Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của bình nguyên lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 126 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HUỲNH THỊ XUÂN TRANG

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 80 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BÌNH DƢƠNG - 2018


UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HUỲNH THỊ XUÂN TRANG

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 80 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN KHA


BÌNH DƢƠNG - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chƣa đƣợc cơng bố trong bất kì cơng
trình nào khác.
Nếu có sai phạm gì tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Xuân Trang

i


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn: “Quan niệm nghệ thuật
về con người trong tiểu thuyết của Bình Ngun Lộc”, ngồi sự nổ lực của bản
thân, tơi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ tận tình, sự góp ý q báu, khích lệ, động viên của
thầy hƣớng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Kha. Tự đáy lịng mình, tôi xin bày tỏ sự biết
ơn sâu sắc tới thầy.
Bên cạnh đó, trong q trình học tập và thực hiện đề tài, tơi cịn đƣợc các
thầy cơ Khoa Sƣ phạm Ngữ văn, Phòng Sau đại học và lãnh đạo Trƣờng Đại học
Thủ Dầu Một tạo điều kiện, giúp đỡ tận tình. Ngồi ra, hồn thành luận văn này, tơi
cịn nhận đƣợc sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban Giám hiệu và các thầy cô giáo
Trƣờng THCS Mỹ Phƣớc, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, những ngƣời đã luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi tham gia học tập và hồn thành đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!...
Bình Dương, ngày 02 tháng 3 năm 2019
Tác giả luận văn


Huỳnh Thị Xuân Trang

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ................................................................................................................ i
Lời cảm ơn .................................................................................................................. ii
Mục lục ....................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG NGHIÊN
CỨU VĂN HỌC VÀ KHÁI LƢỢC VỀ NHÀ VĂN BÌNH NGUYÊN
LỘC ....................................................................................................... 12
1.1. Khái niệm “quan niệm nghệ thuật về con ngƣời” và việc vận dụng khái niệm
vào việc nghiên cứu ở Việt Nam. .............................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm “quan niệm nghệ thuật” và “quan niệm nghệ thuật về con
người” trong nghiên cứu văn học ............................................................................. 12
1.1.2. Tình hình tiếp nhận khái niệm “quan niệm nghệ thuật về con người” và
ứng dụng vào nghiên cứu trong văn học Việt Nam................................................... 19
1.2. Giới thiệu tác giả Bình Nguyên Lộc .................................................................. 22
1.2.1. Tiểu sử nhà văn Bình Nguyên Lộc .............................................................. 22
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Bình Nguyên Lộc .................................................. 24
1.2.3. Quan niệm sáng tác của Bình Nguyên Lộc................................................. 26
Chƣơng 2. CÁC BÌNH DIỆN CON NGƢỜI ĐƢỢC THỂ HIỆN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC ................................................ 31
2.1. Con ngƣời cá nhân ............................................................................................. 31
2.1.1. Con người cô đơn trước số phận và thời cuộc ........................................... 31
2.1.2. Con người vật lộn với số phận để tìm hạnh phúc ....................................... 35
2.1.3. Con người trả giá cho hạnh phúc vì những toan tính vị kỷ ........................ 39

2.2. Con ngƣời trong quan hệ gia đình, q hƣơng................................................... 43
2.2.1. Khát vọng kết nối, hịa hợp dân tộc ............................................................ 44
2.2.2. Con người với tình cảm gia đình, quê hương nồng hậu ............................. 47

iii


2.3. Con ngƣời với thiên nhiên.................................................................................. 55
2.3.1. Con người hòa hợp với thiên nhiên ............................................................ 56
2.3.2. Tình yêu thiên nhiên bình dị của miền quê Nam Bộ ................................... 58
2.3.3. Sự trân quý cảnh sắc thiên nhiên đô thành................................................. 61
2.4. Con ngƣời với thế giới tâm linh ......................................................................... 62
2.4.1. Tâm linh trong đời sống thường ngày của người Nam Bộ ......................... 63
2.4.2. Quan niệm về thiện - ác và cái nhìn nhân văn của nhà văn ....................... 67
Chƣơng 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA
BÌNH NGUYÊN LỘC .......................................................................... 75
3.1. Khơng gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Bình Ngun Lộc .............................. 75
3.1.1. Bức tranh làng quê và đô thành mang dấn ấn người Nam Bộ ................... 75
3.1.2. Không gian gia đình - “tế bào” kết nối đời sống con người Nam Bộ ........ 78
3.2. Xây dựng tình huống bộc lộ tính cách nhân vật ................................................ 82
3.2.1. Những tình huống xung đột đời thường ...................................................... 82
3.2.2. Tình huống bi kịch ...................................................................................... 85
3.2.3. Tình huống giả tưởng.................................................................................. 90
3.3. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................ 92
3.3.1. Vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của con người Nam Bộ ....................................... 92
3.3.2. Khắc họa tính cách nhân vật gắn với cuộc đời, số phận ................................. 95
3.4. Ngơn ngữ góp phần cá thể hóa, mang đậm dấu ấn con ngƣời Nam Bộ ............ 99
3.4.1. Ngôn ngữ sinh hoạt đời thường gần gũi với cuộc sống người Nam Bộ ..... 99
3.4.2. Sử dụng khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca .......................... 102

3.4.3. Ngơn ngữ đời thường mang tính thị dân hiện đại của xã hội đô thị ........ 103
3.4.4. Ngôn ngữ giàu tính triết lí ........................................................................ 105
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 116

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà văn Nga M.Gorki từng nói: “Văn học là nhân học” (Trần Đình Sử
(1998), tr87). Từ xƣa đến nay, văn học luôn lấy con ngƣời làm đối tƣợng trung tâm.
Ngƣời đọc đến với văn chƣơng bắt gặp một thế giới mới hiện ra nhƣ chính thế giới
thực tại với biết bao con ngƣời, bao số phận đƣợc các nhà văn, nhà thơ tái hiện trong
tác phẩm. Từ đó, văn học làm cho con ngƣời thêm phong phú, tạo khả năng cho con
ngƣời lớn lên, và ngày càng hiểu về con ngƣời nhiều hơn.
Trong lịch sử văn học nhân loại, từ văn học dân gian đến văn học viết, chúng
ta có thể nhận thấy dù văn học ca ngợi cái đẹp hay phê phán cái xấu, cái ác thì mục
đích cuối cùng của văn học hƣớng tới vẫn là con ngƣời. “Văn học và cuộc sống là
hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.” (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2014).
Văn học thể hiện những mảnh đời, những số phận không đơn thuần chỉ để độc giả
cảm nhận về con ngƣời qua từng mảnh đời, số phận ấy. Điều quan trọng là làm cho
văn học đồng hành cùng nhân loại với tƣ tƣởng nhân đạo mà nhà văn đã gửi gắm
trên từng trang viết, cốt lõi của văn học là vì con ngƣời.
Quan niệm về con ngƣời chính là tầm nhìn, tầm cảm, tầm lý giải, đánh giá
của nhà văn về con ngƣời đƣợc coi là “mẩu số chung”, thƣớc đo của sự tiến bộ của
văn học. Thành tựu của nền văn học Việt Nam hiện đại đã để lại dấu ấn trong quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời trong sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn nhƣ: Hồ
Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tn, Nam Cao, Tơ Hồi, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, … Đặc biệt khi nói đến bộ phận văn học Nam Bộ thời kì hiện

đại đã xuất hiện rất nhiều tác giả đã có những cống hiến cho sự nghiệp văn học dân
tộc. Trong đó có thể kể đến tên tuổi các nhà văn nhƣ: Trƣơng Vĩnh Kí, Nguyễn
Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Vƣơng Hồng Sển, Kiều Thanh Quế, Phi Vân, Sơn
Nam, … Trên mảnh đất Bình Dƣơng, Nam Bộ cũng xuất hiện hai tác giả tiêu biểu
có những đóng góp khơng nhỏ cho bộ phận văn học Nam Bộ đó là Bình Ngun

1


Lộc và Huỳnh Văn Nghệ. Nếu mọi ngƣời biết đến Huỳnh Văn Nghệ từ bài thơ Nhớ
Bắc với đại danh Thi tướng rừng xanh thì nhà văn Bình Nguyên Lộc là một tác giả
có sự lao động nghệ thuật nghiêm túc với sự nghiệp sáng tác đa dạng và khối lƣợng
tác phẩm khơng nhỏ, có ngƣời gọi ơng là “nhà văn nghìn truyện ngắn”...
Trên mảnh đất Tân Un giáp sơng Đồng Nai - nơi chứng kiến nhiều tội ác
của bọn thực dân đế quốc, nơi sinh ra những ngƣời con cách mạng kiên cƣờng dũng
cảm và nơi ấy cũng là mảnh đất quê hƣơng của nhà văn một lòng hƣớng về cội
nguồn dân tộc. Với tình yêu quê, yêu ngƣời tha thiết, Bình Nguyên Lộc – ngƣời con
đất Thủ năm nào với đam mê viết báo làm văn đã để lại cho đời những giá trị văn
chƣơng lƣu danh đến ngày nay. Nghiên cứu “Quan niệm nghệ thuật về con người
trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc” là tìm về những giá trị mà nhà văn đã lí
giải, cắt nghĩa, thể hiện tầm nhìn, tầm cảm về con ngƣời trong tác phẩm của ơng. Đó
là những suy nghĩ, trăn trở và cảm nhận về những con ngƣời Nam Bộ trong bối cảnh
xã hội những năm 1954 đến 1975. Từ đó, Bình Nguyên Lộc giúp chúng ta tìm về
những giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc và khát vọng sống tốt đẹp trên mỗi trang
tiểu thuyết của ông về sự đời, lẽ phải, tình yêu và cội nguồn là những bài học sống
cao quý, đầy ý nghĩa dành cho con ngƣời. Với đề tài: “Quan niệm nghệ thuật về
con người trong tiểu thuyết của Bình Ngun Lộc”, chúng tơi mong muốn sẽ tìm
hiểu đƣợc những giá trị cao đẹp mà nhà văn gửi gắm trong từng nhân vật, từng con
ngƣời trong tác phẩm của ông.
2. Lịch sử vấn đề

Gần bốn mƣơi năm cầm bút (1936-1975), Bình Nguyên Lộc đã để lại cho đời
một khối lƣợng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại nhƣ: nghiên cứu, cổ văn, dân
tộc học, ngôn ngữ học, tạp bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ… Nhƣng do hoàn cảnh
đất nƣớc chiến tranh, nhà văn phải nhiều lần tản cƣ nên một số tác phẩm bị thất lạc.
Tuy nhiên với khối lƣợng tác phẩm đƣợc đăng báo và xuất bản, Bình Nguyên Lộc
đã thể hiện sự đóng góp trên văn đàn dân tộc. Rất nhiều sáng tác và cơng trình
nghiên cứu của nhà văn xoay quanh chuyện đời, chuyện ngƣời và thời cuộc, đặc biệt

2


đáng chú ý nhất là ở thể loại truyện ngắn đƣợc xem là một trong những thành cơng
nhất của Bình Nguyên Lộc. Trong đó, thể loại tiểu thuyết cũng có những thành công
không kém so với truyện ngắn. Ở lĩnh vực này, nở rộ với nhiều tiểu thuyết tiêu biểu:
“Đò Dọc, Gieo gió gặt bão, Món nợ thiêng liêng, Xơ ngã bức tường rêu, Tỳ vết tâm
linh,…”. Dù viết ở thể loại truyện ngắn hay tiểu thuyết, Bình Nguyên Lộc cũng
hƣớng ngịi bút của mình về con ngƣời, cuộc sống văn hóa Nam Bộ và cội nguồn
dân tộc. Vì vậy, nghiên cứu “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết
của Bình Nguyên Lộc” là một trong những đề tài thú vị để khám phá ngòi bút của
một nhà văn ln hƣớng mình về dân tộc, q hƣơng đất nƣớc với bao tình cảm thiết
tha và sâu nặng.
Để có cơ sở cho cái nhìn bao quát, sâu sắc, đảm bảo tính khách quan khoa
học cho đề tài: “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Bình
Nguyên Lộc”, chúng tôi xin lƣợc khảo những nghiên cứu, đánh giá về sáng tác của
nhà văn Bình Nguyên Lộc khi xuất hiện trên văn đàn.
Nhà văn Vũ Hạnh đã có nhận xét trong Điểm sách (ngày 01 tháng 6 năm
1960): “Bình Ngun Lộc là một nhà văn phong phú. Ơng đề cập đến nhiều vấn đề,
nói đến rất nhiều cảnh sống và bày tỏ rất nhiều thái độ... Bình Nguyên Lộc cịn
khiến ta mến u vì cái sắc thái địa phương đậm đà ở trong tác phẩm. Với Bình
Nguyên Lộc chúng ta có dịp trở về với ruộng đồng miền Nam, chui qua cái ngõ

ngách của đơ thành, tìm đến những hàng quán cũ, chứng kiến những mẩu sống,
những thói tục và những con người khơng thể tìm thấy ở bất cứ một nơi nào khác”.
Nhà văn, nhà phê bình Nguyễn Văn Xuân cũng có ý kiến tƣơng đồng nhƣng đƣợc
diễn đạt một cách bộc trực: “Nội dung truyện ngắn của ông, cũng như của Phan Du
hướng về cái Chân – Thiện – Mĩ cổ điển. Ông khác Phan Du ở chỗ ít lý luận, phát
triển dài dịng (tơi nói ít hơn thôi). (…) nếu ông cứ để truyện phát triển theo thực
chất của nó, sự việc tới đâu trình bày cảm nghĩ nhân vật tới đó thì thật ý vị, thâm
trầm.” (Nguyễn Thị Thùy Trang, 2008). Còn riêng về tiểu thuyết thì có nhiều ý kiến
trái chiều. Nguyễn Văn Sâm, Cao Huy Khanh với các bài in trên Tạp chí Văn học số

3


18- tháng 7 năm 1987 đều cho rằng Bình Nguyên Lộc chỉ thành cơng ở tiểu thuyết
Đị dọc. Ơng Cao Huy Khanh cho rằng: “… cá tính ưa thích sự phân tích lý luận
bác tạp rộng về bề mặt nhưng thiếu chiều sâu”. Ơng Nguyễn Văn Sâm thì bảo
“Bình Ngun Lộc đã giải thích quá nhiều lần, nên người đọc dễ chán, người ta đọc
tưởng mình đọc sách học hơn là đang thưởng thức một sáng tác phẩm.” (Tạp
chí Văn học, Hoa Kỳ, số 18, tháng 7 năm 1987). Mỗi nhà phê bình có những ý kiến
khác nhau nhƣng điều cốt lõi mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy Bình Ngun
Lộc đã làm nghề vơ cùng nghiêm túc, bằng tất cả lịng chân thành và tình u của
“một bút lực lớn” để cống hiến cho độc giả nhiều tác phẩm văn chƣơng giá trị. Nhà
văn Võ Phiến cũng có bài viết: “Bình Ngun Lộc, một nhân sĩ trong làng văn,
1998”, tác giả đã sơ lƣợc về sự nghiệp cầm bút của nhà văn và nêu ra những nhận
định đối với những sáng tác của Bình Nguyên Lộc. Bài viết đã giúp chúng ta cảm
nhận đƣợc những trăn trở, suy tƣ và tình cảm của nhà văn làm nên những giá trị
nghệ thuật độc đáo. Võ Phiến đã ghi lại những ý kiến xoay quanh truyện ngắn của
Bình Nguyên Lộc qua các bài phỏng vấn Nguiễn Ngu Í, Nguyễn Nam Anh, Viên
Linh, hay Nhất Linh. Đặc biệt, Sơn Nam đã có một bài viết dành cho Bình Ngun
Lộc. Sơn Nam đọc sách Bình Ngun Lộc khơng đơn thuần vì mến mộ mà cịn là

“… muốn có sẵn trong tủ một quyển sách có cơng dụng thiết thực. Cơng dụng
gì? (...) Chúng tơi đọc Nhốt gió để tìm một vài phút lâng lâng (…) Thế nào là lâng
lâng? (...). Muốn thưởng thức Nhốt gió thì nên lật ra, đọc một vài hàng, hoặc vài
chục hàng để rồi xếp lại, hoặc bỏ vài chục trang, đọc một đoạn cho vui. Người đọc
không phải cố gắng, chịu cực để theo dõi nhơn vật hoặc suy nghĩ gì cả. Xin giới
thiệu vài đoạn (...). Cứ đọc Nhốt gió khi nào mình thấy thiếu thốn một chút hương vị
quen thân.” (Thời tập, Sài Gòn, số đã dẫn.).
Thụy Khuê đánh giá khá toàn diện về Bình Nguyên Lộc trong bài viết: Bình
Nguyên Lộc (1914-1987) đất và con người, 2006. Bài viết này đã khái quát về cuộc
đời cầm bút của nhà văn với những thành công đặc sắc ở thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết (gồm 820 truyện ngắn (in năm tập) và 52 tiểu thuyết (in 11 quyển). Bà đã

4


nhận định: Bình Nguyên Lộc là nhà văn lao động nghệ thuật nghiêm túc có lập
trƣờng văn học riêng và mang tinh thần hịa hợp dân tộc cao, điều đó đƣợc thể hiện
trong các sáng tác của ông tiêu biểu với tiểu thuyết Đò dọc. Trong bài viết này,
Thụy Khuê còn ca ngợi ý thức về tự do của nhà văn qua truyện ngắn Nhốt gió để từ
đó nghe đƣợc âm thanh của đời sống mà Sơn Nam đã từng viết: “… cứ phải đọc
Nhốt gió, đọc mà khơng hiểu tại sao “thỉnh thoảng đọc lại năm ba hàng, tình cờ, lại
thấy vui và mới. Nó giống như ca dao, những câu ca dao bằng văn xuôi.” (dẫn theo
lời của Võ Phiến, trong Tuyển tập của Bình Nguyên Lộc, 2002). Bài viết cịn đề cập
đến khuynh hƣớng hiện thực “thơ lậu”, đây là một phong cách văn chƣơng đặc biệt
ở Bình Nguyên Lộc. Dƣới con mắt của nhà văn thì mọi thứ vận động khơng ngừng,
Bình Ngun Lộc cịn dựng lên một thế giới lai: thế giới chung lộn, lai tạp, giữa
ngƣời Việt và ngƣời Hoa, ngƣời Việt và ngƣời Chàm....trong Nhốt gió. Hình ảnh
con ngƣời và thiên nhiên, con ngƣời và đất nƣớc, con ngƣời và cõi âm, di
dân…trong sáng tác của ông bằng giọng văn giản dị gần gũi dễ hiểu, chứa chan đầy
tâm tình. Bài viết với nhiều mục nhƣ: Sài Gòn thổ ngơi thơm phức hồn ma cũ, Cuộc

cạnh tranh sinh tồn, Cõi âm, Tiêu diệt dân Chàm, Lịch sử di dân và ý thức đất
nước… Đây là một bài viết có cái nhìn khái qt về phong cách và sự nghiệp văn
chƣơng của Bình Nguyên Lộc ở thể loại truyện ngắn.
Đến với văn chƣơng Bình Nguyên Lộc dƣờng nhƣ ngƣời ta nhìn thấy phảng
phất nét văn hóa Nam Bộ. Khảo sát sáng tác của Bình Ngun Lộc từ bình diện văn
hố, Phạm Phú Phong đã có bài viết: “Văn chương Bình Ngun Lộc – từ gốc nhìn
văn hóa, 2007”. Theo Phạm Phú Phong, những tác phẩm của Bình Nguyên Lộc in
thành sách chƣa đƣợc một phần ba (gồm một cơng trình nghiên cứu ngơn ngữ, hai
tập thơ, một tiểu thuyết bằng thơ, 30 tập văn xuôi gồm tùy bút, truyện ngắn, truyện
dài…). Nhận định của Phạm Phú Phong về Bình Nguyên Lộc là một nhà văn ln
hƣớng ngịi bút về cội nguồn, ln truy ngun tìm kiếm nguồn gốc tổ tiên từ đất
Bắc di dân vào Nam. Bài viết cịn đề cập đến thành cơng ở thể loại tiểu thuyết tâm lý
nhƣ: Đò dọc, Hoa hậu Bồ Đào,… Trong bài viết, ơng cịn phân tích những đặc sắc

5


về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật ngôn từ. Tác giả ví Bình Ngun Lộc nhƣ một
nhà ảo thuật về ngôn từ và sắc sảo trong bút pháp phân tích tâm lý nhân vật. Đó là
ngơn ngữ tri thức văn hóa lịch sử.
Bình Ngun Lộc – một nhà văn ln hƣớng mình với cội nguồi dân tộc, con
ngƣời và vùng đất Nam Bộ, theo hƣớng nghiên cứu này còn có bài viết của Nguyễn
Vy Khanh: Bình Ngun Lộc và tình đất, 2007; Nguyễn Mạnh Trinh: “Bình Nguyên
Lộc, nhìn từ con người và các tác phẩm, 2007; Nguyễn Thị Thu Trang cũng có bài
viết: “Con người và văn hóa Nam bộ trong truyện ngắn Bình Nguyên Lộc, 2009.”
Trong bài viết: Bình Nguyên Lộc, tổng quan văn chương vùng đất Đồng Nai,
2014, Hồ Trƣờng An cũng đã nói lên những cái hay, đặc sắc trong các tiểu thuyết
của Bình Nguyên Lộc nhƣ: Đị dọc, Gieo gió gặt bão, Hoa hậu Bồ Đào, Xô ngã bức
tường rêu, Uống lộn thuốc tiên,… Bài viết của Hồ Trƣờng An cũng đối sánh tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc với các tác giả khác nhƣ Tú Hoa, Tùng Long, Nguyễn

Ngọc Mẫn, Dƣơng Hà, Dƣơng Trử La, Sơn Nam, Hồ Biểu Chánh… là những cây
bút nổi tiếng trên văn đàn miền Nam lúc bấy giờ. Tiêu biểu ở sáng tác của các nhà
văn là những câu chuyện gần gũi với vùng văn hóa sơng nƣớc Nam Bộ nhƣ Rừng
mắm (Bình Nguyên Lộc), Hương rừng Cà Mau (Sơn Nam), Cha con nghĩa nặng
(Hồ Biểu Chánh). Ý nghĩa độc đáo của Rừng mắm khiến chúng ta ngậm ngùi thƣơng
cảm “về đức hi sinh cao cả của lớp người tiên phong đi mở đất, ở cái dũng mãnh
kiên cường của chí khí dân tộc, ở niềm tin rực rỡ của lớp hậu sinh về đất nước mai
sau nối thêm chiều dài trên biển Nam Hải”. Trong bài viết, tác giả cũng khẳng định
ngịi bút của nhà văn Bình Ngun Lộc trong sáng, thiên lƣơng chứng tỏ đƣợc cái
tánh hồn nhiên khả ái của ngƣời Nam Kỳ nói chung, cái bộc trực của đa số cây bút
gốc Nam Kỳ nói riêng.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể nhận thấy Bình Ngun Lộc cũng là một trong
những nhà văn có những cống hiến nghệ thuật không nhỏ cho sự nghiệp văn chƣơng
Nam Bộ. Bình Ngun Lộc dù khơng viết đƣợc một thơn q tiền chiến, song ngôn
ngữ miền Nam, văn chƣơng theo giọng điệu miền Nam mà Bình Nguyên Lộc đã

6


phần nào thể hiện đƣợc tinh thần mộc mạc của một nhà văn Nam Bộ với tình yêu
quê hƣơng sâu nặng.
Trong số những cơng trình nghiên cứu về Bình Ngun Lộc, chúng ta không
thể không nhắc đến nhà biên khảo văn học và sử học Việt Nam Nguyễn Quang
Thắng đã có cơng trình nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Bình Nguyên Lộc nhƣ:
Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (I,II,III,IV) xuất bản năm 2001 và Bình Ngun Lộc với
hương gió Đồng Nai xuất bản năm 2010. Trong những bài viết của ơng, đã cho thấy
Bình Ngun Lộc là một cây bút sung mãn và sắc nét nhất của đồng bằng Nam Bộ
chuyên về tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp bút của văn học Việt Nam thời hiện đại. Tác
phẩm của Bình Ngun Lộc đã góp phần khơng nhỏ vào tiến trình văn học Việt
Nam, nhất là làm sống dậy và lớn lên cái tinh thần chiến đấu hăng say, lạc quan của

nhân dân ta nơi vùng đất mới này. Với khối lƣợng tác phẩm ở các lĩnh vực khác
nhau nhƣ: nghiên cứu, cổ văn, dân tộc học, ngôn ngữ học, tiểu thuyết, truyện
ngắn,… Nguyễn Quang Thắng đã minh chứng cho công trình nghiên cứu về những
đóng góp to lớn của Bình Ngun Lộc trên văn đàn.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu, bài viết về tác giả Bình Nguyên Lộc
vừa dẫn, trong nhà trƣờng, đã có một số đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
nghiên cứu về Bình Nguyên Lộc: Luận văn “Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình
Ngun Lộc” của Nguyễn Lƣơng Hải Khơi – Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, 2004 ; Luận văn “Văn hóa và con người Nam bộ trong tác phẩm Bình
Ngun Lộc” của Nguyễn Văn Đơng – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân Văn,
2010; Luận văn “Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc” của Trần
Thị Tuyết Hoa – Trƣờng đại học Cần Thơ, 2010; “Từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc” của Trần Thị Thúy Hằng – Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012; Luận án tiến sĩ: “Truyện ngắn Sơn Nam và Bình
Nguyên Lộc từ gốc nhìn văn hóa” của Nguyễn Văn Đơng – Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội Nhân Văn, 2015;… Các cơng trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến
con ngƣời trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc nhƣng trên bình diện rộng (chủ yếu

7


ở thể loại truyện ngắn, đƣợc xem là một thành cơng đặc sắc của Bình Ngun Lộc)
mà chƣa đi cụ thể ở mảng tiểu thuyết.
Điểm qua những cơng trình nghiên cứu về Bình Ngun Lộc trên đây, chúng
tơi chỉ nêu một số bài viết tiêu biểu, đó là những cơng trình nghiên cứu hữu ích và
có giá trị cho thế hệ sau kế thừa và học tập. Với đề tài: “Quan niệm nghệ thuật về
con người trong tiểu thuyết của Bình Ngun Lộc”, chúng tơi cũng mong muốn sẽ
đóng góp một phần nhỏ bé cho việc khám phá và lƣu giữ những giá trị văn chƣơng
của nhà văn dành cho con ngƣời Nam Bộ cùng với những giá trị văn hóa của một
nhà văn ln hƣớng mình về dân tộc, với cội nguồn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết
của Bình Nguyên Lộc”, luận văn hƣớng đến những mục đích cụ thể sau:
Thơng qua việc khảo sát tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc để thấy đƣợc sự
nhận thức, sự đánh giá mang tầm khái quát của nhà văn Bình Ngun Lộc về con
ngƣời. Qua đó, thấy đƣợc sự đóng góp của Bình Ngun Lộc cho tiểu thuyết Nam
Bộ và nền văn học Việt Nam hiện đại.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và những yếu tố chi phối quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc. Nhiệm vụ nghiên cứu này đƣợc
thể hiện ở hai điểm:
+ Trình bày lí luận quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và việc tiếp nhận lí
luận quan niệm về con ngƣời trong văn học Việt Nam. Việc làm rõ khái niệm “quan
niệm nghệ thuật về con người” là cơ sở lí luận, làm công cụ để triển khai việc
nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong tiểu thuyết của Bình Nguyên
Lộc;
+ Bên cạnh việc làm rõ tiền đề lí luận nhƣ đã nói ở trên, việc tìm hiểu về tác
giả Bình Nguyên Lộc nhƣ: cuộc đời và sự nghiệp sáng tác, quan niệm văn chƣơng

8


của nhà văn – những yếu tố chi phối tƣ tƣởng nghệ thuật của Bình Ngun Lộc,
trong đó quan niệm về con ngƣời là cốt lõi cũng là việc làm cần thiết.
- Khảo sát các bình diện con ngƣời đƣợc thể hiện trong tiểu thuyết của Bình
Nguyên Lộc để thấy rõ tầm cảm, tầm nhận thức, lý giải về con ngƣời của nhà văn.
- Khảo sát các biện pháp nghệ thuật nhà văn Bình Nguyên Lộc sử dụng để thể
hiện cách nhìn con ngƣời từ các bình diện nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Bình
Ngun Lộc”, chúng tơi chủ yếu tập trung khảo sát thể loại tiểu thuyết trong sự
nghiệp sáng tác của Bình Nguyên Lộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhà văn Bình Ngun Lộc có 20 tiểu thuyết đƣợc xuất bản nhƣng với đề tài
này chúng tôi giới hạn khảo sát 8/20 tiểu thuyết, bao gồm: Đò dọc (1959); Gieo gió
gặt bão (1959); Hoa hậu Bồ Đào (1963); Đừng hỏi tại sao (1963); Nửa đêm Trảng
Sụp (1963); Uống lộn thuốc tiên (1965); Món nợ thiêng liêng (1969); Tỳ vết tâm
linh (1973), đây là các tiểu thuyết nổi tiếng đƣợc nhiều bạn đọc biết đến và đƣợc
viết với những khoảng thời gian khác nhau trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Việc chọn những tiểu thuyết ở các thời điểm khác nhau đƣa vào diện khảo sát để
thấy đƣợc cách nhìn con ngƣời của nhà văn ở từng chặng đƣờng khác nhau, từ đó
làm nổi rõ sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn. Đây
là điểm cần thiết trong nghiên cứu đề tài này, vì nhận thức về con ngƣời trong sáng
tạo nghệ thuật là một quá trình.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi mở rộng diện khảo sát đến
mảng truyện ngắn, ở những truyện ngắn tiêu biểu nhƣ: Rừng mắm, Thèm mùi đất,
Bà Mọi hú, Lửa Tết, Hương hành kho, Về làng cũ,… trong tập truyện ngắn Kí thác
và Cuống rún chưa lìa…; lĩnh vực nghiên cứu chúng tơi tìm đọc Nguồn gốc Mã Lai
của dân tộc Việt Nam và Lột trần Việt ngữ; và tác phẩm Hương rừng Cà Mau – Sơn

9


Nam; Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tƣ để so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Bình Nguyên Lộc trong tiểu thuyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng linh hoạt và kết hợp các phƣơng
pháp sau:

- Vận dụng lý thuyết thi pháp. Đây là hƣớng tiếp cận chủ yếu của đề tài vì để
làm rõ tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn, trong đó quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
là cốt lõi, ngƣời nghiên cứu phải khảo sát các yếu tố cấu thành tác phẩm. Theo lý
thuyết thi pháp, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn là mạch chìm, chi
phối các yếu tố thi pháp của tác phẩm. Do vậy, ngƣời nghiên cứu, thông qua các yếu
tố cấu thành tác phẩm (ở đây là tiểu thuyết) để làm nổi bật quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời của nhà văn.
- Phƣơng pháp nghiên cứu loại hình đƣợc vận dụng để phù hợp với đối tƣợng
nghiên cứu là tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc.
- Phƣơng pháp cấu trúc - hệ thống: là một trong những phƣơng pháp quan
trọng của đề tài giúp sắp xếp và hệ thống các vấn đề nghiên cứu theo một trình tự
khoa học.
- Phƣơng pháp tiểu sử tác giả đƣợc vận dụng để tìm hiểu khái lƣợc về nhà
văn Bình Nguyên Lộc ở các phƣơng diện tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, quan niệm
sáng tác.
Ngoài ra, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, phƣơng pháp so sánh đối chiếu
đƣợc sử dụng trong q trình triển khai đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn “Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Bình
Nguyên Lộc” nghiên cứu một cách hệ thống nội dung và nghệ thuật trong sáng tác ở
thể loại tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc, từ góc độ quan niệm nghệ thuật về con
ngƣời để từ đó thấy đƣợc sự đóng góp của tác giả, một trong những nhà văn Nam
Bộ tiêu biểu, cho tiểu thuyết Nam Bộ và nền văn học Việt Nam hiện đại.

10


7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm
ba chƣơng:

Chương 1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong nghiên cứu văn học và
tác giả Bình Nguyên Lộc.
Giới thuyết về khái niệm quan niệm nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời, đồng thời tìm hiểu khái lƣợc về tác giả Bình Nguyên Lộc.
Chương 2. Các bình diện con ngƣời đƣợc thể hiện trong tiểu thuyết của Bình
Nguyên Lộc.
Ngƣời viết đi vào nghiên cứu các bình diện con ngƣời đƣợc thể hiện trong
tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc để thấy đƣợc tầm nhìn, tầm cảm, tầm lí giải về con
ngƣời của nhà văn.
Chương 3. Một số biện pháp nghệ thuật thể hiện quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc.
Ngƣời viết đi vào nghiên cứu một số biện pháp nghệ thuật thể hiện quan niệm
nghệ thuật về con ngƣời trong tiểu thuyết của Bình Ngun Lộc.
Ngồi ra, cịn có những phần phụ khác nhƣ lời cam đoan, lời cảm ơn, phần
mục lục và tài liệu tham khảo.

11


Chƣơng 1.
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC VÀ KHÁI LƢỢC VỀ NHÀ VĂN BÌNH NGUYÊN LỘC
1.1. Khái niệm “quan niệm nghệ thuật về con ngƣời” và việc vận dụng
khái niệm vào việc nghiên cứu ở Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm “quan niệm nghệ thuật” và “quan niệm nghệ thuật về con
người” trong nghiên cứu văn học
Quan niệm nghệ thuật là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy
chiếu, thể hiện tầm lí giải, tầm hiểu biết, đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm
hay nói một cách tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Mỗi nhà văn đều có một
quan niệm sáng tác riêng. Đó là sự nhận thức, nhào nặn tạo ra hình tƣợng nghệ thuật

theo quan niệm của cá nhân trong bối cảnh lịch sử xã hội nhất định, tạo nên tính
thẩm mĩ, sự hài hịa về con ngƣời trong đời sống. Đối với Trần Đình Sử, (1998), ông
cho rằng: quan niệm là ý tƣởng, sự lý giải, cắt nghĩa, sự hiểu, khái niệm về thế giới
con ngƣời của một tác phẩm, một tác giả nào đó. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về
con ngƣời nghĩa là hệ thống những cái nhìn, sự khám phá, lý giải, trình độ chiếm
lĩnh con ngƣời của nhà văn và quan niệm đó có tính chất nghệ thuật đối với con
ngƣời trong văn học. Vì vậy, có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là cái
nhìn cụ thể trong hình thức nghệ thuật thể hiện của một tác giả thông qua tác phẩm
của họ. Nó là một loại nội dung, cái lí, cái logic của sự miêu tả về con ngƣời, tức là
nội dung của riêng hình thức. Nó trả lời câu hỏi vì sao nhà văn lại miêu tả con ngƣời
nhƣ thế, chọn hình ảnh và chi tiết nhƣ thế. Đó là sự cắt nghĩa, lí giải về cách làm của
nhà văn chứ khơng phải là phân tích một nhân vật cụ thể nào đó trong tác phẩm để
thấy đƣợc tƣ tƣởng của tác phẩm.
Quan niệm nghệ thuật về con người giúp ta biết đƣợc giới hạn trong nhận
thức, cảm thụ và miêu tả về con ngƣời trong văn học. Nhà văn sẽ miêu tả con ngƣời,
nhân vật trong tầm nhìn của họ. Con ngƣời đƣợc nhận thức, soi sáng qua nhiều bình

12


diện với những mối quan hệ phong phú và sinh động với tự nhiên, xã hội, bản thân
trong tất cả mối quan hệ của con ngƣời với các vấn đề cá nhân, cộng đồng,... Đặc
biệt quan niệm nghệ thuật về con ngƣời thể hiện trên bình diện nhƣ thân thể, bởi
thân thể là nền tảng tồn tại của con ngƣời. Thân thể đƣợc thể hiện theo nhiều quan
niệm nhƣ thần thoại, tơn giáo, chính trị, thẩm mĩ, tâm sinh lí, qua phƣơng tiện kinh
tế, tiêu dùng, hay quan niệm y học. Nhƣng quan niệm nghệ thuật thƣờng có nội hàm
triết lí nghệ thuật. Mỗi thời kì văn học sẽ có những quan niệm khác nhau nhƣ: Văn
học cách mạng nhấn mạnh con ngƣời phải hiến thân cho sự nghiệp giải phóng. Thời
kì văn học hiện đại con ngƣời đƣợc miêu tả trong tất cả các chiều kích nhƣ tự nhiên,
xã hội, giới tính, tiêu dùng, thời thƣợng,… Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời

không giới hạn ở địa vị, quan hệ xã hội, nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác mà nó cịn
mở rộng ranh giới vƣợt ra ngồi nghề nghiệp và tuổi tác. Con ngƣời đƣợc thể hiện
qua hành động hoặc tâm lí, ý thức và có thể có tất cả những mặt ấy. Con ngƣời có
thể quan niệm qua giao tiếp, từ ngữ xƣng hô, hoặc qua các phƣơng thức tu từ nhƣ ẩn
dụ, so sánh, hoán dụ, nghịch dị, qua hệ thống các chi tiết nghệ thuật về tƣ thế, động
tác, màu sắc….
Các thể loại khác nhau có sự thể hiện con ngƣời khác nhau, vì phƣơng tiện
nghệ thuật của chúng cũng khác nhau. Nhân vật khơng có sẵn để nhà văn sao chép
hay chụp lại mà chính nhà văn sáng tạo ra nhân vật. Nhân vật đƣợc hiện ra theo cách
hình dung cảm nhận của tác giả. Do vậy, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời hƣớng
tới việc xem xét quan niệm chủ thể của ngƣời sáng tác đối với con ngƣời đƣợc miêu
tả và con ngƣời nói chung nhƣ một phạm trù khái quát, qua đó mà miêu tả nhân vật
cụ thể nhƣ mơ hình con ngƣời của nhà văn.
Từ đó, có thể hiểu quan niệm nghệ thuật về con ngƣời chính là sự khám phá
về con ngƣời bằng nghệ thuật. Vì vậy, nó phản ánh cấu trúc của nhân cách con
ngƣời và các hình thức phức tạp tƣơng ứng trong quan hệ con ngƣời đối với thế giới.
Đồng thời, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá
tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn thẩm mĩ đầy tính phát hiện độc đáo của các nhà

13


văn, nhà thơ qua các thời kỳ văn học nhƣ:
Con người trong thần thoại là hình ảnh con ngƣời chƣa phân biệt đƣợc con
ngƣời tự nhiên, họ quy cho thần những sức mạnh thần bí. Thần thoại lƣu giữ những
kí ức thời nguyên sơ, có ảnh hƣởng sâu sắc tới văn nghệ này. Do vậy, đặc điểm nổi
bật nhất của con ngƣời thần thoại là con ngƣời chức năng, chức năng tự nhiên và
chức năng văn hóa. Con ngƣời thần thoại mang những chức năng tự nhiên nhƣ:
Thần Zeus- Chúa tể thế giới, Thần Okeanos – Thần Biển, Eros - Thần Tình yêu,
Apolon –Thần Mặt trời… Đặc điểm thứ hai của con ngƣời thần thoại là biến hóa.

Con ngƣời thần thoại có tài biến hóa qua lại giữa ngƣời và tự nhiên. Sự biến hóa ở
đây diễn ra rất tự nhiên chứ không phải tu luyện. Do vậy, con ngƣời thần thoại đƣợc
xem là những ngƣời đầu tiên, vị tổ tiên thứ nhất của nhân loại, ngƣời đã đẻ ra loài
ngƣời, tạo ra thế giới, đất trời, ngày đêm và mn vật. Ở con ngƣời thần thoại cũng
có những biểu hiện bản năng về phƣơng diện tính dục. Có thể nhận thấy, con ngƣời
thần thoại là biểu hiện của thiên nhiên, vũ trụ, nó đã cung cấp nhiều motif nghệ thuật
cho đời sau có ảnh hƣởng khơng nhỏ đến các hình thức nghệ thuật đời sau.
Con người trong sử thi là ngƣời của cộng đồng, của bộ tộc. Sử thi gắn liền
với ý thức phân biệt bộ tộc, tham gia vào những cuộc chiến tranh bảo vệ quyền lợi,
danh dự của bộ tộc. Con ngƣời sử thi là con ngƣời sống bằng lí trí, khơng hành động
vì cảm giác hoặc tình cảm ham muốn nhất thời. Con ngƣời sử thi chƣa phát triển ý
thức hệ cá nhân, họ đều đại diện toàn năng cho bộ tộc. Tất cả biểu hiện trên con
ngƣời của họ, trang phục vũ khí của họ, đó là sự kết tinh cho những gì cao q ở bộ
tộc họ. Con ngƣời sử thi còn đại diện cho quan niệm cộng đồng trong mọi phƣơng
diện nhƣ sức mạnh, trí tuệ, sự giàu sang, phong tục, tập quán, quan niệm về cái
đẹp… Con ngƣời sử thi bao giờ cũng đƣợc vẽ lên hết sức hoàn thiện, toàn diện về bề
ngồi nhƣng chƣa tìm thấy con ngƣời bên trong. Con ngƣời sử thi là con ngƣời khai
sinh hoặc anh hùng của bộ tộc, cho nên họ thƣờng đƣợc thần thánh hóa, mang vẻ
đẹp thiêng liêng trong con mắt của đời sau. Điều này ảnh hƣởng đến cách nhìn con
ngƣời trong quan niệm nghệ thuật của đời sau.

14


Con người trong truyện cổ tích đƣợc quan tâm khá rõ nét đến số phận của cá
nhân. Trong các mối quan hệ xã hội, gia đình để tìm ra giá trị chân chính của lồi
ngƣời. Con ngƣời cổ tích đã giảm sút nhiều tính thần kì, sức mạnh của con ngƣời cổ
tích chính là sức mạnh chính nghĩa của nó. Ngƣời cổ tích sống ngồi thời gian
khơng gian, khơng ai lớn lên hay già đi chủ yếu là ở hiền thì gặp lành, ở ác thì gặp
ác. Con ngƣời cổ tích chƣa có hoạt động nội tâm, tâm lí nhân vật cổ tích rất đơn

giản, chỉ xoay quanh việc ăn ở hiền lành hay gây thù, báo oán trong sự ln hồi
chóng vánh và dễ dàng. Con ngƣời cổ tích hành động theo tinh thần công bằng, lẽ
phải, hành thiện chứ khơng phải bằng tâm lí cá nhân. Tuy nhiên, ở con ngƣời cổ tích
có sự đối lập giữa cái thiện và ác vô cùng rõ ràng, kẻ ác hiện thân rất tiêu biểu và bị
trừng phạt rất đích đáng. Từ đó thấy đƣợc tƣ tƣởng của truyện cổ tích là thƣởng phạt
rõ ràng, chính đáng.
Con người trong văn học trung đại đƣợc thể hiện khá rõ nét và độc đáo vì
thời kì văn học trung đại đƣợc kéo dài nhiều thế kỷ, đƣợc xem là một loại hình văn
học lớn. Con ngƣời trong nền văn học này mang nhiều đặc điểm loại hình nhƣ:
mang dấu ấn giai cấp, dấu ấn của hệ tƣ tƣởng, tôn giáo, sáng tác dân gian, mang tính
khn mẫu. Ở mỗi khu vực, hình tƣợng con ngƣời có những nét khu biệt khơng trộn
lẫn nhau. Có những con ngƣời mang dáng vẻ vũ trụ, thiên nhiên nhƣng cũng có
những con ngƣời trong dáng liễu dáng mai dáng hạc, mình ve, tóc mây, mắt phƣợng,
mặt rồng,…Tuy nhiên, ở thời kì này con ngƣời mang cảm thức chung của cả một
mơ hình văn học, thời đại văn học. Các nhà văn hầu nhƣ khơng hình dung con ngƣời
trong dáng vẻ đời thƣờng, tầm thƣờng, không đẹp. Con ngƣời trung đại cũng đứng
giữa cuộc đấu tranh thiện và ác, cao đẹp và tầm thƣờng, hữu đạo và vô đạo. Thời
trung đại cả phƣơng Tây và phƣơng Đông quan niệm về con ngƣời cá nhân rõ ràng.
Tuy nhiên, ở con ngƣời phƣơng Đơng thì con ngƣời cá nhân với sự cảm thông,
khẳng định, đƣợc thi thố. Đến cuối thể kỉ XVII, trong dòng văn học dân chủ xuất
hiện con ngƣời dân chủ. Con ngƣời bất mãn với số phận, hồn cảnh, chƣa từng có
trong các thời kì trƣớc. Đó là con ngƣời chịu đau đớn vì đói, rét, vì bất cơng, vì đủ

15


thứ vơ lí. Văn học trung đại chịu ảnh hƣởng của tôn giáo, chủ nghĩa cấm dục thƣờng
né tránh miêu tả đời sống tình ái, tình dục, tránh nói đến thân thể ngƣời, coi là ô uế.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của thời kì trung đại là một phạm trù khác hẳn
thời cổ đại, cận, hiện đại. Nhƣng nó ln đa dạng phản chiếu văn học của nhiều

nƣớc trên thế giới.
Con người trong văn học cận hiện đại đƣợc chia thành những giai đoạn nhƣ
con người thời Phục hưng là con ngƣời đề cao chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa nhân
đạo đề cao lí tính đến con ngƣời vơ thức, phi lí tính đến hồi nghi con ngƣời. Thời
cận hiện đại đƣợc tính từ thời Phục hƣng, ở phƣơng Tây là từ thế kỷ XIV – XVI là
thời kì con ngƣời đƣợc tự do, giải phóng con ngƣời khỏi chủ nghĩa cấm dục thời
Trung cổ, phô bày vẻ đẹp trần thế hấp dẫn đầy sức mạnh của con ngƣời. Đây là thời
kì khai sáng con ngƣời tự nhiên trần thế, sống vui vẻ với bản năng của mình, đồng
thời thân thể con ngƣời đƣợc miêu tả dƣới nhiều góc độ. Góc độ giải phẫu sinh lí
ngƣời, góc độ nghịch dị, cƣời cợt kiểu dân gian, góc độ tình dục. Thân thể nghịch dị
gắn với các biện pháp khuếch đại, miêu tả thân thể gắn với ăn uống, phóng uế, tiểu
tiện, sinh đẻ, giao hợp. Phần dƣới của thân thể đƣợc nhắc đến trong tình tiết hoặc
trong các ví von, ẩn dụ. Bên cạnh đó, con ngƣời trong thời cận đại mang chủ nghĩa
cổ điển, khai sáng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực. Theo Pospelov, chủ
nghĩa cổ điển là trào lƣu văn học đầu tiên trong lịch sử văn học phƣơng Tây và nhân
loại, tồn tại khoảng cuối thế kỷ XVI-XVIII. Các nhà văn của chủ nghĩa cổ điển cho
rằng tình yêu là biểu hiện cao nhất của tình cảm cá nhân, cịn nghĩa vụ là tình cảm
công dân cao cả nhất. Và hàng loạt những bi kịch xảy ra của con ngƣời là do mâu
thuẫn giữa tình yêu và nghĩa vụ, và cuối cùng tình yêu phải hi sinh cho nghĩa vụ. Họ
tuân thủ “luật tam duy nhất” đó là khơng gian, thời gian và địa điểm, không dùng
những từ ngữ dung tục, sử dụng các chi tiết đời thƣờng. Còn con người trong văn
học của chủ nghĩa khai sáng thì thiên về lí trí, nổi lên con ngƣời tình cảm nhạy
bén, xúc động trƣớc những đức hạnh, khiếp sợ cái ác, họ nhìn mọi sự ở đời qua lăng
kính tình cảm vẻ đẹp điền viên, lí tƣởng hóa những tình cảm đẹp của con ngƣời và

16


khơng nhìn thấy gì ngồi chủ quan của con ngƣời. Đó là khúc tƣởng niệm cuộc sống
ngọt ngào nguyên thủy ở đồng quê thi vị nhƣ những chàng ngâm thơ, chăn cừu thơ

mộng với các cô gái quay tơ hiền lành, đức hạnh.
Với chủ nghĩa lãng mạn thể hiện đƣợc những ƣớc mơ lớn thất vọng lớn của
con ngƣời về những kiến tạo xã hội hƣớng tới tự do, bình đẳng, bác ái. Chính vì vậy
ta ln thấy những con ngƣời cô đơn với nỗi buồn sâu xa khi bị thất bại trong cuộc
chiến chống lại cái xấu, cái ác. Điều đó làm bật lên sức mạnh của con ngƣời cá
nhân.
Con người trong chủ nghĩa hiện thực có nhiều thay đổi căn bản. Nó nhìn
thấy những mặt hạn chế của con ngƣời, khơng thi vị hóa hay lí tƣởng hóa một cá
nhân nào. L.Tolstoy nói rằng một trong những sai lầm thƣờng thấy là ngƣời ta cho
rằng có ngƣời thiện ngƣời ác, ngƣời ngu, ngƣời thơng minh. Theo dịng chảy sẽ làm
thay đổi con ngƣời nhƣ ngƣời ngu trở thành ngƣời thông minh, ngƣời ác trở thành
ngƣời lƣơng thiện. Trong văn học thời này cịn xuất hiện hình tƣợng con ngƣời hiện
thực xã hội chủ nghĩa. Con ngƣời bị chi phối bởi ý thức hệ vơ sản. Theo đó, hình
tƣợng con ngƣời đƣợc xây dựng trong quá trình vận động và phát triển mang tính
cách mạng, hƣớng tới tƣơng lai.
Chủ nghĩa hiện đại đƣợc miêu tả tất cả mọi chi tiết về đời sống vì vậy con
người trong chủ nghĩa hiện đại đƣợc hiểu nhƣ một sinh vật xã hội bị chi phối bởi
các quy luật tự nhiên nhƣ bệnh tật, huyết thống, sinh lí. Con ngƣời trƣớc hết là sinh
vật bắt đầu từ huyết thống, sinh lí, nó sinh ra những con ngƣời có tính cách tính dục
khác nhau. Chủ nghĩa siêu thực thể hiện con ngƣời hoảng loạn trƣớc thế giới bí ẩn
và khơng sao hiểu đƣợc, nó đánh mất con ngƣời với thực tại, cƣờng điệu tính đa
nghĩa của hình ảnh, con ngƣời đƣợc mơ tả trong những kết hợp lạ thƣờng. Văn học
hiện sinh đặc trƣng bởi con ngƣời cơ đơn trong thế giới phi lí. Con ngƣời ngƣời tồn
tại trƣớc bản chất. Con ngƣời bị ném vào đời một cách phi lí, cơ đơn và buộc phải tự
làm nên chính mình trong thế giới phi lí.
Văn học Việt Nam đƣợc hình thành và phát triển theo suốt chiều dài của lịch

17



sử dân tộc mang đến biết bao giá trị cao đẹp cho con ngƣời và mảnh đất quê hƣơng
hình chữ S. Ở mỗi thời kì văn học phản ánh hình tƣợng những con ngƣời khác nhau
nhƣ: Văn học cách mạng đầu thế kỷ XX (trƣớc 1945), con ngƣời yêu nƣớc với lí
tƣởng cứu nƣớc, nghĩa vụ trách nhiệm, con ngƣời cá nhân và những xung đột với gia
đình truyền thống, với khát vọng tìm lối thốt li quan hệ xã hội để thỏa mãn tự do
bản năng. Từ đó, ta có thể thấy văn học khơng xa rời hiện thực mà nó ln phản
chiếu đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử dƣới con mắt sáng tạo của ngƣời
nghệ sĩ. Văn học cách mạng thời kì 1945-1986 với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ,
chủ nghĩa lạc quan, tin tƣởng vào lãnh đạo và thắng lợi cuối cùng của đảng, nhân vật
tích cực, chủ nghĩa anh hùng đều rất đậm đà, có tác dụng tuyên truyền, động viên
quần chúng rất lớn. Con ngƣời trong văn học đổi mới sau 1986, điểm nổi bật của
văn học thời kì này là xóa bỏ các khn sáo cũ của văn học giai đoạn trƣớc, giảm
bớt con ngƣời chính trị giai cấp, trở về với con ngƣời nhân bản, tự nhiên, có cá tính,
có tình u, có bản năng vơ thức, tình dục, có mặt tối, mặt sáng. Nguyễn Minh Châu
đƣợc xem là ngƣời mở đƣờng tinh anh cho giai đoạn văn học này. Ơng bỏ hết sự đối
lập chính diện và phản diện, bỏ ngun tắc điển hình hóa, miêu tả con ngƣời dị biệt,
nghịch lí, phát hiện các hiện tƣợng khác thƣờng. Ông miêu tả các hiện tƣợng ngẫu
nhiên, cá biệt, mà lâu nay văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa vốn thích khái quát
quy luật lịch sử bằng điển hình hóa cao độ. Bên cạnh đó, có thể nhắc đến Nguyễn
Huy Thiệp, nhà văn nổi bật trong văn học đổi mới. Truyện ngắn của ông viết đủ loại
ngƣời khác nhau trong xã hội. Chủ đề trọng tâm của ông là con ngƣời. Ơng nhìn con
ngƣời theo khía cạnh hiện sinh, sự cơ đơn, lạc lồi, ngƣời ta khơng hiểu nhau, cuộc
đời đầy phi lí, đầy ngẫu nhiên. Ơng phơi bày tất cả các mặt của con ngƣời xấu, tốt,
điểu cáng, độc ác,…ông nắm bắt con ngƣời qua đối thoại, độc thoại nội tâm. Con
ngƣời trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp thì dự báo một xu hƣớng mà sau này
sẽ thấy càng rõ rệt trong đời sống xã hội. Nhƣ vậy, chúng ta có thể nhận thấy quan
niệm nghệ thuật về con ngƣời trong dòng chảy của văn học Việt Nam khá phong
phú và đa dạng.

18



1.1.2. Tình hình tiếp nhận khái niệm “quan niệm nghệ thuật về con người”
và ứng dụng vào nghiên cứu trong văn học Việt Nam
Thuật ngữ Quan niệm nghệ thuật về con người đƣợc giới nghiên cứu ở Liên
Xô chú ý vào cuối những năm 50 thế kỷ XX. Các nhà văn học sử có lẽ là ngƣời đầu
tiên chú ý tới vấn đề quan niệm con ngƣời. Tháng 11/ 1990, Trần Đình Sử có bài
viết nhan đề: “Khái niệm quan niệm nghệ thuật” trong nghiên cứu văn học Xô Viết,
(đăng trên Tạp chí Văn học, số 1/1991) giới thiệu ở Việt Nam. Đây đƣợc xem là
khái niệm lý luận quan trọng bậc nhất trong mấy thập niên qua. Với tính khái quát
về lý luận gắn với đặc trƣng của tƣ duy nghệ thuật, thuật ngữ này nhanh chóng đƣợc
giới nghiên cứu ứng dụng vào nghiên cứu trong văn học Việt Nam.
Đồng thời, Trần Đình Sử cũng có bài nghiên cứu: “Con người cá nhân trong
văn học Việt Nam thế kỷ XVIII” (đăng trên Tạp chí WordPress.com, 2013). Bài
nghiên cứu đã chỉ rõ sự tiến bộ của ý thức con ngƣời theo thời gian. Quan niệm con
ngƣời cá nhân, làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo tạo bƣớc ngoặt làm đổi thay
giá trị con ngƣời. So với trƣớc thế kỷ XVIII, cá nhân chỉ đƣợc đánh giá trong thang
bậc đạo lý, nghĩa lý, lý trí và ở sức mạnh tinh thần, con ngƣời càng có nghị lực vƣơn
lên bao nhiêu, càng khắc phục cá nhân nhỏ bé, phàm tục bao nhiêu thì càng có giá
trị. Ơng đã nghiên cứu con ngƣời cá nhân ở các bình diện khác nhau ở những tác
phẩm tiêu biểu thời trung đại. Con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn
trong Chinh phụ ngâm (thế kỷ XVIII) và Giá trị hư ảo, vơ nghĩa của cá nhân con
người trong Cung ốn ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 – 1798) đã làm nổi
lên con ngƣời cá nhân với tình cảm thƣơng thân, xót thân… Con người cá nhân bản
năng trong thơ Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII – XIX) minh chứng cho ý thức về nhu
cầu bản năng là biểu hiện của ý thức cá nhân. Con người cá nhân cô đơn, xót mình
đầy tâm trạng trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766 – 1820).
Đây đƣợc xem là đỉnh cao về quan niệm con ngƣời cá nhân trong văn học cổ điển
Việt Nam với nhiều bình diện phong phú nhất, phức tạp nhất. Ngồi cơng trình
nghiên cứu con ngƣời cá nhân trong văn học trung đại thì cịn có cơng trình nghiên


19


×