Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỀ-CƯƠNG-ÔN-TẬP-LỊCH-SỬ-ĐẢNG-CỘNG-SẢN-VIỆT-NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.04 KB, 20 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM-ĐHL
Câu 1: Trình bày những nhiệm vụ cách mạng được đề ra trong Cương lĩnh
của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo và nhận xét đánh gía về kết quả thực
hiện nhiệm vụ nam nữ bình quyền trong hoạt động lãnh đạo quản lý các cơ
quan hay Toà án, VKS, cơ quan tư pháp ở Việt Nam.
*Cương lĩnh xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam:
- Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai,
làm cho nước Việt Nam hoàn tồn độc lập, lập ra chính phủ cơng nơng
binh và tổ chức quân đội công nông.
- Về kinh tế:
+ Tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ cơng nơng
binh quản lý: bệnh viện, trường học, trạm xá…
+ Tịch thu ruộng đất của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo mở
mang công nghiệp – nông nghiệp miễn thuế cho dân cày nghèo thực hiện
ngày làm 8h.
- Về văn hoá: Thực hiện nam nữ bình quyền và phổ thơng giáo dục cơng
nơng hố.
*Nhận xét đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ nam nữ bình quyền trong
hoạt động lãnh đạo quản lý các cơ quan hay Toà án, VKS, cơ quan tư pháp ở
Việt Nam:
Quan đim về “nam nữ bình quyền” đã được khẳng định trong Cương lĩnh của
Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Tuy nhiên, có thể thấy vấn đề “nam nữ
bình quyền” trong lĩnh vực chính trị ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Trong báo
cáo sơ kết thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính
Trị về tăng cường cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đến năm 2020 đã cho thấy,
các chức danh lãnh đạo chủ chốt trong Đảng, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân
dân từ cấp trung ương đến địa phương chủ yếu do nam giới đảm nhiệm. Trong
đội ngũ lãnh đạo, phụ nữ thường chỉ giữ vai trị cấp phó. Điều đó đã dẫn đến
hạn chế quyền quyết định của nữ giới trong lĩnh vực chính trị. Nghị quyết số 11NQ/TW đưa ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp và nữ đại biểu Quốc hội đạt 35-40%. Tuy nhiên trên thực tế, tỷ lệ


đó còn rất hạn chế: tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 26,72%; tỷ lệ nữ đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,54%; tỷ lệ nữ chủ
tịch Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp dao động trong khoảng 6%. Tỷ lệ nữ giới giữ
chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh, huyện khoảng 20%. Tỷ lệ
này ở cấp xã thấp hơn (khoảng 14%). Mặc dù tỷ lệ phụ nữ là chủ tịch/phó chủ


tịch các cơ quan dân cử có xu hướng tăng lên nhưng khơng mang tính ổn định
và chưa tương xứng với tỷ lệ nữ giới. Có thể thấy việc thực hiện nhiệm vụ “nam
nữ bình quyền” ở Việt Nam nói chung và trong các lĩnh vực chính trị nói riêng
vẫn cịn nhiều hạn chế và thiếu sót trong các chính sách hay việc bổ nhiệm lãnh
đạo giữa nam và nữ vẫn còn thiếu thống nhất, chưa rõ ràng, còn mang tính trung
lập về giới, chưa có biện pháp hành chính hiệu quả để khuyến khích và hỗ trợ
việc thực hiện các chỉ tiêu về đại diện nữ. Về nguyên tắc ln chuyển cán bộ,
khơng có sự phân biệt giữa cán bộ nam và cán bộ nữ khi thực hiện luân chuyển,
nhưng cịn chưa tính đến sự khác biệt giới; chưa đề cập tới chính sách cho cán
bộ nữ khi được ln chuyển; khơng có quy định về tỷ lệ cán bộ nữ được luân
chuyển. Vẫn còn một số hạn chế trong các văn bản hướng dẫn về bổ nhiệm cán
bộ: chưa đưa ra các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới khi không quy định lựa
chọn ứng cử viên nữ trong trường hợp cả nam và nữ có điều kiện, tiêu chuẩn
như nhau; chưa xác định các giải pháp cụ thể để có thể đạt chỉ tiêu tỷ lệ cán bộ
nữ đã đề ra.
Câu 2: Phân tích những nguyên nhân hai cuộc đại chiến thế giới lần 1 và 2?
Hậu quả của chiến tranh đối với nhân loại. Từ đó đánh giá về đường lối đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi đất nước thống nhất đến nay.
*Nguyên nhân chiến tranh thế giới lầ thứ nhất:
- Nguyên nhân sâu xa:
+ Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sự phát triển không đồng đều giữa
cã nước tư bản về kinh tế chính trị đã làm thay đổi sâu sắc so sánh lực
lượng giữa các nước đế quốc.

+ Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa đã dẫn đến các
cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên:
• Mĩ – Tây Ban Nha năm 1898
• Anh – Bơ ơ năm 1899 – 1902
• Nga – Nhật năm 1904 – 1905
+ Để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh lớn nhất nhằm tranh giành thị
trường thuộc địa, các nước đế quốc đã thành lập hai khối quân sự đối lập nhau:
• Khối Liên minh gồm Đức, Áo – Hung vào năm 1882
• Khối Hiệp ước gồm Anh, Pháp, Nga vào năm 1907
 Cả hai khối đều ra sức chạy đua vũ trang nhằm tranh giành nhau làm
bá chủ thế giới.
 Như vậy, nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh thế giớ thứ nhất
( 1914 – 1918) là do mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề
thuộc địa.


-

-

-

Nguyên nhân trực tiếp: Ngày 28/6/1914 thái tử Áo – Hung bị một phần tử
người Xéc – bi ám sát. Sự kiện này châm ngòi cho cuộc chiến tranh.
Hậu quả của cuộc chiến tranh :
+ Chiến tranh thế giới thứ nhất gây nên những tổn thất to lớn về người và
của: 10 triệu người chết, hơn 20 triệu người bị thương, nhiều thành phố
làng mạc, nhà cửa, nhiều cơng trình văn hố bị phá huỷ trong chiến tranh,
…chi phí lên tới 85 tỷ đô la.
+ Chiến tranh chỉ đem lại lợi ích cho các nước đế quốc thắng trận, nhất là

Mĩ, bản đồ thế giới bị chia lại. Đức mất hết toàn bộ thuộc địa, Anh, Pháp,
Mĩ được thêm nhiều thuộc địa.
*Nguyên nhân chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Nguyên nhân sâu xa:
+ Do sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các nước tư bản, dẫn đến
những mâu thuẫn về thuộc địa, thị trường.
+ Việc tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Vecxai – oasinhton
khơng cịn phù hơjp nữa. Đưa đến một cuộc chiến tranh mới để phân chia
lại thế giới.
Nguyên nhân trực tiếp:

+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm những mâu thuẫn
trở nên sâu sắc dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít với ý đồ gây
chiến tranh để phân chia lại thế giới.

+ Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, Nhật Bản Italia. Nhưng các cường
quốc phương Tây lại dung túng, nhượng bộ, tạo điều kiện cho phát xít gây ra
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
-

Hậu quả của chiến tranh thế giới thứ 2:

+ Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự sụp đổ hồn tồn của phát xít
Đức, I-ta-li-a, Nhật.
+ Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường chiến đấu
chống chủ nghĩa phát xít.
+ Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trị quyết định trong việc
tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.



+ Hơn 70 quốc gia với 1700 triệu người đã bị lơi cuốn vào vịng chiến,
khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế, thiệt hại vật chất 4000
tỉ đô-la.
+ Chiến tranh kết thúc đã dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình thế
giới.
*Đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng từ khi đất nước thống nhất đến nay:
Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tích to lớn, đưa đến nhiều sự thay đổi về tiềm lực của đất nước.
Trong đó, chính sách trong đường lối đối ngoại của Đảng cũng đã đạt được
nhiều điểm tiến bộ, nổi bật đáng kể. Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu
nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững
môi trường hịa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển đất nước. Đảng ta xác
định đây là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016 – 2020; đồng thời là sự thể hiện nhận thức, đánh giá của Đảng ta về
vai trị to lớn của cơng tác đối ngoại trong tình hình mới. Việt Nam đang bước
vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và kinh nghiệm 30 năm
đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, cơ hội rất
lớn và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua
các kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ
thống với tầm cao mới. Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng,
trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt
được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững mơi trường hồ bình và phát huy ngoại
lực sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đạt
được thắng lợi với mục tiêu từ lâu mà ta đã đặt ra “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh.”

Câu 3: Trình bày quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng chống tham
những trong thơi kì hội nhập quốc tế. hãy cho biết có hiện tượng tham
những trong hệ thống cơ quan tư pháp khơng? Vì sao? Làm ntn để ngăn
chặn nạn tham nhũng ngày càng tốt hơn.

Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, địi hỏi có sự lãnh đạo
toàn diện và tuyệt đối của Đảng, quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật phòng,
chống tham nhũng chủ yếu dựa trên các quan điểm lớn đã được chỉ ra tại Nghị


quyết số 14-NQ/TW ngày 15-5-1996 và trong một số văn kiện khác của Đảng
như sau:
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đồn kết
tồn dân;
- Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn, tăng cường đoàn kết nội bộ;
- Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí;
- Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây, phịng và chống. Vừa tích
cực phịng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng;
- Đẩy mạnh phòng và chống tham nhũng một cách chủ động, huy động và phối
hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện chống tham
nhũng ở mọi cấp, mọi ngành;
- Đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm vụ lâu dài, phải tiến hành kiên quyết,
kiên trì và thận trọng, khơng nóng vội, khơng chủ quan; phải có kế hoạch cụ thể,
có bước đi vững chắc; sử dụng nhiều biện pháp, trong đó lấy giáo dục làm cơ
sở, lấy pháp chế làm đảm bảo.
- Thống nhất với quan điểm các kỳ Đại hội trước đó, Đại hội XII tiếp tục khẳng
định và bổ sung quan điểm về đấu tranh phòng chống tham nhũng. Trong đó
nhấn mạnh “tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng với biểu hiện
ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin
của nhân dân với Đảng và Nhà nước”:
- Trước hết, cơ chế bầu cử, bổ nhiệm những đại biểu ưu tú của dân vào vị trí
lãnh đạo, quản lý còn nhiều bất cập. Cơ chế phát hiện và thải loại những người
khơng có đủ phẩm chất ra khỏi bộ máy chưa hiệu quả, bởi vì việc thực thi cịn

hình thức, thiếu thực chất; bởi vì ứng cử viên đã được sắp đặt, nhắm trước, thậm
chí do ê kíp, ơ dù mà được cất nhắc chứ chưa phải do tài năng và phẩm hạnh.
- Hai là, cơ chế kiểm tra, giám sát, bãi miễn những người có chức, có quyền khi
vi phạm cũng cịn nhiều bất cập. Ở nhiều nơi, việc xử lý cán bộ, đảng viên có
sai phạm còn chậm. Đa số các sai phạm là do quần chúng phát hiện, tố cáo mà
chưa phải do cán bộ, đảng viên, cấp trên phát hiện cấp dưới sai phạm...


- Ba là, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo
đảm cho Đảng vững mạnh, nhưng phương thức tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách bên cạnh mặt tích cực là huy động được trí tuệ, sức mạnh tập thể và chống
được sự độc đốn, chun quyền thì tình trạng khó quy trách nhiệm cá nhân, khi
có khuyết điểm khơng biết quy trách nhiệm cho ai, dẫn tới tình trạng tranh cơng,
đổ lỗi “cơng là của tơi, tội là của chúng ta”...
 Có tham nhũng trong hệ thống cơ quan tư pháp ví dụ như: Tham nhũng trong
hoạt động tư pháp thì xuất hiện hầu hết ở các giai đoạn tố tụng, trong xử lý các
vụ việc, vụ án như chuyển đơn lòng vịng, khơng giải quyết dứt điểm và gây nên
sự phức tạp kéo dài, ra quyết định thì khơng có căn cứ…
 Vì sao tham nhũng vẫn xảy ra ở các cơ quan này? do khơng có cơ chế quản lý
chặt chẽ, quyền lực nhà nước đã bị lợi dụng trở thành quyền lực của cá nhân,
hoặc của một nhóm người. Do cơ chế quản lý yếu kém mà tài sản của Nhà
nước, của nhân dân rơi vào tình trạng “vơ chủ”, những cán bộ thối hóa, biến
chất đã lợi dụng quyền lực trong tay để chiếm tài sản công thành tài sản riêng
của cá nhân hoặc của một nhóm người. Tha hóa về quyền lực nhà nước, và vơ
chủ về sở hữu tài sản công là những nhân tố tác động trực tiếp làm cho sự tham
nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên càng trở nên nghiêm trọng,
địi hỏi cần có biện pháp quyết liệt, hiệu quả hơn.
 Làm sao để ngan chặn nạn tham nhũng ngày càng tốt hơn:
- Một là, hoàn thiện thể chế, các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp tới
quyền sở hữu tài sản công, theo tinh thần “đảm bảo mọi tư liệu sản xuất đều có

chủ sở hữu”. Triển khai đồng bộ Luật phòng chống tham nhũng, luật thực hành
tiết kiệm chống lãng phí kết hợp chặt chẽ với việc xử lý kiên quyết, kịp thời,
công khai những người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã
nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người
bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng.
- Hai là, thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các
cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước.
Cơng khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản,
mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và
sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện kê
khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định. Xây
dựng chế tài xử lý những tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng phí lớn tài sản


của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra,
giám sát của các cơ quan chức năng kết hợp với việc có cơ chế khuyến khích và
bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kiên quyết
đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thối hóa biến chất, vi phạm lối sống, đạo
đức.
- Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ
quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí với kiên quyết đấu tranh với tệ nạn bè
cánh, ơ dù, góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
- Bốn là, công tác tuyển chọn, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ phải đảm bảo
nguyên tắc cán bộ phải là người có đức, có tài, “lấy hiệu quả cơng tác và sự tín
nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu”; vì cơng việc mà bố trícán bộ chứ
khơng phải vì cán bộ mà bố trí cơng việc, tránh tình trạng nể nang, tiêu cực
trong công tác cán bộ.
Câu 3:
Quan điểm nhất quán trong đấu tranh phòng chống tham nhũng:

Từ trước đến nay, Đảng đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết để lãnh
đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng.


Nghị quyết số 14/NQ/TW ngày 15/5/1996 về quan điểm chỉ đạo và một số
giải pháp để đấu tranh chống tham nhũng của Bộ chính trị khóa VII đã chỉ
rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay,
nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng cường hiệu lực quản
lý của Nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Vì vậy, trong thời gian
sắp tới, nhất thiết phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tham
nhũng. Trong đấu tranh chống tham nhũng, cần nắm vững những quan điểm
sau:
-

Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới
kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.




-

Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nước, tăng
cường đoàn kết nội bộ trong đấu tranh chống tham nhũng kết hợp giữa
“xây” và “chống”, tích cực chủ động phịng ngừa. Vừa phải hồn thiện

cơ chế, chính sách, tăng cường giáo dục, quản lý chặt chẽ Đảng viên,
cán bộ, công chức, kiện tồn tổ chức, bố trí đúng cán bộ, vừa xử lý
nghiêm mọi vi phạm, tội phạm. Kết hợp các biện pháp tư tưởng với tổ
chức, giáo dục với kỷ luật hành chính và xử lý theo pháp luật.

-

Huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham
nhũng. Xác định trách nhiệm của các tổ chức Đảng và thủ trưởng
chính quyền; xây dựng, kiện tồn các cơ quan bảo vệ pháp luật làm
nòng cốt; nêu cao trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, động
viên tích cực của nhân dân, phát huy vai trị của các phương tiện thông
tin đại chúng trong đấu tranh chống tham nhũng.

-

Đấu tranh chống tham nhũng là hai nhiệm vụ lâu dài phải tiến hành
kiên quyết, kiên trì và thận trọng; khơng được đơn giản, nóng vội,
đồng thời phải khẩn trương, tích cực; chú trọng hiệu quả có kế hoạch
cụ thể, bước đi thích hợp.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết số 04/NQTW ngày 21/8/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đề cập một cách tồn diện, tập trung về cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.

- Đảng lãnh đạo chặt chẽ cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí; phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của tồn dân; thực hiện
đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự.

- Phịng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống
chính trị và khối đại đồn kết tồn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch,
vững mạnh.
- Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, trong đó phịng ngừa là chính. Gắn phịng, chống tham nhũng lãng phí


với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống
chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu.
- Phịng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải
tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và
có trọng tâm, trọng điểm.
- Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngồi.


Cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, chiến lược quốc gia về phòng chống
tham nhũng đến năm 2020 đã đề ra quan điểm về phòng chống tham
nhũng như sau:
-

Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan,
tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức, đồn thể và
quần chúng nhân dân.

-

Phịng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa

lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới.

-

Sử dụng tổng thể các biện pháp phịng chống tham nhũng; vừa tích
cực, chủ động trong phịng ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý
với những bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó
phịng ngừa là cơ bản, lâu dài; gắn phịng, chống tham nhũng với thực
hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí.

-

Xây dựng lực lượng chun trách đủ mạnh, có phẩm chất chính trị,
bãn lĩnh , đạo đức nghề nghiệp làm nịng cốt trong cơng tác phịng
ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng theo hướng chun mơn hóa với
các phương tiện, công cụ, kỹ năng phù hợp, bảo đảm vừa chuyên sâu,
vừa bao quát các lĩnh vực, các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

-

Đặt q trình phịng chống tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ
động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức quốc tế; chú trọng
tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngồi
trong cơng tác phịng, chống tham nhũng.


-

Hiện nay vẫn có hiện tượng tham nhũng trong hệ thống cơ quan tư

pháp. Vì nhiều lí do:

+ Tham nhũng trong hoạt động tư pháp có đặc điểm riêng là khi thực hiện hoạt
động tư pháp, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó
thực hiện các hành vi xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan có thẩm
quyền; thực hiện các hoạt động tư pháp trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án đối với vụ án hình sự, các vụ, việc dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động, hành chính và các việc khác thuộc thẩm quyền giải quyết
của tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cơng dân.
+ Thời gian qua, có một số vụ án oan, sai liên quan đến hoạt động của các cơ
quan tư pháp. Tuy số vụ án tham nhũng, tiêu cực xảy ra trong hoạt động tư pháp
không nhiều (so với các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế), nhưng tính
chất, mức độ và hậu quả của nó là rất nghiêm trọng. Bởi vì, chủ thể của loại tội
phạm này là những người được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm
đã trực tiếp xâm hại đến quyền con người, dẫn đến bỏ lọt tội phạm và làm oan
người vô tội, gây ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm
suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến sự
nghiêm minh của pháp luật. Về nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên, có
thể kể đến là:
 Hệ thống pháp luật ở nước ta còn chồng chéo, chưa rõ ràng; một số chế

định pháp luật còn áp dụng chế tài tùy nghi. Việc kiểm soát quyền lực
trong hoạt động tư pháp chưa chặt chẽ, phân công, phân cấp chưa rõ ràng.
 Quy định về trách nhiệm người đứng đầu trong các cơ quan tư pháp thiếu

cụ thể, chưa khuyến khích họ tích cực, chủ động trong việc phát hiện và
xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị mình quản
lý; người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về
tính nghiêm trọng của tệ tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp.

Việc quản lý, giáo dục cán bộ, công chức trong hoạt động tư pháp còn
yếu. Một số thủ trưởng đơn vị vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác
đấu tranh phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị mình hoặc có
triển khai nhưng chỉ mang tính hình thức. Một số cán bộ chủ chốt trong
các cơ quan tư pháp chưa giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; chưa đi
đầu và nêu cao tính gương mẫu trong đơn vị do mình phụ trách. Vì thành
tích, lãnh đạo một số cơ quan tư pháp đã bao che, không xử lý cho dù


cấp dưới đã vi phạm; hoặc xử lý nội bộ, khơng đúng với tính chất, mức
độ sai phạm. Nhiều trường hợp, dù đã phát hiện cấp dưới có dấu hiệu tội
phạm, nhưng vẫn không chuyển cơ quan điều tra để xác minh, điều tra
theo luật định. Có trường hợp, cơ quan tư pháp có cán bộ, cơng chức
phạm tội trong khi thi hành công vụ, lãnh đạo đơn vị bao biện, gây khó
khăn cho cơ quan điều tra trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội. Nếu cơ quan điều tra kiên quyết khởi tố
hình sự để điều tra, xử lý theo pháp luật thì họ lại tác động các quan hệ
khác thúc ép để khơng xử lý hình sự.
 Việc quản lý nghiệp vụ, quản lý cán bộ, công chức tại một số cơ quan tư

pháp chưa chặt chẽ; công tác phối hợp giữa cơ quan tư pháp với các cơ
quan khác mang tính hình thức, một chiều, chỉ quan tâm đến phịng,
chống tội phạm ngoài xã hội, chưa quan tâm đúng mức đến việc phát hiện
tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị mình. Nhiều cơ quan, đơn vị chưa coi
trọng cơng tác thanh tra, kiểm tra; chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm
tra ngang cấp, giữa cơ quan cấp trên với cấp dưới chưa đáp ứng yêu cầu.
Công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo cán bộ, công chức trong các cơ
quan tư pháp có tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp cịn kéo
dài, gây hồi nghi trong dư luận quần chúng nhân dân.
 Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong công tác tiếp nhận


xử lý, tố giác tin báo cán bộ, công chức ngành tư pháp tham nhũng, tiêu
cực khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao hiệu quả thấp; chưa
phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị, các cơ
quan ngơn luận và quần chúng nhân dân.
*Ðể phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động tư pháp có hiệu quả
tốt, trong thời gian tới cần thực hiện tốt nhiều nội dung.
- Cụ thể, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kết hợp chặt chẽ giữa "xây và
chống" trong cơng tác phịng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong các cơ quan tư
pháp. Quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị về
cơng tác tư pháp và cải cách tư pháp. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ tư pháp và cải cách tư pháp, thực hiện nghiêm túc quy định về sự lãnh
đạo của đảng ủy các cấp đối với các cơ quan tư pháp. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên giữ các cương vị lãnh
đạo các cơ quan tư pháp. Người đứng đầu các cơ quan tư pháp (Trung ương và


địa phương) cần quan tâm đến công tác đấu tranh phịng ngừa tham nhũng, tiêu
cực trong đơn vị mình. Cần nắm và thơng tin tình hình tiêu cực và tội phạm xâm
phạm trong hoạt động tư pháp; quy định nội dung, hình thức, mối quan hệ trong
tiếp nhận, xử lý thông tin; trách nhiệm báo cáo, tiếp nhận, xử lý, giải quyết vi
phạm tiêu cực trong hoạt động tư pháp; xây dựng cơ chế thanh tra, kiểm tra
nhằm phát hiện, tố giác hành vi tiêu cực trong hoạt động tư pháp...

- Hồn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án. Quy định cụ
thể về loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp bao gồm các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXII Bộ luật Hình sự và các tội phạm
có nguồn gốc, phát sinh từ việc thực thi nhiệm vụ của người thuộc các cơ quan
tư pháp. Bổ sung các hành vi vào các loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp, như:

hành vi làm sai lệch hồ sơ giải quyết các vụ việc vi phạm, tội phạm, vụ án; hành
vi của người khơng có chức vụ, quyền hạn (người nhà phạm nhân hoặc phạm
nhân tự giác) lợi dụng sơ hở trong việc quản lý giam giữ đưa phương tiện liên
lạc, hoặc các hình thức khác để các bị can khác thông cung gây hậu quả nghiêm
trọng; hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn cho phạm nhân đang cải tạo ra khỏi
nơi giam chơi bời, thăm thân sau đó lại trở về trại giam… Cụ thể hóa Luật
phịng, chống tham nhũng vào cơng tác phịng, chống tiêu cực, tham nhũng
trong hoạt động tư pháp.
- Xây dựng cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Nghiên
cứu, hồn thiện mơ hình các cơ quan tư pháp phù hợp lộ trình cải cách tư pháp
theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị và Nghị quyết
Ðại hội XII của Ðảng. Triển khai thực hiện các đề án về đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp khi được phê duyệt. Ðổi mới công tác tuyển chọn,
bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Quy định cụ thể từng chức danh tư pháp theo
hướng tăng quyền hạn, trách nhiệm; không để một người cùng lúc giữ nhiều
chức danh pháp lý… Ðổi mới quy trình, xem xét, đánh giá (đạo đức, chun
mơn, nghiệp vụ, hiệu quả công việc…) trước khi bổ nhiệm lại các chức danh
pháp lý. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chun mơn, nghiệp
vụ, lý luận chính trị; thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ tư pháp.
Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm
việc ở các cơ quan tư pháp. Chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống
lành mạnh, trong sạch, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp, nhất là
người có chức danh tư pháp...


Câu 4: Trình bày quan điểm của Đảng về đặc trưng của mơ hình CNXH
mà VN xây dựng được trình bày trong văn kiện Đại hội 11 năm 2011. Các
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được là thành
quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức
lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MarxLenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều

kiện hiện nay. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội Việt Nam.
1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh: Đây là đặc trưng tổng
quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
-Dân giàu, nước mạnh là điều mà quốc gia nào khi thành lập cũng mong muốn
đạt được. Dân giàu là phải giàu về mọi mặt: vật chất, văn hóa, tinh thần. Dân có
giàu thì nước mới mạnh.
-Dân chủ là bản chất của XHCN, theo chủ tịch HCM dân là chủ, dân làm chủ,
dân là gốc.
-Công bằng, văn minh là khát vọng của tồn nhân loại, ở đó con người sẽ khơng
cịn chiến tranh, phân chia giàu nghèo, phân biệt chủng tộc… Vì ở đó ai cũng
như nhau, con người đối xử với nhau bằng xự văn minh, lịch sự chứ khơng phải
vì lợi ích.
2. Do nhân dân làm chủ: kế thừa tư tương của chủ tịch HCM: “Nhà nước ta là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhà nước phải phục vụ cho
lợi ích của nhân dân, nhà nước là “đầy tớ” của nhân dân. Khơng có dân nhà
nước khơng thể tồn tại như trong lịch sử đã chứng minh các vị vua tướng Quang


Trung, Trần Hưng Đạo vì sao làm nên cơ đồ trong khi Hồ Q Ly để mất nước
vì khơng được lịng dân.
3. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp:
Cả mặt thực tế, cả logic – lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội
chủ nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết
những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt
là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng tăng của lực lượng

sản xuất ngày càng hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi
nó hồn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội khơng
xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Bởi vì chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã nô dịch, áp
bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đa số nhân dân lao động, đem lại lợi nhuận
ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị
xã hội.
Thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xóa việc sinh
ra giai cấp đối kháng, cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Song, chế
độ cơng hữu chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện tưng bước trên cơ sở phát
triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại.
Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời là xây dựng chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên, quá trình xây dựng chế độ cơng hữu
khơng thể nóng vội mà cần chú trọng đến các yếu tố hoàn cảnh lịch sử.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế
cụ thể như thuê mướn lao động… Cá nhân người này vẫn có thể cịn bóc lột
những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ khơng phải
xem xét trên cả một chế độ xã hội, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp
khác. V.I.Lênin và Đảng Cộng sản Nga, sau một thời gian áp dụng “Chính sách
cộng sản thời chiến” đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá độ, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện “Chính sách kinh tế mới” với
kinh tế hàng hóa 5 thành phần và tự do lưu thơng hàng hóa trên thị trường nhiều


loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ
nghĩa xã hội. Việc xóa bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh

chủ quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ
nghĩa là trái với quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
4.Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: ngày nay chúng ta mở rộng
giao lưu phát triển hợp tác với các nước, học hỏi kinh nghiệm của các nước phát
triển, né tránh những sai lầm của các nước đã gặp. Nhưng chúng ta hịa nhập
chứ khơng hịa tan mà ngược lại phải làm cho thế giới ngày càng biết đến văn
hóa, con người VN. Chúng ta cần giữ gìn phát huy nhưng truyền thống tốt đẹp,
phẩm chất của con người Việt nam nhưng đồng thời cần nhìn ra thế giới để loại
bỏ những phong tục, hủ tục lạc hậu để hoàn thiện con người, đất nước VN.
5. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện:
-Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai
cấp, giải phóng được con người, cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người đều
được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mới hồn tồn triệt
để.
Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội. Giải phóng
con người khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng và đồng thời phải hướng tới một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Con người được phát triển toàn
diện, cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú
về tinh thần, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
- Chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con
người, cho con người và phát triển con người tồn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ
nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá
trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta đang xây dựng.
6. Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đồn kết, tơn trọng:
Đất nước ta có 54 dân tộc vì vậy cần làm sao để mỗi dân tộc đều thấy rằng mình
có một ví trị mà thiếu đi bất kì dân tộc nào thì đại gia đình VN cũng khơng thể

hồn thiện. Để làm được điều đó nhà nước ta đã có những chính sách, chiến
lược phát triển bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;


cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chăm lo cho dân
tộc thiểu số, luôn tạo điều kiện cho các dân tộc phát triển.
7. Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo:Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục
tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một
chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ
sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy
còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế tồn cầu hóa. Nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước,
cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước khơng ngừng vững mạnh, có hiệu lực
để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành
dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

8. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới: xu hướng của thế
giới ngày nay là hịa bình ổn định và hợp tác phát triển kinh tế. Vì vậy đặc trưng
này là sự nhìn nhận về thế giới để tìm ra phương châm phù hợp cho VN: làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới. Quan hệ hữu nghị và hợp tác sẽ giúp đỡ
cho nước ta rất nhiều vì nước ta là nước đang phát triển cần những nguồn vốn,
kĩ thuật công nghệ của các nước tiên tiến để xây dựng đất nước. Đồng thời,
nước ta cũng thể hiện mình là một người bạn đáng tin cậy với các nước khi giúp
đỡ các nước như đưa quân y đến Nam Suđan, viện trợ thiết bị y tế cho Lào và

Campuchia
trong
tình
hình
Covic
diễn
biến
phức
tạp…
5. Hãy cho biết vì sao tình hình vi phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vựa như
môi trường, giao thơng,… vẫn cịn nhiều. Là sinh viên luật em hãy đề xuất
giải pháp phát huy vai trò của sinh viên luật trong xây dựng nhà nước pháp
quyền.
 Hãy cho biết vì sao tình hình vi phạm pháp luật trên nhiều lĩnh vựa

như mơi trường, giao thơng,… vẫn cịn nhiều.


-

Việc vi phạm pháp luật nước ta hiện nay chủ yếu là do: kinh tế, văn hóa,
xã hội, trình độ văn hóa của con người,…

-

Vì kinh tế q khó khăn cũng là mầm mống của nhiều hành vi vi phạm
pháp luật, lúc đầu có thể là vì q khó khăn nên “làm liều”, lúc sau có thể
dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật mag tính nguy hiểm cho xã hội cao
hơn.


-

Văn hóa cổ hủ cũng góp phần dẫn đến vi phạm pháp luật, như có những
nơi người dân tộc có tục lệ "cướp vợ", ...nếu khơng áp dụng nét văn hóa
này với đạo đức, pháp luật có thể dẫn đến hành vi bắt giữ người trái pháp
luật....tức là vi phạm pháp luật.

-

Xã hội phát triển càng cao thì lại phát sinh nhiều loại tội phạm mới tinh vi
và nguy hiểm hơn...đó cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp
luật...

-

Con người với sự nhận thức chưa đúng hoặc không nhận thức được hành
vi nào là vi phạm pháp luật thì cũng là nguyên nhân dẫn đến vi phạm
pháp luật (tất nhiên trừ những trường hợp biết là vi phạm pháp luật nhưng
vẫn cố tình làm)....

 Là sinh viên luật em hãy đề xuất giải pháp phát huy vai trò của sinh

viên luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền.
-

Việc tổ chức những ngày hội tuyên truyền về các luật mới, luật sửa đổi,…

-

Nâng cao các hình phạt về tệ nạn xã hội để nhằm răn đe và cảnh cáo,

nhằm giảm đến mức tối đa các hành động vi phạm pháp luật.

CÂU 6: TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNGVỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN
HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (TỪ ĐH VII
ĐẾN ĐH XII). ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG MẶT TỐT VÀ CHƯA TỐT TRONG
VĂN HĨA ỨNG XỬ NƠI CƠNG CỘNG CỦA NGƯỜI VIỆT THỜI KÌ HỘI
NHẬP. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC VỚI TƯ CÁCH LÀ 1 SV
LUẬT.
*Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam từ đại hộ 7 đến đại
hội thứ 12:


-Đại hội thứ VII: Trong lĩnh vực tư tưởng và văn hóa lấy chủ nghĩa Mác- Lênin
tư tưởng HCM là nền tảng trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại.
-Đại hội VIII: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội
khẳng định, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải
nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,
xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội.
-Đại hội IX: +Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa
Việt Nam gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách của con người Việt Nam, bảo vệ và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ CNH HĐH hội nhập kinh tế
quốc tế.
+ Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân
trong đời sống văn hóa.

+Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn nền văn hóa và phải kết hợp hài hịa việc bảo
vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
+Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng
cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, vươn lên hiện đại về mơ hình, cơ cấu tổ
chức và cơ sở vật chất- kỹ thuật, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp,
chủ động, khoa học.
+Đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ
thuật đi đơi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ.
+Tăng cường quản lý của nhà nước về văn hóa.
+Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, nhà nước, mặt trận
tổ quốc,…
-Đại học X: Tiếp tục phát triển văn hóa như đã đề ra ở đại hội IX.
-Đại hội XI: Không thấy đề cập đến.


-Đại hội XII: Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả
mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học.
+Xây dựng nền văn hóa phải gắn với xây dựng và phát triển con người.
+ Văn hóa khơng chỉ là nền tảng tinh thần xã hội mà còn là sức mạnh nội sinh
để phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc trong thời kỳ mới.
*Đánh giá về những mặt tốt và chưa tốt trong văn hóa ứng xử nơi công cộng
của người Việt trong thời kỳ hội nhập:
Mặt tốt

Mặt chưa tốt

-Qua nhiều kỳ đại hội ta đã rút ra nhiều -Ngồi những mặt tốt thì hành vi của
kinh nghiệm và dần khắc phục được một số cá nhân dần làm mất đi vẻ mỹ

những khuyết điểm cụ thể như:
quan ở nơi cơng cộng và làm nền văn
hóa Việt Nam có những dấu ấn trong
+Có những người đã giúp người nước
lịng bạn bè quốc tế:
ngồi lấy lại đồ bị rơi hay chỉ đường
giúp khách du lịch, tạo ánh nhìn tốt về +Khơng ít cá nhân đã có những hành vi
con người Việt Nam.
ứng xử thiếu văn hóa, có những lời nói
bất nhã nơi cơng cộng (nơi sinh hoạt,
+Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ
lao động, tương tác chung của cả xã
hiện nay đã ra sức tuyên truyền hãy
hội) ở nhiều lứa tuổi nhiều ngành nghề,
làm nên những cơng trình về con
lĩnh vực khác nhau gây nhiều bức xúc,
đường xanh, góp phần đẩy lùi những
nghi ngại trong xã hội.
tình trạng bừa bãi góp phần bảo vệ mơi
trường.
+Tình trạng chen chúc, xơ đẩy, khơng
nhường nhịn nhau trong văn hóa xếp
hàng, hay việc tranh giành, bắt khách
dọc đường của chủ xe khiến nhiều
người sợ hãi.
+ Khi tham gia giao thơng thì bất chấp
luật pháp, sẵn sàng đáp trả bằng những
lời nói thơ tục.
+Tình trạng phóng uế bừa bãi nơi cơng
cộng.



+Việc xả rác trong đúng nơi qui định,
viết bậy, ngồi lên cổ vật, mặc đồ hở
hang, đốt nhiều tiền vàng, làm mất sự
trang nghiêm và văn hóa,…

*Đề xuất giải pháp với tư cách sinh viên Luật:
-Cần xử phạt nghiêm minh hơn về những hành vi làm ô nhiễm môi trường như
xã rác bừa bãi, phóng uế nơi cơng cộng,… để nhằm răn đe những cá nhân, tổ
chức có hành vi sai trái. Ngoài ra ta nên xây dựng nhiều nhà vệ sinh cơng cộng
và có dịch vụ dọn dẹp hàng tuần.
-Cần làm những biển báo trước những nơi công cộng như chùa, các khu di tích
lịch sử,… về vấn đề trang phục trước khi vào.
-Cần tổ chức nhiều CLB hay những chương trình giáo dục cho người dân, về
cách ứng xử và văn hóa xếp hàng, văn hóa trong giao tiếp,…
-Tình trạng vượt đèn đỏ cũng là hành vi tạo nên nhiều hệ lụy trong văn hóa giao
thơng ở nước ta. Cần đưa ra mức phạt cao hơn thậm chí là phạt tù,(CÁI NÀY T
NGHĨ NHƯ VẬY THÔI CÁC BẠN CẦN XEM XÉT LẠI KHI VIẾT VÀO
BÀI THI: đóng những biển báo về hình phạt dưới mấy cái đèn giao thơng. VÍ
DỤ: Vượt đèn đỏ phạt từ 5tr đến 7tr,…)



×