Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Vấn đề đô thị hóa và phụ nữ trong truyện ngắn của đỗ phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 109 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

PHẠM THỊ AN

VẤN ĐỀ ĐƠ THỊ HĨA VÀ PHỤ NỮ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ PHẤN
TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

CHUN NGÀNH:

VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ:

8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BÌNH DƢƠNG- Năm 2018

1


UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

PHẠM THỊ AN

VẤN ĐỀ ĐƠ THỊ HĨA VÀ PHỤ NỮ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ PHẤN



TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

CHUN NGÀNH:

VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ:

8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM PHƢƠNG CHI

BÌNH DƢƠNG- Năm 2018
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Vấn đề đơ thị hóa và phụ
nữ trong truyện ngắn của Đỗ Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái” là cơng trình
nghiên cứu của cá nhân tơi, khơng sao chép của bất kì ai. Mọi nguồn thông tin đƣợc
sử dụng trong luận văn đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Tơi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của riêng mình.
Bình Dƣơng, tháng 12 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Thị An


i


LỜI CẢM ƠN
Với lịng biết ơn sâu sắc của mình, tôi xin cảm ơn TS. Phạm Phƣơng Chi
(Viện Văn học – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã hƣớng dẫn tận tình,
sát sao, động viên, khích lệ và tin tƣởng tơi trong suốt q trình tìm hiểu, nghiên cứu
và hồn thành luận văn.
Tơi vơ cùng cảm ơn các thầy cô giảng dạy tại khoa Ngữ Văn- trƣờng Đại học
Thủ Dầu Một, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trƣờng Đại học
Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn sự động viên, tạo điều kiện thuận lợi của gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp và ngƣời thân!
Bình Dƣơng, tháng 12 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Thị An

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 4

2.1. Những nghiên cứu chung về Đỗ Phấn ................................................... 4
2.2. Những nghiên cứu về Đỗ Phấn dƣới góc nhìn phê bình sinh thái........... 5
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................. 7
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 7
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................ 8
3.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 8
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 9
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 9
Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ TRUYỆN
NGẮN CỦA ĐỖ PHẤN ......................................................................................................10
1.1. Giới thuyết chung về phê bình sinh thái ......................................................................10

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái ............................................................ 10
1.1.2. Vấn đề đơ thị hóa trong phê bình sinh thái ........................................ 14
1.1.3. Vấn đề phụ nữ trong phê bình sinh thái ............................................ 18
1.1.3.1.Lịch sử hình thành của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái .......................... 18
1.1.3.2. Phụ nữ với việc bảo vệ môi sinh- môi trường .....................................20
1.2. Truyện ngắn của nhà văn Đỗ Phấn ..............................................................................22

1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp ...................................................................... 22
1.2.2. Đôi nét về truyện ngắn của Đỗ Phấn ................................................. 25
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................28
Chƣơng 2. VẤN ĐỀ ĐƠ THỊ HĨA VÀ TỰ NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
ĐỖ PHẤN ............................................................................................................................29
2.1. Sự bành trƣớng lấn át của không gian đô thị ..............................................................31

iii



2.1.1. Không gian đô thị lấn át không gian làng quê và không gian hoang dã
................................................................................................................... 31
2.1.2. Nguyên nhân gây nên lực át của không gian đô thị ........................... 34
2.2. Những tác nhân lên môi trƣờng tự nhiên để phục vụ cho đời sống đô thị .................37

2.2.1. Đánh bắt động vật tự nhiên ............................................................... 37
2.2.2. Ảo tƣởng du lịch sinh thái ................................................................ 42
2.3. Ý thức nơi chốn và vấn đề ngƣời nhập cƣ ...................................................................46

2.3.1. Từ làng lên phố: niềm mong mỏi ...................................................... 47
2.3.2. Từ phố về làng: bất đắc dĩ ................................................................ 51
2.4. Đơ thị hóa và những chấn thƣơng sinh thái.................................................................55

2.4.1. Ơ nhiễm mơi trƣờng- hệ thống lồi bị tổn thƣơng ............................. 56
2.4.1.1.Con người: Nỗi đau tâm hồn và thể xác .............................................. 56
2.4.1.2. Thiên nhiên bị bức tử .........................................................................61

2.4.2. Ngập lụt, rác thải, kẹt xe, tai nạn- Nỗi ám ảnh thƣờng nhật của ngƣời
dân phố thị ................................................................................................. 62
2.4.3. Kiến trúc đơ thị- vách ngăn con ngƣời và thiên nhiên, tình ngƣời với
nhau ........................................................................................................... 69
2.4.3.1. Kiến trúc đô thị- vách ngăn con người với thiên nhiên ....................... 69
2.4.3.2. Kiến trúc đô thị- vách ngăn tình người ............................................... 71
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................................75
Chƣơng 3: PHỤ NỮ VÀ TỰ NHIÊN VỚI QUÁ TRÌNH ĐƠ THỊ HĨA TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ PHẤN .....................................................................................76
3.1. Phụ nữ và tự nhiên trong nghiên cứu phê bình sinh thái ............................................76
3.2. Phụ nữ và tự nhiên trong truyện ngắn của Đỗ Phấn ...................................................78

3.2.1. Phụ nữ và tự nhiên - Đối tƣợng bị thống trị, xem thƣờng.................. 78

3.2.2. Phụ nữ bị bóc lột sức lao động .......................................................... 79
3.2.3. Phụ nữ bị áp bức về tình dục ............................................................ 82
3.3. Vai trị của ngƣời phụ nữ với môi trƣờng tự nhiên .....................................................87

3.3.1. Bảo vệ giống loài tự nhiên ................................................................ 87
3.3.2. Gắn kết nam giới với tự nhiên .......................................................... 88
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................................94

iv


KẾT LUẬN ..........................................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................97

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lí thuyết phê bình sinh thái xuất hiện từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX,
khởi nguồn từ nƣớc Mỹ rồi đến nƣớc Anh và ảnh hƣởng đến toàn bộ các nƣớc
Phƣơng Tây. Tuy nhiên, vấn đề sinh thái không chỉ là vấn đề đƣợc quan tâm ở
các nƣớc Tây Âu, bởi vì vấn đề khủng hoảng môi trƣờng sinh thái không chỉ diễn
ra ở một quốc gia, một vùng hay một khu vực nào đó mà nó diễn ra trên tồn cầu.
Và vì thế, trào lƣu phê bình sinh thái lan sang cả châu Á, trong đó có Việt Nam.
Vấn đề sinh thái, môi trƣờng trở thành mối quan tâm đặc biệt ở mọi lĩnh vực, kể
cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Chúng ta đang sống ở thế kỉ XXI- thế kỉ của nền văn minh hiện đại. Nền
văn minh hiện đại đem đến cho cuộc sống của con ngƣời rất nhiều tiện nghi và
thuận lợi. Nhƣng để có đƣợc những thuận lợi tiện nghi đó thì con ngƣời can thiệp

quá sâu vào môi trƣờng tự nhiên dẫn đến quá nhiều hậu quả thảm hại nhƣ: khói
bụi, lũ lụt, sạt lở, hạn hán, rừng khô, suối cạn, biển độc; bên cạnh đó là sự suy
thối về đạo đức, hay con ngƣời mắc phải những chứng bệnh lạ…Nói một cách
khác, nền văn minh hiện đại có tác động tiêu cực không nhỏ đến sinh thái tự
nhiên, sinh thái xã hội và sinh thái văn hóa. Trƣớc vấn đề mang tính cấp thiết
tồn cầu nhƣ thế, liệu văn học có đứng ngồi cuộc khơng? Karen Laura Thornber
đã đặt ra câu hỏi kích thích giới làm văn học khơng nên thờ ơ trƣớc vấn nạn nguy
cơ sinh thái: “Điều quan trọng và thực sự cấp thiết, là phải phân tích xem văn
học, trong ý nghĩa là một dạng thức diễn ngôn, đã có sự giải quyết nhƣ thế nào
trƣớc những nguyên nhân và hậu quả của quá trình phá hủy sinh thái một cách
thản nhiên” (Thornber, 2017b, tr.275). Phê bình sinh thái trở thành hƣớng nghiên
cứu liên ngành, là hƣớng nghiên cứu mới trong văn học cũng nhƣ các sản phẩm
văn hóa. Nhƣng có một nghịch lí, mặc dù phê bình sinh thái ra đời khá lâu (từ
những năm 70 của thế kỷ XX), có nhiều diễn văn, tổ chức, hoạt động hô hào bảo
vệ môi trƣờng, giữ cân bằng sinh thái nhƣng thực tế ngày hơm nay thậm chí cả

1


tƣơng lai, con ngƣời vẫn phải đang gánh chịu những thực trạng thảm họa môi
trƣờng. Nghịch lý này vẫn tồn tại đến mức coi nhƣ chuyện đƣơng nhiên.
Từ năm 1986, Việt Nam bƣớc vào thời kì đổi mới trên mọi lĩnh vực đã
làm cho đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân đƣợc cải thiện đáng kể. Quá
trình “Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa” đất nƣớc làm cho đất nƣớc trở thành một
trong những nƣớc phát triển ở khu vực và có vị thế tiếng nói trên trƣờng quốc tế.
Nhƣng bên cạnh đó, con ngƣời Việt Nam cũng phải gánh chịu những hậu quả của
q trình “Cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa”: những cánh đồng, những khu rừng
phải nhƣờng chỗ cho các khu cơng nghiệp; những dịng sơng, những tài nguyên
khoáng sản phải phục vụ cho nhu cầu lƣới điện quốc gia, con ngƣời ln bị hít
phải bầu khơng khí ơ nhiễm, ăn phải những thức ăn cịn dƣ lƣợng chất độc, sinh

vật chết hàng loạt,.... Nhìn chung, có nhiều hệ lụy của một q trình phát triển
q nhanh và ồ ạt. Và đó cũng là vấn đề nóng trong những sáng tác của các nhà
văn gần đây nhƣ: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Việt Hà, Phạm Thị Hoài, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Đỗ Phấn, Trần Duy Phiên, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc
Tƣ,…
Với sự băn khoăn trăn trở của mình, Đỗ Phấn trong nhiều tác phẩm đã
nhận thức sâu sắc hơn những nguy cơ đối với sự sinh tồn của con ngƣời trong
môi trƣờng tự nhiên và xã hội suy thoái, bày tỏ mối quan tâm, nỗi lo âu và sự
phản tỉnh về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên. Trong những sáng tác của
mình, từ tiểu thuyết đến truyện ngắn hay tản văn, Đỗ Phấn thƣờng tập trung vào
vấn đề đô thị và con ngƣời, ý thức nơi chốn và vấn đề ngƣời nhập cƣ. Trong
truyện ngắn của mình, Đỗ Phấn cũng chỉ ra đối tƣợng bị ảnh hƣởng, tác động
nhiều nhất của nguy cơ sinh thái đơ thị chính là mơi trƣờng tự nhiên và ngƣời
phụ nữ. Tự nhiên và ngƣời phụ nữ có mối liên hệ mật thiết với nhau, đều là
những đối tƣợng bị xâm hại, bị bóc lột, bị thiệt thịi nhất của q trình phát triển
đơ thị. Mơi trƣờng tự nhiên thì bị xâm chiếm, lấn át, bức tử, còn ngƣời phụ nữ thì
bị bóc lột, cƣỡng bức về sức lao động, thể xác, tâm hồn và cả tình dục. Tất cả đều
chịu hậu quả nặng nề là những chấn thƣơng sinh thái. Nhƣng tự nhiên và phụ nữ

2


không chịu lặng im trƣớc tác động xâm hại môi trƣờng của con ngƣời. Tự nhiên
đã quay trở lại trả thù con ngƣời bằng những cơn đại hồng thủy hay sự nóng lên
của trái đất… làm cho đời sống của con ngƣời nhất là ngƣời dân phố thị phải
khốn đốn. Khơng nhƣ tự nhiên, với vai trị và thiên tính của mình, ngƣời phụ nữ
trong truyện ngắn của Đỗ Phấn đã có những hành động bảo vệ mơi trƣờng tự
nhiên, kéo con ngƣời (đặc biệt là nam giới) vào mối quan hệ sống hài hịa gần gũi
với tự nhiên, xóa bỏ tƣ tƣởng nhân loại trung tâm, nam giới trung tâm. Nhƣ vậy,
đọc truyện ngắn của Đỗ Phấn, ta thấy cảm quan sinh thái xuyên suốt mọi sáng tác

của ông.
Là một ngƣời sinh ra và lớn lên ở đất Hà Nội, Đỗ Phấn gắn bó, yêu quý
thành phố Hà Nội đồng thời ông cũng nhận ra những nguy cơ sinh thái tiềm ẩn
trong đời sống đô thị. Vấn đề nguy cơ sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn
không chỉ diễn ra ở thành phố Hà Nội mà đó là vấn đề mà tất cả các thành phố
trong cả nƣớc đang phải đối mặt. Mặc dù bƣớc vào làng văn khá muộn màng và
là bƣớc rẽ sang ngang trong nghệ thuật nhƣng sáng tác của Đỗ Phấn chứa đựng
rất nhiều giá trị tƣ tƣởng của thời đại, vì thế mà tác phẩm của ơng đƣợc đón nhận
một cách nồng nhiệt. Trong những sáng tác của mình, Đỗ Phấn đã cho thấy ý
thức trách nhiệm của một ngƣời dân thành phố, của một ngƣời làm nghệ thuật
nói riêng và của một cơng dân nói chung về vấn đề sinh thái mơi trƣờng.
Những vấn đề đặt ra trong sáng tác của Đỗ Phấn mang tính thời sự, nói
đến vấn đề mà tồn nhân loại đang quan tâm, và cùng với xu hƣớng nghiên cứu
mới trong văn học hiện nay, tôi chọn đề tài “Vấn đề đơ thị hóa và phụ nữ trong
truyện ngắn của Đỗ Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái” để đánh giá giá trị của
tác phẩm từ góc nhìn phê bình sinh thái.

3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trƣớc khi đến với làng văn, Đỗ Phấn từng là một họa sĩ có tiếng, một thầy
giáo dạy mĩ thuật ở một trƣờng Đại học. Dù đến với văn chƣơng khá muộn mằn
nhƣng ông là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào. Ông liên tiếp cho ra đời hàng
loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa và tản văn. Và những sáng tác
của ơng đƣợc bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và đƣợc giới phê bình nghiên cứu văn
chƣơng quan tâm. Thực tế là có nhiều bài báo viết về ơng, về sáng tác của ông
liên tiếp xuất hiện trên các báo, và có nhiều luận văn, luận án của các nghiên cứu
sinh về văn học lấy sáng tác của ông làm đề tài nghiên cứu.
2.1. Những nghiên cứu chung về Đỗ Phấn

Nguyễn Tham Thiện Kế (2010) có nhận xét: “Tơi thấy Phấn là một trong
những họa sĩ có khả năng diễn đƣợc tƣ duy của mình, khơng chỉ trong nghề hội
họa mà trong cả văn chƣơng thuần túy. Anh viết nhƣ một nhà văn chân chính
thực sự hành xác với ngơn từ”. Đoàn Ánh Dƣơng (2011) cũng nhận xét nhƣ sau:
“Trong mấy năm trở lại đây, từ hội họa chuyển sang lĩnh vực văn chƣơng, Đỗ
Phấn đã nhanh chóng khẳng định đƣợc bút lực của mình. Trong sáng tác của anh,
đời sống đô thị hiện đại luôn hiện ra với nhiều dáng vẻ, khiến ngƣời đọc khó mà
khơng suy ngẫm về nó”. Hai nhận xét này đã đánh giá rất cao khả năng viết văn
của nhà văn Đỗ Phấn ngoài lĩnh vực hội họa.
Sáng tác của Đỗ Phấn cũng đƣợc sinh viên các trƣờng Đại học nghiên cứu
chuyên sâu. Võ Hùng (2015), trong luận văn của mình, tác giả đã nghiên cứu về
đặc điểm nhân vật, cấu trúc nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật và nghệ thuật kể
chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Với luận văn này, tác giả Võ Hùng phân
tích cho ngƣời đọc thấy đƣợc hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn
nhƣng chủ yếu khai thác về tuyến nhân vật ngƣời đàn ông. Tác giả phân tích rằng
đó là những ngƣời đàn ơng cảm thấy mình cơ đơn, cảm thấy nhỏ bé, tự ti mặc
cảm, vô dụng, hay đôi khi là những ngƣời đàn ông tha hóa. Nhƣng tất cả những
ngƣời đàn ơng trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn là những ngƣời không thờ ơ, không
bàng quan trƣớc những vấn đề của cuộc sống đang diễn ra. Khi làm luận văn thạc

4


sĩ, Tăng Thị Thúy Tiền (2015) đã làm đề tài: Cảm thức hiện sinh trong tiểu
thuyết của Đỗ Phấn. Trong luận văn này, tác giả phân tích rằng: con ngƣời trong
tiểu thuyết của Đỗ Phấn là những con ngƣời hiện hữu, con ngƣời hiện tại. Những
con ngƣời này dù là vong thân hay lƣu đày, dù có rơi vào nghịch cảnh nào thì
cũng là những con ngƣời khao khát đƣợc sống là chính mình, sống đúng với bản
chất của con ngƣời là khát vọng và là quyền cơ bản nhất của con ngƣời. Những
luận văn trên đây chủ yếu khai thác thế giới nhân vật trong sáng tác của Đỗ Phấn.

2.2. Những nghiên cứu về Đỗ Phấn dƣới góc nhìn phê bình sinh thái
Nguyễn Thị Hƣơng (2014) khi làm luận văn thạc sĩ đã làm Đề tài đô thị
trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Trong luận văn này, tác giả tập trung phân tích
khơng gian đơ thị, thời gian đơ thị và con ngƣời đô thị; ba yếu tố này có tác động
qua lại với nhau. Đọc “Đề tài đơ thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn”, tác giả cho
ta thấy đƣợc bức tranh cuộc sống con ngƣời ở đô thị một cách toàn vẹn nhƣng tác
giả vẫn chƣa chỉ ra đƣợc những hậu quả sinh thái mà ngƣời dân phố thị phải gánh
chịu.
Đặng Thị Thái Hà trong bài viết Vấn đề sinh thái- đô thị trong văn xuôi
Việt Nam thời kì đổi mới đã chỉ ra sự chuyển hƣớng trong sáng tác văn xi thời
kì đổi mới của một số nhà văn, trong đó có Đỗ Phấn. Soi chiếu vào sáng tác của
Đỗ Phấn dƣới góc nhìn phê bình sinh thái, tác giả Đặng Thị Thái Hà (2015) cho
rằng: “Những câu chuyện của ông trở đi trở lại mô-tip giã từ thành thị”. Những
nhân vật trong sáng tác của Đỗ Phấn “chạy trốn đô thị” để “xoa dịu mọi chấn
thƣơng tâm lí” do đời sống đơ thị văn minh gây ra cho con ngƣời.
Trong khi đó, Lê Hƣơng Thủy khi nghiên cứu những sáng tác của Đỗ
Phấn đã chỉ ra đƣợc những tác động của q trình đơ thị hóa mang đến những hệ
lụy cho con ngƣời, đó là con ngƣời bị chấn thƣơng sinh thái: “Trong các sáng tác
của Đỗ Phấn, ln hiện hữu hình ảnh của một đơ thị Hà Nội đang trong q trình
biến chuyển với vỏ bọc hào nhoáng nhƣng cũng ẩn chứa những vết thƣơng thành
thị, những đứt gãy với truyền thống” (Lê Hƣơng Thủy, 2017).

5


Nguyễn Thùy Trang trong bài “Tính đối thoại- phương thức kết nối với thế
giới tự nhiên trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” đã nêu lên mối quan hệ giữa
con ngƣời với với tự nhiên trong q trình đơ thị hóa trong sáng tác của một số
nhà văn hiện đại. Trong đó tác giả nhấn mạnh đến những tiểu thuyết của Đỗ Phấn
và nhận định: “Đỗ Phấn thẳng thắn trải lịng những bất cơng mà tự nhiên phải

hứng chịu” (Nguyễn Thùy Trang, 2017a).Và tác giả bài viết cũng thấy rằng
những nhân vật trong sáng tác của Đỗ Phấn cũng chịu những thảm cảnh do chính
mình tạo ra trong q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa một cách ồ ạt.
Nhìn chung, những sáng tác của Đỗ Phấn đã gây sự chú ý, quan tâm đến
ngƣời đọc và giới phê bình nghiên cứu. Tơi thấy đó chính là thành cơng của một
nhà văn. Nhƣng những bài nghiên cứu phê bình về sáng tác của Đỗ Phấn chỉ tập
trung khai thác về mảng tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Ngay trong đề tài “Cảm quan
sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn” thì khi khai thác tác phẩm, Lê Hƣơng Thủy
cũng chỉ lấy dẫn chứng trong năm cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn (Vết gió, Vắng
mặt, Rụng xuống ngày hư ảo, Dằng dặc miền sơng mưa, chảy qua bóng tối) chứ
chƣa hề đề cập đến truyện ngắn hay tản văn của ông. Và đề tài khai thác chủ yếu
là đô thị chứ chƣa đề cập đến vấn đề ngƣời phụ nữ trong sáng tác Đỗ Phấn.
Cho mãi đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Việt Hà khi viết lời tựa cho cuốn
truyện ngắn Thác hoa- Nxb Trẻ năm 2016- mới đề cập đến ngƣời phụ nữ trong
sáng tác của Đỗ Phấn nhƣng ở cái nhìn hệ thống nhân vật chứ chƣa phải là cái
nhìn sinh thái: “Bao trùm lên trên của tất cả những đô thị những đàn bà những
công chức là một tâm cảm xót xa đƣợc viết điêu luyện bằng chất văn cố dìm đi
day dứt” (Đỗ Phấn, 2016). Nhà văn Lê Minh Hà cũng có lời nhận xét đƣợc in
trên bìa cuối cuốn truyện ngắn Thác hoa nhƣ sau: “Đỗ Phấn là ngƣời viết truyện
khơng có chuyện, một lối viết tƣởng bâng quơ bạ gì cũng nói mà khó vơ chừng,
vì ngƣời viết giữ bạn đọc không phải bằng nhân vật, bằng những bổng trầm số
phận, mà giản dị bằng chính họ, lịch duyệt, vi tế, trƣớc đời sống, rộng ra là thế
thời” (Đỗ Phấn, 2016). Những nhận định, đánh giá của một số tác giả trên về

6


truyện ngắn của Đỗ Phấn thƣờng tập trung vào hệ thống nhân vật hay nghệ thuật
viết mà chƣa chú ý đến góc độ sinh thái mà những truyện ngắn của ông gợi ra.
Qua khảo sát của ngƣời viết thì rất ít thậm chí chƣa có một nghiên cứu

chuyên sâu nào về thể loại truyện ngắn cũng nhƣ vấn đề phụ nữ và vấn đề sinh
thái trong truyện ngắn của Đỗ Phấn. Những suy tƣ trăn trở của Đỗ Phấn về mối
quan hệ giữa con ngƣời với môi trƣờng, sinh thái, đô thị… không chỉ đƣợc đề
cập trong tiểu thuyết mà cịn đƣợc đề cập trong truyện ngắn của ơng. Khai thác
mảng truyện ngắn của Đỗ Phấn bên cạnh thể loại tiểu thuyết, ngƣời đọc sẽ hiểu
sâu hơn, toàn diện hơn về con ngƣời cũng nhƣ tƣ tƣởng nghệ thuật của ông. Xuất
phát từ lí do này cùng với sự yêu mến ngƣỡng mộ nhà văn Đỗ Phấn và thích thú
những vấn đề gợi ra trong mảng truyện ngắn của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái,
tơi nghiên cứu “Vấn đề đơ thị hóa và phụ nữ trong truyện ngắn của Đỗ Phấn
từ góc nhìn phê bình sinh thái”.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Ngƣời nghiên cứu muốn khẳng định đề tài nghiên cứu đô thị và cảm
quan sinh thái đƣợc thể hiện trong mọi sáng tác của Đỗ Phấn, không chỉ ở thể
loại tiểu thuyết mà còn ở thể loại truyện ngắn.
- Ngƣời nghiên cứu đƣa ra một đề tài cần khai thác, làm sáng tỏ thêm
trong sáng tác của Đỗ Phấn, đó là vấn đề phụ nữ trong q trình đơ thị hóa.
- Nghiên cứu “Vấn đề đơ thị hóa và phụ nữ truyện ngắn của Đỗ Phấn từ
góc nhìn phê bình sinh thái” để góp thêm tiếng nói vào việc đánh giá đầy đủ,
toàn diện giá trị tƣ tƣởng sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn.

7


3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Ngƣời viết nghiên cứu một số truyện ngắn đƣợc in trong ba tập truyện
ngắn của Đỗ Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái. Cụ thể là tập truyện ngắn Kiến
đi đằng kiến (Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2009), tập truyện ngắn Đêm tiền sử (Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội, 2010), tập truyện ngắn Thác hoa (Nxb Trẻ năm 2016).
Cụ thể: ngƣời viết đã nghiên cứu và lấy dẫn chứng của 10/15 truyện ngắn

trong tập truyện ngắn Kiến đi đằng kiến, 15/19 truyện ngắn trong tập truyện ngắn
Đêm tiền sử và 18/18 truyện ngắn trong tập truyện ngắn Thác hoa. Sở dĩ tôi chọn
43/52 truyện ngắn của Đỗ Phấn để làm đối tƣợng nghiên cứu là vì những truyện
ngắn này mang đậm dấu ấn sinh thái.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái, từ đó ứng dụng lí thuyết phê bình
sinh thái vào việc tìm hiểu những vấn đề đơ thị và phụ nữ ở góc độ sinh thái mơi
trƣờng mà nhà văn Đỗ Phấn đề cập trong truyện ngắn của mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: ngƣời viết phân tích truyện ngắn Đỗ Phấn trong
mối liên hệ với các điều kiện lịch sử xã hội tƣơng quan. Cụ thể hơn, các vấn đề
về đô thị và phụ nữ từ góc nhìn sinh thái trong tác phẩm của Đỗ Phấn sẽ đƣợc
ngƣời viết phân tích trong tƣơng quan với các tài liệu hành chính về q trình đơ
thị hóa ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh: vận dụng phƣơng pháp so sánh để chỉ ra những
điểm tƣơng đồng và khác biệt trong cách thể hiện vấn đề đô thị và phụ nữ từ góc
nhìn phê bình sinh thái của nhà văn Đỗ Phấn so với các nhà văn khác.
- Ngƣời viết cũng vận dụng "cảm quan nhìn lại" của phê bình sinh thái
làm tiền đề để nhận thức mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên xung quanh
nhƣ một thực thể của chỉnh thể sinh thái.
- Phương pháp liên ngành: Phê bình sinh thái là một hƣớng nghiên cứu
liên ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chƣơng để rút
8


ra những cảnh báo môi trƣờng. Luận văn vận dụng những kiến thức của các
ngành khoa học (sinh thái học, dân tộc học, sử học)
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã đƣợc vận
dụng để nhận diện khuynh hƣớng văn xuôi mang cảm thức sinh thái qua cấu trúc,
giọng điệu,...

5. Đóng góp của luận văn
- Vấn đề đô thị hay cảm quan sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn đã
đƣợc một số ngƣời nghiên cứu nhƣng chỉ nghiên cứu ở thể loại tiểu thuyết. Trong
khi đó, vấn đề này cịn thể hiện rất rõ trong thể loại truyện ngắn của ơng. Tìm
hiểu vấn đề đơ thị hóa trong mối quan hệ với mơi trƣờng tự nhiên trong truyện
ngắn của Đỗ Phấn sẽ giúp chúng ta đánh giá một cách tổng quan, khách quan
hơn về mảng đề tài đơ thị hóa trong sáng tác của ông.
- Vấn đề phụ nữ trong sáng tác của Đỗ Phấn chƣa có ai nghiên cứu đến,
mà đây là đối tƣợng nổi bật trong mọi sáng tác của ông. Nhƣng trong phạm vi
nghiên cứu của mình, tơi chỉ nghiên cứu vấn đề phụ nữ trong truyện ngắn của Đỗ
Phấn từ góc nhìn sinh thái để làm bật hơn mối quan hệ, vị trí, vai trị của ngƣời
phụ nữ với tự nhiên trong q trình đơ thị hóa.
- Luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo cho các cơng trình nghiên
cứu tiếp theo về sáng tác của Đỗ Phấn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giới thuyết chung về phê bình sinh thái và truyện ngắn của Đỗ
Phấn
Chƣơng 2: Vấn đề đơ thị hóa và tự nhiên trong truyện ngắn của Đỗ Phấn
Chƣơng 3: Phụ nữ và tự nhiên với q trình đơ thị hóa trong truyện ngắn
của Đỗ Phấn

9


Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ
TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ PHẤN

1.1. Giới thuyết chung về phê bình sinh thái

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
Thứ nhất về thuật ngữ “Phê bình sinh thái”- Ecocriticism. Có nhiều thuật
ngữ tƣơng đƣơng khác cũng đƣợc dùng để gọi về Phê bình sinh thái nhƣ: nghiên
cứu văn học và mơi trƣờng, sinh thái văn học, thi pháp sinh thái, phê bình văn
học mơi trƣờng, phê bình xanh, phê bình văn hóa xanh…Nhƣng thuật ngữ đƣợc
nhiều học giả sử dụng nhiều nhất đó là Phê bình sinh thái. Cụ thể là ở Việt Nam
những năm gần đây, giới nghiên cứu phê bình văn học chủ yếu dùng thuật ngữ
Phê bình sinh thái. Năm 2017, Nguyễn Thị Tịnh Thy đã cho ra đời cuốn sách và
đặt tên sách cũng có cụm từ phê bình sinh thái: “Rừng khơ, suối cạn, biển độc…
và văn chương- Phê bình sinh thái”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 3/2017.
Nhóm tác giả dịch thuật những tài liệu nghiên cứu về phê bình sinh thái do
Hồng Tố Mai chủ biên đã in thành sách lấy tên “Phê bình sinh thái là gì?”, nxb
Hội nhà văn, Hà Nội, 10/2017. Trên trang web
của riêng mình, Đỗ Văn Hiểu có một chuyên luận về văn học sinh thái và lí luận
phê bình sinh thái. Trong lần tổ chức hội thảo quốc tế gần đây nhất về phê bình
sinh thái, Viện Văn Học Việt Nam đã đặt tên cho buổi hội thảo là “Phê bình sinh
thái- Tiếng nói bản địa, tiếng nói tồn cầu”, Hà Nội, 12/2017.
Thuật ngữ sinh thái học (Ecology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, bao gồm
Oikos (chỉ nơi sinh sống) và Logos (học thuyết). Theo đó, sinh thái học là bộ
mơn nghiên cứu về nơi sinh sống của các sinh vật, đối tƣợng của nó là toàn bộ
mối quan hệ giữa các loài sinh vật với mơi trƣờng. Trong cái nhìn của sinh thái
học, giữa các lồi sinh vật và mơi trƣờng sống ln có mối quan hệ chặt chẽ, một
khi sinh thái bị đảo lộn, sự sống của mn lồi cũng chấm dứt. Trong thế giới
sinh vật, con ngƣời đƣợc coi là sinh vật phát triển cao nhất, bởi thế, từ chỗ tập
trung nghiên cứu mối quan hệ “cơ thể - môi trƣờng”, sinh thái học dần chuyển

10


sang nghiên cứu mối quan hệ “con ngƣời - tự nhiên”, “xã hội - sinh quyển”.

Cùng với những chuyển dịch theo hƣớng mở rộng, sinh thái học đã vƣợt ra khỏi
“phạm vi sinh vật học thuần túy, tiếp cận với những vấn đề triết học”. Cái mà phê
bình sinh thái hấp thu không phải là thành quả nghiên cứu cụ thể của khoa học tự
nhiên mà là tƣ tƣởng cơ bản của sinh thái học, hoặc nói cách khác đó là tƣ tƣởng
triết học sinh thái. Tƣ tƣởng triết học sinh thái là khởi điểm lí luận và căn cứ của
Phê bình sinh thái. Vì thế, vào cuối thế kỉ XIX, nhiều ngành nghiên cứu khoa học
xã hội liên quan đến môi trƣờng sinh thái đã xuất hiện với những cái tên nhƣ:
triết học sinh thái, mỹ học sinh thái, sinh thái văn học… Những nghiên cứu liên
quan đến môi trƣờng này đều thể hiện mối quan tâm trƣớc vấn nạn môi trƣờng bị
ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái; truy vấn về hành động bức tử môi trƣờng thiên
nhiên của con ngƣời; đồng thời lên tiếng kêu gọi sự bảo vệ mơi trƣờng sinh thái.
Phê bình sinh thái đƣợc coi là hƣớng nghiên cứu liên ngành, vì thế từ phê bình
sinh thái xuất hiện rất nhiều nhánh nghiên cứu khác nhƣ: nữ quyền sinh thái, hậu
hiện đại sinh thái, hậu thực dân sinh thái,… Và Phê bình sinh thái đƣợc coi là
một môn khoa học mới xuất hiện, đƣợc xếp vào vị trí giao thoa giữa hai ngành:
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn.
Thứ hai về khái niệm Phê bình sinh thái: Có rất nhiều khái niệm về Phê
bình sinh thái. Giáo sƣ Cheryll Glotfelty- ngƣời khởi xƣớng nghiên cứu về Phê
bình sinh thái ở Mỹ cho rằng “Phê bình sinh thái là nghiên cứu văn học gắn liền
với chủ đề môi trƣờng” (Cheryll Glotfelty, 1996). Theo định nghĩa của giáo sƣ
Glotfelty thì Phê bình sinh thái có mối quan hệ mật thiết với văn học. Phê bình
sinh thái thẩm định lại văn hóa nhân loại, nguy cơ sinh thái, nguồn gốc của văn
hóa tƣ tƣởng thông qua văn học. Khi nghiên cứu văn học thì lấy đối tƣợng mơi
trƣờng trái đất làm trung tâm “Phê bình sinh thái mang đến một phƣơng pháp
nghiên cứu văn học lấy trái đất làm trung tâm”. Điểm chính trong khái niệm về
Phê bình sinh thái của Glotfelty là thúc đẩy mối quan hệ hài hòa giữa con ngƣời
và môi trƣờng tạo nên sự cân bằng của hệ thống sinh thái. Thế nhƣng, để có thể
áp dụng đƣợc lí thuyết phê binh sinh thái trong việc đọc văn bản, hay để có thể

11



đọc văn bản văn học từ lăng kính của phê bình sinh thái, cần có những định nghĩa
mang tính diễn giải và chỉ dẫn cụ thể hơn.
Cùng quan điểm về Phê bình sinh thái với Cheryll Glotfelty khi nói về mối
quan hệ giữa văn học và môi trƣờng, Giáo sƣ Lawrence Buell đã đƣa ra định
nghĩa về Phê bình sinh thái nhƣ sau: “Từ tinh thần thực tiễn bảo vệ môi trƣờng,
tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trƣờng” (Lawrence Buell,
1996). Nhƣng cả hai định nghĩa có một hạn chế là chỉ chú trọng đến nội dung tƣ
tƣởng, đề tài sinh thái, môi trƣờng trong tác phẩm văn học mà chƣa chú ý đến giá
trị thẩm mĩ, nghệ thuật ngôn từ của tác phẩm văn học. Thấy đƣợc điểm hạn chế
trong định nghĩa về phê bình sinh thái của Cheryll Glotfelty và Lawrence Buell,
học giả ngƣời Trung Quốc là Vƣơng Nặc đã đƣa ra một định nghĩa về phê bình
sinh thái nhƣ sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hƣớng tƣ tƣởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc
biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Nó phơi bày nguồn gốc văn hóa tƣ tƣởng
của nguy cơ sinh thái đƣợc phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám
phá thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm” (Vƣơng
Nặc, 2010, tr.69). Định nghĩa của Vƣơng Nặc đã bổ sung đầy đủ hơn về khiếm
khuyết trong hai định nghĩa về phê bình sinh thái của Cheryll Glotfelty và
Lawrence Buell, đồng thời chỉ rõ đặc trƣng, mục đích , nhiệm vụ, giới hạn phạm
vi nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu của phê bình sinh thái.
Từ sự nghiên cứu, tổng hợp và phân tích các định nghĩa về phê bình sinh
thái của các nhà nghiên cứu Phê bình sinh thái của Tây Âu và Đơng Á, nhà
nghiên cứu nữ của Việt Nam về phê bình sinh thái là Nguyễn Thị Tịnh Thy có
phát biểu nhƣ sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hƣớng tƣ tƣởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc
biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái thông qua việc khám phá thẩm mỹ sinh thái
và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017b,
tr.157).


12


Nói chung, có rất nhiều khái niệm về phê bình sinh thái, nhƣng theo tôi
khái niệm của Cheryll Glotfelty là ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu hơn cả: “Phê
bình sinh thái là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trƣờng”.
Định nghĩa của Cheryll Glotfelty đƣợc nhiều ngƣời đồng thuận hơn cả và thƣờng
mƣợn định nghĩa này trong định nghĩa của mình về phê bình sinh thái, chỉ có
điều họ giải thích là làm rõ hơn. Tuy nhiên, nhƣ đã nói ở trên, khái niệm của
Cheryll Glotfelty cịn bỏ sót tính chất nghệ thuật của phê bình văn học. Vì vậy,
“Để hiểu đúng, vận dụng đúng u cầu của cả tơn chỉ phê bình sinh thái lẫn nghệ
thuật văn chƣơng thì ngƣời nghiên cứu phải sử dụng lời giải nghĩa cho định
nghĩa chứ không phải sử dụng định nghĩa của Cheryll Glotfelty” (Nguyễn Thị
Tịnh Thy, 2017b, tr.154).
Trên cơ sở đọc, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp những ý kiến định
nghĩa về Phê bình sinh thái của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc, tơi hiểu
Phê bình sinh thái là phƣơng pháp nghiên cứu văn học, nghiên cứu mối quan hệ
hài hòa giữa con ngƣời và tự nhiên trong một chỉnh thể sinh thái, vừa đảm bảo
lợi ích của con ngƣời vừa đảm bảo lợi ích sinh thái, vừa đảm bảo tính thực tiễn
vừa đảm bảo tính thẩm mỹ.
Nhƣ vậy, có nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái với nhiều cách diễn
đạt và sự nhấn mạnh khác nhau. Từ những khái quát này, chúng ta có thể hình
dung ra hai cơng việc cơ bản mà ngƣời nghiên cứu cần tiến hành khi tiếp cận văn
bản văn học, hiện tƣợng văn học, truyền thống văn học từ góc độ phê bình sinh
thái. Thứ nhất, đó là phân tích cách biểu đạt và nội dung về sinh thái, về mối
quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên, về các bài học đạo đức liên quan đến sinh
thái, quá trình nhận thức về sinh thái trong trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó
là phân tích nội dung đó và cách biểu đạt đó có thể có ảnh hƣởng gì trong việc
hình thành ý thức về sinh thái và mơi trƣờng trong ngƣời đọc và có ảnh hƣởng gì

đến chính hiện thực tự nhiên và mơi trƣờng.

13


1.1.2. Vấn đề đơ thị hóa trong phê bình sinh thái
Đô thị là một danh từ, Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, nxb Hà Nội,
1995, đô thị là một không gian cƣ trú của cộng đồng ngƣời sống tập trung và
hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp. Theo thông tƣ 31/TTLĐ
ngày 20/11/1990 của Bộ Xây dựng và Ban Tổ Chức Cán bộ Chính phủ (1990) thì
Đơ thị là điểm tập trung dân cƣ với mật độ cao, chủ yếu là lao động cơng nghiệp,
có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tập trung chun ngành hay trung
chuyển, có vai trị thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội của cả nƣớc hay của
một vùng miền. Khi nói đến đơ thị thì nó thƣờng có những đặc điểm sau: vấn đề
mơi trƣờng,vấn đề dân số, vấn đề tổ chức không gian và môi trƣờng, về kinh tế,
về lao động, về chất lƣợng cuộc sống có sự cách biệt với nơng thơn…
Đơ thị hóa thuộc từ loại động từ. Đơ thị hóa là một quá trình phát triển
rộng rãi lối sống thành thị qua các mặt nhƣ dân số, mật độ dân số, chất lƣợng
cuộc sống, kinh tế, cơ sở hạ tầng… Do q trình phát triển cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nên những cơng ty, xí nghiệp, nhà máy đã mở rộng, dịch chuyển về các
vùng nơng thơn. Vì thế đã hình thành nên các khu công nghiệp mới, khu đô thị
mới tập trung nhiều dân cƣ và lao động phi nông nghiệp. Từ đó nơng thơn hóa
thành thị hay cịn gọi là đơ thị hóa.
Q trình đơ thị hóa đã tác động làm thay đổi lớn đến đời sống, lối sống,
tâm lí, văn hóa, kinh tế, sinh thái mơi trƣờng của vùng miền. Đơ thị hóa vừa
mang lại những giá trị tích cực nhƣng cũng mang đến những hạn chế tiêu cực.
Mặt tích cực của đơ thị hóa là góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, tao
ra nhiều công ăn việc làm và thu nhập cho ngƣời lao động,… Nhƣng bên cạnh
đó, q trình đơ thị hóa cũng có nhiều mặt hạn chế tiêu cực. Do sự thu hút lao
động ở những đô thị nên lao động nông thôn đã chuyển về các đô thị khiến cho

sản xuất nơng nghiệp bị đình trệ. Sự bùng nổ q trình đơ thị hóa khiến cho các
khu đơ thị ln phải chịu áp lực về cơ sở hạ tầng, giao thông, ô nhiễm môi
trƣờng, các tệ nạn xã hội gia tăng,….

14


Trong lịch sử phát triển của phê bình sinh thái, các nhà nghiên cứu sinh
thái chia phê bình sinh thái làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, phê bình sinh thái
chủ yếu dựa vào thuyết sinh thái học chiều sâu. Karen Laura Thornber trong bài
phát biểu tại Viện Văn học cho rằng “Phê bình sinh thái giai đoạn đầu gắn giá trị
đặc biệt với mỹ học và quy tắc về sự gắn kết nơi chốn ở quy mô địa phƣơng hay
vùng miền” (Karen Laura Thornber, 2011). Và các văn bản văn học thƣờng viết
về tự nhiên. Nhƣng đến giai đoạn sau, nhất là từ thế kỉ XX đến nay, phê bình sinh
thái gắn với nhân học và văn hóa học, đặt bình diện xã hội làm trung tâm, đặc
biệt là quan tâm đến vấn đề đơ thị hóa và cơng lý mơi trƣờng. Trong bài Những
tương lai của phê bình sinh thái và văn học, Karen Laura Thornber cũng đã nói:
“Bƣớc sang thế kỉ 21, phê bình sinh thái bắt đầu hƣớng theo một quan điểm thiên
về tính chất nhân chủng học và đặt bình diện xã hội làm trung tâm, giờ đây giới
nghiên cứu lại tập trung vào mảng văn học về thành phố và q trình cơng nghiệp
hóa cũng nhƣ vấn đề công bằng/ bất công bằng môi trƣờng…. Theo đó, nó dịch
chuyển mối quan tâm về nơi chốn từ phạm vi địa phƣơng sang phạm vi xuyên
quốc gia hay toàn cầu” (Karen Laura Thornber, 2017a, tr.317). Tại sao ở giai
đoạn đầu của phê bình sinh thái các sáng tác văn học thƣờng viết về đề tài thiên
nhiên mà sang giai đoạn sau lại viết về đề tài đơ thị hóa. Bởi vì trong thực tế,
trong nhiều báo cáo về môi trƣờng, ngƣời ta đã quan tâm đến vấn đề biến đổi khí
hậu, hiệu ứng nhà kính, mực nƣớc biển dâng lên, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên,
mức độ Carbon dioxide trong khí quyển cao, hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi
trƣờng… Ngƣời ta cũng chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là do q trình đơ thị hóa
diễn ra ồ ạt. Và mọi hoạt động xâm hại tự nhiên cũng nhằm phục vụ cho q

trình đơ thị hóa ấy. Nhận ra những hiểm họa mơi trƣờng đó, mọi ngành, mọi
ngƣời đều bắt tay vào cuộc bảo vệ môi trƣờng. Các nhà khoa học theo chủ nghĩa
môi trƣờng cũng kêu gọi cộng đồng bảo vệ môi trƣờng nhƣng hiệu quả cũng
không nhƣ mong muốn, môi trƣờng tiếp tục bị bức tử. Trƣớc thực trạng ấy, văn
học sinh thái và phê bình sinh thái vào cuộc nhƣ một cam kết tự nguyện về trách
nhiệm của nhà văn, nhà phê bình văn học về môi trƣờng: “Tôi sớm nhận ra rằng,
điều quan trọng và thực sự cấp thiết, là phải phân tích xem văn học, trong ý nghĩa
15


là một dạng thức diễn ngơn, đã có những giải quyết nhƣ thế nào trƣớc những
nguyên nhân và hậu quả của quá trình phá hủy hệ sinh thái một cách thản nhiên”
(Karen Laura Thornber, 2017b, tr.275).
Không thể phủ nhận những lợi ích, giá trị mà q trình đơ thị hóa mang lại
cho đời sống của con ngƣời nhƣng những nhà văn, bằng sự cảm nhận của mình,
họ đã chỉ ra mặt trái của q trình đơ thị hóa, văn minh đơ thị. Họ đã có những
sáng tác văn chƣơng cảnh báo về sự tác động tiêu cực của quá trình đơ thị hóa
đến sinh thái mơi trƣờng.
Các nƣớc Tây Âu là những nƣớc đầu tiên phát triển nhanh chóng quá trình
đơ thị hóa. Nền sản xuất chủ yếu của các nƣớc phƣơng Tây là nền sản xuất Tƣ
bản chủ nghĩa. Những cánh đồng, những thảo ngun, những dịng sơng nhƣờng
chỗ cho các nhà máy xí nghiệp, những cơng trình thủy lợi... Điều đó gợi cảm
hứng cho các nhà văn khi họ dự cảm thấy đƣợc những hệ lụy, tiêu cực từ q
trình sản xuất cơng nghiệp, đơ thị hóa trong tƣơng lai. Chính vì thế đã có hàng
loạt những tác phẩm văn học sinh thái ra đời. Có thể kể đến những tác phẩm sau:
Frankenstein (1818) của nữ nhà văn ngƣời Anh Mary Sheley, Walden (1854) của
Henry David Thoreau, Cư dân của tuần lộc (1952) của Farley Mowat, Cội rễ của
bầu trời (1956) của Romain Gary, Mùa xuân im lặng (1962) của Carson, Sa mạc
Solitarie (1968) của Edward Abbey, Đoạn đầu đài (1986) của Chyngyz
Aitmatov, Linh Dương và Gà Nước(2003) của Margaret Atwood…Trong những

sáng tác kinh điển ấy, một số tác phẩm nói về mối quan hệ gắn kết hài hòa giữa
con ngƣời và tự nhiên, một số tác phẩm lại lên án phản đối những phát minh
khoa học đã làm thay đổi hệ sinh thái môi trƣờng, tàn sát thiên nhiên. Các nhà
văn cũng cảnh báo rằng, nạn nhân của những hậu quả đó khơng ai khác chính là
lồi ngƣời. Nhƣ vậy, từ góc nhìn cân bằng sinh thái, các nhà văn đã phản đối văn
minh đô thị ồn ào, tán dƣơng thế giới tự nhiên, kêu gọi mọi ngƣời bảo vệ sinh
thái, bảo vệ môi trƣờng sống của tất cả các loài trên trái đất, tạo mối quan hệ hài
hòa giữa con ngƣời và tự nhiên.

16


Ở Việt Nam, từ sau năm 1975, đặc biệt là từ sau 1986, khi đất nƣớc bƣớc
vào thời kì đổi mới , kinh tế thị trƣờng cùng q trình đơ thị hóa tăng nhanh đã
làm nảy sinh nhiều vấn đề bức thiết trong xã hội. Tiến trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tăng trƣởng kinh tế cùng gia tăng dân số có tác động tiêu cực khơng
nhỏ đến mơi trƣờng sinh thái. Điều đó khiến cho văn học nƣớc nhà có nhiều mối
quan tâm thay đổi so với thời kì trƣớc. Từ góc nhìn sinh thái, một số nhà văn
Việt Nam đã phản ánh trong trang viết của mình những dự cảm, những suy tƣ
trăn trở về môi trƣờng, về con ngƣời, về xã hội… dƣới tác động của quá trình đơ
thị hóa. Những tác phẩm mang đậm dấu ấn sinh thái khơng thể khơng kể đến đó
là: Sống mãi với cây xanh, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh
Châu, Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp, Mối và người, Kiến và người của
Trần Duy Phiên, … và đặc biệt khơng thể khơng nhắc đến đó là những sáng tác
của nhà văn Đỗ Phấn. Nguyễn Minh Châu đƣợc coi là nhà văn tiên phong trong
phong trào sáng tác về văn học sinh thái. Ông là ngƣời rất giỏi khi có những dự
cảm đầy lo âu về tƣơng lai đơ thị. Từ góc nhìn sinh thái của mình, nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp, Trần Duy Phiên đã nói lên quan điểm của mình là trong thời
đại ngày nay thì con ngƣời khơng cịn vị trí trung tâm, con ngƣời cũng chỉ là
thành viên trong thế giới tự nhiên. Trong Muối của rừng, con ngƣời đứng giữa

thiên nhiên cảm thấy mình thật nhỏ bé. Chính cỏ cây, con vật đã làm cho con
ngƣời phải suy nghĩ lại hành động của mình. Trong truyện ngắn Kiến và người,
Mối và người, Nhện và người, con ngƣời tƣởng mình là chủ nhân của vũ trụ nên
tự cho mình cái quyền sinh quyền sát với tự nhiên nhƣng khơng ngờ có ngày
chính tự nhiên đã quay trở lại trả thù con ngƣời, và con ngƣời lâm vào cảnh đáng
thƣơng, dở khóc dở cƣời. Nhƣ vậy, đằng sau cuộc chiến sinh tử giữa loài ngƣời
và loài vật là lời cảnh tỉnh của nhà văn đối với con ngƣời và xã hội khi phá hoại
môi trƣờng sống của mn lồi trên núi rừng, cánh đồng hay tiến hành đơ thị hóa
một cách tràn lan khắp nơi. Nếu nhƣ nhà văn Nguyễn Minh Châu có những sáng
tác dự báo, phản ánh sự bắt đầu manh nha của q trình đơ thị hóa lấn dần về các
đồng q, núi rừng thì nhà văn Đỗ Phấn đã phản ánh trong sáng tác của mình
những tác động sâu rộng, mạnh bạo của q trình đơ thị hóa làm thay đổi đời
17


sống tự nhiên cũng nhƣ đời sống xã hội của con ngƣời, đó là thiên nhiên, khí hậu
thay đổi giữa các vùng miền, sự tận diệt của một số loài động vật, lối sống văn
hóa có chiều đi xuống, mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời cũng trở nên
lỏng lẻo mờ nhạt,…
Có thể nói, sự hình thành dịng văn học viết về đô thị là mảng sáng tác
mang lại cho ngƣời đọc những nhận thức sâu sắc về mặt trái của văn minh. Các
nhà văn đã chỉ rõ đơ thị cùng với q trình cơng nghiệp hóa là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng suy thái môi trƣờng, tách biệt con ngƣời ra khỏi tự
nhiên và rơi vào khủng hoảng nhân tính.
1.1.3. Vấn đề phụ nữ trong phê bình sinh thái
1.1.3.1.Lịch sử hình thành của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái
Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (Ecofeminism) là một phong trào chính trị
xã hội ra đời ở phƣơng Tây cuối thập niên 70 và phát triển mạnh vào thập niên
90 của thế kỉ XX. Phụ nữ tham gia vào các phong trào môi trƣờng, đặc biệt bảo
vệ và bảo tồn. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX, phụ nữ đã nỗ lực bảo vệ động vật

hoang dã, thực phẩm, khơng khí và nƣớc. Những nỗ lực này phụ thuộc phần lớn
vào những phát triển mới trong phong trào mơi trƣờng từ các nhà văn có ảnh
hƣởng, nhƣ Henry David Thoreau, Aldo Leopold, John Muir và Rachel Carson...
Các ví dụ cơ bản về những nỗ lực của phụ nữ trong thế kỷ 20 là những cuốn sách
Mùa xuân im lặng của Rachel Carson và Refuge của Terry Tempest Williams.
Những tác phẩm này thực sự đã làm cho ngƣời Mỹ thấy đƣợc những tác hại môi
trƣờng mà họ đã gây ra, và tạo ra một nền tảng cho sự thay đổi.
Trong quá trình hình thành và phát triển ý thức nữ quyền thì nữ quyền
sinh thái đƣợc xem là một nhân tố chủ chốt tạo nên một bƣớc ngoặt của phê bình
nữ quyền. Francoise d’Eaubonne – nữ học giả ngƣời Pháp- trong cuốn Chủ nghĩa
nữ quyền hay là chết (1974) đã đề cập đến thuật ngữ “chủ nghĩa nữ quyền sinh
thái”. Trong cuốn sách này, bà nêu lên mối tƣơng đồng giữa phụ nữ và tự nhiên,
bởi phụ nữ và tự nhiên đều chịu sự đàn áp, bóc lột, thống trị của một nền tảng xã

18


×