Thống kê các chi có nhiều lồi cây thuốc nhất ......................................... 35
Bảng 3.6. Dạng thân của các loài cây thuốc đƣợc đồng bào ở hai Khu BTTN Bát
Xát sử dụng ............................................................................................................... 35
Bảng 3.7. Thống kê các loài cây thuốc theo môi trƣờng sống .................................. 37
Bảng 3.8. Sự đa dạng trong các bộ phận đƣợc sử dụng làm thuốc ........................... 43
Bảng 3.9. Sự đa dạng về các nhóm chữa trị bệnh bằng cây thuốc ............................ 47
Bảng 3.10. Tổng hợp các bài thuốc thu thập đƣợc trong quá trình nghiên cứu ........ 49
Bảng 3.11. Thống kê thị trƣờng và tình trạng một số loại thảo dƣợc hiện có tại Khu
BTTN Bát Xát (thời điểm điều tra tháng 5 năm 2018) ............................................. 64


vii


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ hiện trạng rừng Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai ....................... 20
Hình 2.1. Sơ đồ các tuyến điều tra cây thuốc ............................................................ 28


viii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Các taxon của các ngành đƣợc đồng bào ở Khu BTTN Bát Xát sử
dụng làm thuốc .......................................................................................................... 30
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ các nhóm dạng sống của các lồi cây thuốc ở Khu BTTN Bát
Xát ............................................................................................................................. 36
Biểu đồ 3.3. Số lƣợng của các lồi cây thuốc phân bố theo mơi trƣờng sống ......... 38
Biểu đồ 3.4. Tỷ trọng sự phân bố số lƣợng các bộ phận sử dụng làm thuốc ............ 44


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng bị suy giảm một cách nhanh chóng làm mất đi mơi trƣờng sống
của nhiều lồi động thực vật,... mặt khác, có rất nhiều lồi cây cịn chƣa đƣợc biết
tên, chƣa phân tích đƣợc thành phần hố học, chƣa biết đƣợc cơng dụng của chúng.
Đây là một trong những vấn đề còn chứa đựng nhiều bí ẩn.
Việt Nam với diện tích hơn 330.000 km2, trong đó, đồi núi chiếm 4/5, khối núi
cao nhất là Hồng Liên Sơn, có đỉnh Fansipan cao tới 3143 m đƣợc coi là nóc là của
Đơng Dƣơng. Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên và khí hậu đã tạo ra sự đa dạng
cao về sinh học ở Việt Nam trong đó có tài nguyên thực vật làm thuốc.

Từ xa xƣa, ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dƣợc liệu quý báu từ tự nhiên
làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ việc lựa chọn các loài cây thuốc, phƣơng
pháp pha chế, phƣơng pháp sử dụng, các bệnh đƣợc chữa,... đều là những kinh
nghiệm lâu đời và đƣợc ghi chép cẩn thận, lƣu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là
những kinh nghiệm quý báu mà mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có. Ngày nay, các
phƣơng pháp chữa bệnh bằng các loại thảo dƣợc đang đƣợc tập trung nghiên cứu và
phát triển.
Cho đến năm 2012, nƣớc ta đƣợc ghi nhận có tới gần 4700 lồi thực vật
đƣợc sử dụng làm thuốc (Võ Văn Chi, 2012) [8], đây chắc hẳn chƣa phải là con
số đầy đủ nếu nhƣ không muốn nói là cịn ít so với những con số thực tế bởi vì
kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc là rất lớn, trong khi công tác điều tra,
nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài nguyên quí giá này của chúng ta vẫn
cịn có nhiều hạn chế.
Ngày 02/10/2017, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4240/QĐUBND về việc thành lập Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát. Bát Xát là
một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai với phần lớn dân số là các đồng bào dân tộc ít
ngƣời có cuộc sống phụ thuộc vào tài ngun rừng, trong đó có các lồi cây thuốc.
Thuộc khu bảo tồn, có 3 dân tộc thiểu số là H’Mơng, Dao, Hà Nhì sinh sống, đây
cũng là những dân tộc có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các


2
loài cây thuốc phục vụ cho chữa bệnh. Tuy nhiên, việc khai thác cây thuốc của đồng
bào dan tộc nơi đây thƣờng là khai thác không định hƣớng, điều này sẽ gây ra
những ảnh hƣởng tiêu cực đối với nguồn tài nguyên này cũng nhƣ tới công tác bảo
vệ phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên của Khu BTTN Bát Xát nói riêng và của cả
hụyện Bát Xát nói chung. Mặt khác, kinh nghiệm sử dụng các loài cây thuốc của
đồng bào dân tộc nơi đây hiện nay chủ yếu chỉ có ở ngƣời lớn tuổi, thƣờng họ chỉ
truyền lại cho con cái khi họ sắp qua đời, do đó những kinh nghiệm dân gian này
đang ngày càng bị mai một.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu

thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh
Lào Cai” nhằm mục đích làm cơ sở để sử dụng hợp lý tài ngun thực vật, góp
phần vào cơng cuộc bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng
nhƣ trong khu vực.


3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nƣớc trên thế giới
Trải qua nhiều thế kỷ, cây thuốc giữ vai trị quan trọng trong việc duy trì sức
khỏe và hạnh phúc của các cộng đồng ngƣời trên khắp thế giới. Các kinh nghiệm
dân gian về sử dụng cây thuốc chữa bệnh đƣợc nghiên cứu ở các mức độ khác nhau
tùy thuộc vào sự phát triển của từng quốc gia. Nhiều cơng trình khoa học nghiên
cứu cây thuốc của các nƣớc đƣợc sử dụng rộng rãi và có giá trị thực tiễn lớn.
Nói đến chữa bệnh bằng cây cỏ, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay tới Trung Quốc,
đất nƣớc có nền Đông Y lâu đời. Theo truyền thuyết của vua Thần Nông tức Viêm
Đế (3320-3080 trƣớc công nguyên - TCN) thì Thần Nơng đã nếm hàng trăm loại
cây cỏ, phân loại dƣợc tính của thảo mộc và soạn ra cuốn sách “Thần Nông bản
thảo”. Cuốn sách đã thống kê đƣợc 365 vị thuốc có giá trị [ghi theo 45].
Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hƣơng, Tử đinh hƣơng để
chế hƣơng nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ơng cịn
dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hƣơng chẩm) để điều trị
chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trƣớc Công
nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phƣơng” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa
bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc
trong tập “Bản thảo cƣơng mục”... [ghi theo 43]. Cho đến nay, Trung Quốc đã cho
ra đời khá nhiều cơng trình về sử dụng các lồi cây cỏ để chữa bệnh.
Khơng chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nƣớc khác cũng có những kinh nghiệm
chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền đƣợc hình thành cách đây

hơn 3000 năm. Chủ trƣơng của ngƣời Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị
bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thơng qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp
loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas đƣợc viết vào năm 1.500 TCN và cuốn
Charaka samhita đƣợc các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas,
trình bày cụ thể 350 lồi thảo dƣợc. Trong số đó, có cây cần ami (Ammi visnaga) là
lồi thảo mộc có nguồn gốc từ Trung Đông, gần đây đƣợc chứng minh là có hiệu


4
quả trong điều trị bệnh hen suyễn, cây rau má (Centella asiatica) từ lâu đƣợc sử
dụng để chữa bệnh phong, Đậu ba chẽ (Desmodium triangulare) sao vàng, sắc đặc
để chữa kiết lị và tiêu chảy. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo
dƣợc nhƣ tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học,
thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con
ngƣời. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng cơng nghệ cao trong trồng cây
thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dƣợc của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu
chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Từ thời cổ xƣa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadensis) để rửa vết thƣơng, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày
nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thơng qua sự kích
thích tổ chức hạt và tăng nhanh q trình biểu mơ hóa. Ngƣời cổ Hy Lạp đã sử dụng
rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thƣơng cho mau lành. [ghi theo 45]
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu đƣợc các
thầy tu sƣu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ơng lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là
cuốn dƣợc điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hƣớng dẫn đầu tiên dành
cho nhiều đối tƣợng sử dụng, ngƣời không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn đƣợc tham khảo và trích dẫn
rộng rãi. [ghi theo 43]

Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hồng đế La Mã Marcus Aurelius,
có ảnh hƣởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Galen
đƣợc Hippocratrs chỉ dẫn và đã đặt các giả thuyết chữa bệnh của mình trên cơ sở
khoa học thuyết bốn thể dịch (gồm bốn chất lỏng chính hay thể dịch tồn tại trong cơ
thể con ngƣời nhƣ: máu, dịch mật, u sầu và đàm). Những ý tƣởng của ơng có ảnh
hƣởng to lớn đến việc chữa bệnh trong 1400 năm sau. Tại Ấn Độ và Trung Quốc,
các phƣơng pháp trị bệnh tinh tế có phần tƣơng tự với học thuyết bốn thể dịch cũng
đã phát triển và tồn tại cho tới ngày nay. [ghi theo 43]


5
Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trị quan trọng đối
với sức khỏe của hàng triệu ngƣời. Tỷ lệ ngƣời làm nghề thuốc cổ truyền và các bác
sĩ đƣợc đào tạo ở các trƣờng Đại học có liên quan tới tồn bộ dân số của các nƣớc
châu Phi. Ƣớc tính số lƣợng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000
ngƣời, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 ngƣời. Tƣơng tự ở Malawi có
khoảng gần 20.000 ngƣời làm nghề thuốc cổ truyền nhƣng số lƣợng bác sĩ rất ít.
Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hƣởng lớn đến sức khỏe cộng
đồng. Từ lâu, ngƣời Haiiti thƣờng dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm
thuốc chữa những vết thƣơng bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét
lâu ngày không liền sẹo. Ở Pêru, ngƣời ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum
majus L.) để trị phổi và đƣờng tiết niệu.
Ở Philippin, ngƣời ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc
làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng
khỏi. Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau
khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nƣớc cột cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng,
ho gà. Ở Cămpuchia, Malaixia ngƣời ta dùng Hƣơng nhu tía (Ocimum sanctum),
trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét; nƣớc lá tƣơi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp
trị bệnh ngồi da, khớp.
Trong chƣơng trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực

Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài
cây này đã đƣợc các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 lồi có tính kháng
khuẩn [ghi theo 45]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách
Tài ngun các lồi cây thuốc ở Đơng Nam Á “Plant Resources of South-East Asia,
Medicinal and poisonous Plant (2001)” với gần 1000 loài cây [ghi theo 43].
Cùng với phƣơng thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có


6
mặt phổ biến trong thực vật nhƣ phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin… Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã đƣợc giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này đƣợc chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
đƣợc giải mã, ngƣời ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall
(1950) đã phân lập đƣợc chất Glucosid barbaloid từ cây Lơ hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở ngƣời và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các lồi vi khuẩn gây bệnh
tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
ngƣời ta đã chiết xuất đƣợc berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập đƣợc một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhƣng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp đƣợc chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thƣ, đƣợc chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
đƣợc chiết xuất từ cây Dƣơng địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin đƣợc chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu

nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác
dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985, có trên
20.000 lồi thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp đƣợc sử dụng trực
tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc (trong tổng số
250.000 lồi đã biết). Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 lồi, vùng
nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 lồi thực vật có hoa đƣợc dùng làm thuốc. Mức
độ sử dụng thuốc thảo dƣợc ngày càng cao [ghi theo 48].
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phƣơng pháp y
học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là
nƣớc đơng dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc
đã biết hiện nay có tới 80% số lồi (khoảng trên 4.000 lồi) là đƣợc sử dụng theo


7
kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nƣớc này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và
Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu đƣợc điều trị tại chỗ bằng thảo
dƣợc. Tỷ lệ dân số tin tƣởng vào hiệu quả sử dụng thảo dƣợc và các biện pháp chữa
bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu
Âu, Bắc Mỹ, và một số nƣớc khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung
hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phƣơng thuốc có
nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla. [ghi theo 45]
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con ngƣời trong việc chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng, nhƣng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực
vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và
gián tiếp của con ngƣời. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lƣu giữ thơng
tin có tới 30.000 lồi đƣợc coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác
nhau. Trong đó có nhiều lồi là cây thuốc q hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng

hạn nhƣ ở Bangladesh, một số cây thuốc quý nhƣ Tylophora indicia để chữa hen,
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trƣớc đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi.
Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh,
Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trƣờng Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục
nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy, một số bang ở Ấn
Độ đã đình chỉ khai thác lồi Ba gạc này [ghi theo 48].
Vào những năm 1960, Trung Quốc đã thiết lập đƣợc một hệ thống gồm “các
bác sĩ chân đất” nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của hàng triệu ngƣời dân
các vùng nơng thơn. Chính nhờ vậy, mà nền Y học Cổ Truyền Trung Quốc đƣợc
củng cố và phát triển mạnh với nhiều phƣơng thuốc chữa bệnh đƣợc ghi chép trong
nhiều tác phẩm. Trong cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã
liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh nhƣ: cây gấc (Momordica cochinchinensis) có
rễ chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt chữa trị sƣng tấy đau khớp, sốt rét, vết


8
thƣơng tụ máu; cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu
chân răng, bƣớu cổ.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lƣợng của các loài
cây thuốc trƣớc hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dƣợc liệu và do
môi trƣờng sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con ngƣời. Đặc biệt, ở
các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của
thế giới nhƣng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lƣơng
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại
rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ƣớc tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con ngƣời, sự phát triển của
xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với
Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh
nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại

thuốc mới cho tƣơng lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển
các loài cây thuốc cần đƣợc chú ý quan tâm. [ghi theo 45]
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Cũng nhƣ các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu
đời, nhiều phƣơng thuốc bào chế từ cây thuốc đƣợc áp dụng chữa bệnh trong dân
gian. Những kinh nghiệm này đã đƣợc ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và
lƣu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và
ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ƣớc tính, nƣớc ta có
khoảng 12.000 lồi thực vật bậc cao có mạch, 800 lồi rêu, 600 lồi nấm và hơn
2.000 lồi tảo. Có khoảng gần 4.000 lồi thực vật bậc cao dùng làm thuốc [48].
Ngoài sự phong phú về thành phần chủng loại, nguồn dƣợc liệu Việt Nam cịn
có giá trị to lớn ở chỗ chúng đƣợc sử dụng rộng rãi trong cộng đòng để chữa nhiều
chứng bệnh khác nhau. Cây thuốc đƣợc sử dụng dƣới hình thức độc vị hay phối hợp
với nhau tạo nên các bài thuốc cổ phƣơng, còn tồn tại và thịnh hành đến ngày nay.
Ngoài ra hàng trăm cây thuốc đã đƣợc khoa học Y dƣợc hiện đại chứng minh về giá
trị chữa bệnh của chúng. Nhiều loại thuốc đƣợc chiết xuất từ dƣợc liệu Việt Nam


9
nhƣ rutin, D strophantin, berberin, palmatin, artemisinin... đã đƣợc sử dụng rộng rãi
trong nƣớc và xuất khẩu. Xu hƣớng đi sâu nghiên cứu, xác minh các kinh nghiệm
của y học cổ truyền và tìm kiếm các hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao để
làm thuốc từ dƣợc liệu ngày càng đƣợc thế giới quan tâm.
Ngƣợc thời gian, ngay từ thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vƣơng (năm 240258 trƣớc Công nguyên) qua các văn tự hán nơm cịn sót lại, tổ tiên ta đã biết dùng
cây cỏ làm gia vị, kích thiết sự ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép lại,
vào đầu thế kỷ thứ 2 trƣớc Cơng ngun, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ nhƣ
Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), Hoắc hƣơng (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra bột
đao trong than cây Báng, quả Cọ, Móc có chất bổ ăn để chống đói; dùng Gừng ăn
với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và dễ tiêu hố, từ đó đã bắt nguồn tục dùng Gừng,
Hành, Tỏi,… làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh. [ghi theo 39].

Vào thế kỷ XVI, danh y Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) là ngƣời có cơng phát
triển nền y dƣợc học Việt Nam tới đỉnh cao. Cuốn sách thuốc đầu tiên của ông đƣợc
nhiều ngƣời biết đến là cuốn “Nam dƣợc thần hiệu” với 11 quyển, nói tới cơng dụng
của 496 vị thuốc Nam. Tác phẩm tiếp theo cũng gây đƣợc tiếng vang đó là “Hồng
nghĩa giác tứ y thƣ” với hai bài Hán Nơm, trong đó có tóm tắt cơng dụng của 130
lồi cây thuốc cùng cách chữa trị 37 chứng sốt khác nhau. Hai cuốn sách này đƣợc
xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam [ghi theo 49].
Đến thế kỷ 18, Hải Thƣợng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y
Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về các lồi thực vật,
các đặc tính chữa bệnh [ghi theo 49].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu
nhiều ảnh hƣởng của dƣợc học phƣơng Tây. Các phƣơng thức chữa bệnh mới đƣợc
mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình
nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng.
Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cƣơng Đông Dƣơng” của Lecomte (chủ biên)
xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật.
Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dƣơng” của C. Crévost và A. Pétélot


10
năm 1935 đã thống kê đƣợc 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc đƣợc dùng trong
y học của Đông Dƣơng [ghi theo 50]. Tuy nhiên, cuốn sách này chƣa hồn thiện về
mơ tả, phân bố, thành phần hóa học và dƣợc lý của các loại thảo mộc.
Trong thời gian 1962-1965, Đỗ Tất Lợi đã tổng hợp các cơng trình khoa học
đã công bố và các kết quả nghiên cứu của các nhân để biên soạn bộ sách “Các cây
thuốc và vị thuốc Việt Nam” gốm 6 tập. Năm 1995, tác giả bổ sung và hồn thiện
cơng trình nêu trên, trong đó giới thiệu hơn 800 lồi động vật và thực vật làm thuốc,
trong đó nhiều lồi thực vật đã đƣợc mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và
chế biến, thành phần hóa học, cơng dụng và liều dùng. Đây là bộ sách có giá trị lớn
về mặt khoa học, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại [32].

Cùng thời gian này, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về thành phần
lồi và cơng dụng của các cây thuốc ở nƣớc ta. Các cơng trình nghiên cứu lần lƣợt
đƣợc cơng bố phục vụ cho việc sử dụng và phát triển cây thuốc nhƣ :
+ Vũ Văn Chuyên (1966) cho công bố tập “Tóm tắt đặc điểm các họ cây
thuốc” (cuốn sách này đƣợc tái bản lần thứ hai vào năm 1976) [12].
+ Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” đã
giới thiệu đƣợc công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [22].
Theo số liệu điều tra của Viện Dƣợc liệu (2001), nƣớc ta có 3.800 lồi cây
thuốc. Dự đốn số lồi cây thuốc của Việt Nam nếu đƣợc nghiên cứu đầy đủ sẽ có
thể lên tới 6.000 loài. Nhƣ vậy, tiềm năng cây thuốc của nƣớc ta là rất dồi dào [48].
Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mơ tả
đƣợc 3.200 lồi cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 lồi thuộc 1.050 chi,
đƣợc xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan. Tác giả đã trình bày về
cách nhận biết, các bộ phận đƣợc sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học,
tính vị và tác dụng, cơng dụng của các loài thực vật, cốn sách này mới đây đƣợc tái
bản có bổ sung (năm 2012) với số lƣợng lồi cây thuốc lên tới 4700 loài [7, 8]. Đến
năm 1999-2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có
ích ở Việt Nam” (2 tập) mơ tả khoảng 6.000 lồi thực vật bậc cao có mạch với các
đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [10].


11
Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam,
Cambodia and Laos”, trong đó có 879 lồi cây thuốc đƣợc mơ tả [52]. Trần Đình Lý
(1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 lồi cây có ích”. Trong số các lồi
thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 lồi cho nhựa thơm, 160 lồi có
tinh dầu, 260 lồi cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 lồi cây gỗ có giá trị cao, 400
loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều lồi có
cơng dụng làm thuốc. [ghi theo 45]...
Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây

thuốc ở Việt Nam nhƣ Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã cơng bố bộ
sách “Danh lục các lồi thực vật Việt Nam” [2] [44]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ
các thông tin về tên khoa học, tên thƣờng gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và cơng dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần lồi cây thuốc nói riêng.
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có
giá trị của Viện Dƣợc liệu (Bộ Y tế) là:
+ Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chƣơng (1980) với “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”
đã giới thiệu 159 loài cây thuốc.
+ Tập thể các tác giả Viện Dƣợc Liệu (1993) cho ra đời cuốn “Tài nguyên Cây
thuốc Việt nam” với khoảng 300 loài cây thuốc đang đƣợc khai thác và sử dụng ở
các mức độ khác nhau trong toàn quốc [46]; đến năm 1994 xuất bản cuốn “Dƣợc
điển Việt Nam, 2 tập”; năm 2001 với “Selected medicinal plants in Vietnam”; năm
2004 với “Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” [ghi theo 46, 47, 48].
Trong những năm qua, nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tƣ cho
cơng tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ
cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm
nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chƣơng trình
điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dƣợc liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm
vi toàn quốc. Theo điều tra, cho đến năm 2004 ở nƣớc ta có khoảng 3.948 loài cây
thuốc đƣợc ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao


12
gồm cả nấm. Kết quả điều tra còn ghi nhận đƣợc các kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của cộng đồng dân tộc ở các địa phƣơng trong cả nƣớc. Bên cạnh đó, các nhà
khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây nhƣ các dự án:

+ Bảo vệ nguồn tài ngun cây có ích ở VQG Tam Đảo (1997-2000) do trung
tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc cổ truyền (CREDEP), tổ chức các Vƣờn
thực vật Quốc tế (ICBG) và VQG Tam Đảo thực hiện. Đã tiến hành kiểm kê cây
thuốc, xác định mức độ bảo tồn, phân bố và điều kiện sinh thái của cây thuốc ở
VQG Tam Đảo. Kết quả là đã xác định đƣợc 361 lồi cây thuốc trong đó có 25 loài
ƣu tiên bảo tồn. Dự án cũng đã nghiên cứu phƣơng pháp nhân giống bằng hom của
11 loài cây thuốc.
+ Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus
cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả
Lƣu Đàm Cƣ và cộng sự (năm 2002).
+ Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số cơng trình của các tác giả nhƣ Nguyễn
Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) về “Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con
Cuông, tỉnh Nghệ An” [43]; Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý (2009) với
“Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN
Hang Kia – Pà Cị, tỉnh Hồ Bình” [24]; Thành Cơng và Huỳnh Phụng Ái (2010)
với “Những bài thuốc dân gian thường dùng”, trong cơng trình này, tác giả đã giới
thiệu đƣợc gần 1000 bài thuốc theo kinh nghiệm đơn giản áp dụng cho nhiều chứng
bệnh với nhiều ảnh màu minh họa [13]; mới đây là cơng trình của Lê Thị Thanh
Hƣơng (2015) đã nghiên cứu tính đa dạng nguồn cây thuốc đƣợc sử dụng trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên nhằm bảo tồn và phát triển bền
vững, trong cơng trình này, tác giả đã cơng bố trong cộng đồng các dân tộc Tày,
Nùng, Sán dìu, Sán chay, Dao tại 23 xã của 7 huyện trên địa bản tỉnh Thái Nguyên


13
đã xác định đƣợc 745 loài cây thuốc thuộc 445 chi, 145 họ của 5 ngành thực vật bậc
cao có mạch. Kết quả điều tra sử dụng của các dân tộc cho thấy dân tộc Tày sử dụng
323 loài, dân tộc Nùng sử dụng 111 lồi, dân tộc Sán dìu sử dụng 128 loài, dân tộc
Sán chay sử dụng 312 loài, dân tộc Dao sử dụng 297 loài cây để chữa bệnh [27].
1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện

Bát Xát, tình Lào cai [36]
Trƣớc đây, Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cũng nhƣ nhiều
Khu BTTN thuộc vùng núi khác, việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho
ngƣời dân cịn rất hạn chế và khó khăn. Ngƣời dân tự tìm hiểu và tìm ra đƣợc nhiều
lồi cây rừng có tác dụng chữa bệnh. Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những
loài cây để chữa bệnh đã đƣợc ngƣời dân địa phƣơng giữ gìn và lƣu truyền lại qua
nhiều đời, nhiều thế hệ sau. Về sau, một phần nhỏ ngƣời dân, chủ yếu là các bà mế,
ông lang ở đây đã đƣa một số loài cây thuốc về trồng trong vƣờn nhà. Tuy nhiên đó
chỉ là số lƣợng nhỏ, một số lồi khơng thể trồng đƣợc nên họ vẫn khai thác nguồn
tài nguyên cây thuốc trong rừng để chữa bệnh, trao đổi mua bán.
Xét về các công trình nghiên cứu về thực vật, ở Khu BTTN Bát Xát cho đến
nay, chỉ mới có một cơng trình nghiên cứu hiện trạng tài nguyên sinh vật do các nhà
nghiên cứu nhằm xây dựng quy hoạch và thành lập Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào
Cai năm 2016.
Cơng trình bƣớc đầu ghi nhận đƣợc 940 thực vật bậc cao có mạch thuộc 550
chi và 156 họ thuộc 6 ngành thực vật. Nhƣ vậy, trong tổng số 7 ngành thực vật đƣợc
xác định phân bố ở Việt Nam, thì Khu đề xuất BTTN Bát Xát đã ghi nhận đƣợc 6
ngành, chiếm 85,71% về số ngành, trong đó ngành có số lƣợng cá thể đóng vai trị chủ
đạo trong cấu trúc hệ thống thực vật Bát Xát thuộc về ngành Mộc lan - Magnoliophyta
851 loài chiếm 90,53% tổng số loài ghi nhận đƣợc, kế tiếp là ngành Dƣơng xỉ Polypodiophyta 71 loài chiếm 7,55%, ngành Thơng đất – Lycopodiophyta 11 lồi
chiếm 1,17%, ngành Thơng – Pilophyta 5 lồi chiếm 0,53%, các ngành có 01 loài
gồm ngành Cỏ tháp bút – Equisetophyta, Khuyết lá thông - Psilotophyta. Hệ thực


14
vật Bát Xát không chỉ đa dạng về thành phần loài, mà thành phần họ thực vật cũng
rất phong phú với 156 họ, đem so sánh với số họ thực vật Việt Nam thì Bát Xát
chiếm tới 41,27% (hệ thực vật Việt Nam có 378 họ). [36]
Bên cạnh giá trị đa dạng về thành phần lồi, hiếm có khu hệ thực vật ở nơi
khác có đƣợc là sự xuất hiện quần thể trên 30 cá thể Thiết sam – Tsuga dumosa

(D.Don) Eichler với đƣờng kính ngang ngực trên dƣới 1 mét, ở độ cao từ 18001900m tại tiểu khu 62 thuộc xã Dền Sáng. Ngồi ra, cịn phát hiện các loài Đỗ
quyên mộc hoa trắng - Rhododendron arboreum Sm. ssp. delavayi, Đỗ quyên mộc
hoa đỏ - Rhododendron arboreum ssp. cinnamomeum với các cá thể có đƣờng kính
từ 30-60cm mọc phổ biến trong kiểu rừng kín lá rộng thƣờng xanh á nhiệt đới. [36]
Nhƣ vậy, cho đến nay vẫn chƣa có một cơng trình nghiên cứu nào về vấn đề
cây thuốc và vị thuốc của đồng bào các dân tộc tại Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai đƣợc xuất bản, bên cạnh đó các dự án về bảo tồn các lồi cây
thuốc hiện có trong nguồn gen thực vật của các xã thuộc Khu BTTN Bát Xát vẫn
chƣa đƣợc đặc biệt quan tâm nghiên cứu.
1.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh
Lào Cai
1.4.1. Đặc điểm tự nhiên [36]
a. Vị trí, địa hình tự nhiên
Khu BTTN Bát Xát có diện tích 18.637 ha, nằm về phía Tây Bắc của huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai, thuộc phần đầu của dãy núi Hồng Liên Sơn, trên địa giới
hành chính của 5 xã: Y Tý, Dền Sáng, Sàng Mao Sáo, Trung Lèng Hồ và Nậm Pung
thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Diện tích rừng là 15.285,05 ha, diện tích đất
trống là 3.352 ha; bao gồm 20 tiểu khu: 65, 66, 69, 73, 81, 80, 88, 94, 100, 104,
106, 108, 113, 115, 117, 120, 121, 107, 118. Trong đó:
+ Diện tích đất rừng của xã Y Tý: 2.631 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Dền Sáng: 1.120,26 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Sàng Ma Sáo: 3.201 ha;
+ Diện tích đất rừng của xã Trung Lèng Hồ: 11.138,74 ha;


15
+ Diện tích đất rừng của xã Nậm Pung: 546 ha.
- Có tọa độ địa lý:
+ Từ 22 o 23' đến 22 o 37' vĩ độ Bắc;
+ Từ 103 o 31' đến 103 o 43' kinh độ Đơng.

- Phía Đơng giáp phần đất còn lại của xã Trung Lèng Hồ, Sàng Ma Sáo, Dền
Sáng, Nậm Pung và xã Mƣờng Hum (thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai).
- Phía Tây giáp xã Sín Súi Hồ (huyện Phong Thổ, Lai Châu), xã Hầu Thầu,
Tả Lèng (huyện Tam Đƣờng, tỉnh Lai Châu) và Trung Quốc.
- Phía Nam giáp xã Bình Lƣ (huyện Tam Đƣờng, tỉnh Lai Châu).
- Phía Bắc giáp phần đất cịn lại của xã Y Tý (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai)
b. Địa hình địa mạo
Địa hình Khu BTTN Bát Xát tƣơng đối phức tạp, đƣợc kiến tạo bởi nhiều dải
núi cao, chia cắt mạnh, độ dốc lớn (trung bình từ 20-250), có hƣớng thấp dần về
phía Đơng Nam. Điểm cao nhất có độ cao 3.059 m thuộc xã Trung Lèng Hồ, trên
ranh giới giữa hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu, điểm thấp nhất có độ cao 700 m, độ
cao trung bình từ 1.200-1.800 m. Trong KBT có 03 kiểu địa hình chính, nhƣ sau:
- Kiểu địa hình núi cao (N1): Có diện tích 15.207,8 ha (chiếm 81,6% tổng
diện tích khu KBT), phân bố ở độ cao trên 1.700 m, và về phía Tây nam của địa
hình bị chia cắt mạnh, có nhiều đỉnh cao với sƣờn dốc đứng. Đây là khu vực có diện
tích rừng tự nhiên khá tập trung, có hệ động thực vật phong phú, đa dạng, đặc trƣng
cho vùng có hệ sinh thái á nhiệt đới núi cao của miền Bắc Việt Nam.
- Kiểu địa hình núi cao trung bình (N2): Có diện tích 2.646,4 ha (chiếm
14,2% tổng diện tích tự nhiên KBT), phân bố ở độ cao từ 700m-1.700m và tập
trung ở phThân, lá

Cây tƣơi nhai nuốt lấy
nƣớc, bã đắp vào vết
thƣơng. Dùng riêng

T

2,3

G


1,2

B

1,2

T

3,6

B

3,6

B

3,6

301. Scoparia dulcis L.

Cam thảo đất

302. Torenia concolor Lindl.

Tô liên cùng màu

Lợi sữa

Torenia violacea (Azaola ex Tơ liên tím; Tài lai mía

Rắn độc cắn
303.
Blanco) Pennell
(Mía = cỏ (D)

(Mill.)

68. Solanaceae

Càng hon cao
Khổ sâm mềm

Cà hoa lông; Ca (HM)

307. Solanum incanum L.

Cà gai; Ca (HM)

308.

Ỉa chảy, Ghẻ lở, mụn
nhọt, mẩn ngứa
Mụn nhọt, quai bị

Vỏ, lá


Nấu nƣớc uống hay tắm.
Dùng riêng
Giã tƣơi, đắp. Dùng riêng


Họ Cà

306. Solanum erianthum D. Don

Solanum sp.

thân

Họ Thanh thất

67. Simaroubaceae
Ailanthus altissima
Swingle
305. Brucea mollis Wall.

MTS

BPD

Cảm cúm, sốt, ho khan,
ho có đờm, mụn nhọt,
lở ngứa, eczema.

304.

Dạng

CD


Cảm, sốt, hô hấp, thận,
mụn nhọt
Viêm thận, thấp khớp,
đậu lào

Cà dại (loại hoa trắng);
Nị quề (qyềa) gím (cây Mụn nhọt, quai bị
gai quả nhọn) (D)

Thân
Cả cây



Nấu nƣớc uống. Dùng
riêng
Phơi khô, sắc uống, dùng
riêng
Lá tƣơi, giã nhỏ, đắp. Phối
hợp với dây đau xƣơng


TT

Tên Việt Nam
(thƣờng dùng)/
Tên dân tộc (nếu có)

Tên khoa học


Trơm thon; Chiêu quyên
Sƣng khớp, đau nhức
đẻng (cây bất nhức đạo)
đỏ tấy ở khớp
(D)

309. Sterculia lanceolata Cav.

(Pierre)

Symplocos nubium Guillaum. =
311.
Symplocos congesta Benth.
312. Symplocos poilanei Guillaum.
Symplocos sumuntia
Ham. ex D. Don
72. Theaceae
314. Camellia caudata Wall.



Dùng tƣơi, giã nát, đắp. Phối
hợp với Gừng tía, Tơm gằm
háo (một lồi chƣa biết tên
thuộc họ Acanthaceae)

G

2,3


Nhựa

Uống pha với mật ong
rừng. Dùng riêng hay phối
hợp với Thông đá, Kim
đầu te, Cỏ sữa lá lớn, Hoa
bông, Lá dƣơng đỏ

G

1,2

G

1,2

G

1,2

G

1,2

B

1,2

thân


Bồ đề trắng

Hen, suyễn khó thở, ho

Họ Dung

71. Symplocaceae

313.

MTS

Cách dùng

Họ Bồ đề

70. Styracaceae

Styrax tonkinensis
Craib ex Hardw.

Dạng

BPD

Họ Trơm

69. Sterculiaceae

310.


CD

Buch.-

Nhóc; Dung

Dung đen

Dung lụa

Mát gan, viêm
dàng da do gan,
tiêu hóa, táo bón
Mát gan, viêm
dàng da do gan,
tiêu hóa, táo bón

gan,
khó



gan,
khó



Mát gan, kích thích tiêu
hóa




Tiêu hóa tốt



Phơi khơ, nấu nƣớc uống
nhƣ chè, cịn gọi là chè lá
Dung. Dùng riêng
Phơi khơ, nấu nƣớc uống
nhƣ chè, cịn gọi là chè lá
Dung. Dùng riêng
Phơi khô, nấu nƣớc uống
nhƣ chè, cịn gọi là chè lá
Dung. Dùng riêng

Họ Chè
Trà đi

Nấu nƣớc uống nhƣ chè.
Dùng riêng


×