BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐÀO THỊ THÚY HOA
CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐÀO THỊ THÚY HOA
CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
Chuyên ngành: Kinh tế Chính tri
Mã số: 60 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LẠI NGỌC HẢI
HÀ NỘI - 2013
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
Chính sách tín dụng
CSTD
Doanh nghiệp
DN
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV
Đầu tư phát triển
ĐTPT
Hội đồng nhân dân
HĐND
Kinh tế ngoại thành
KTNT
Ngân hàng
NH
Ngân hàng chính sách xã hội
NHCSXH
Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nông thôn
Agribank
Ngân hàng Nhà nước
NHNN
Ngân hàng thương mại
NHTM
Quỹ tín dụng nhân dân
QTDND
Sản xuất, kinh doanh
SX, KD
Tổ chức tín dụng
TCTD
Ủy ban nhân dân
UBND
Vốn ngân sách Nhà nước
VNSNN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRỊ
CỦA CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
1.1
Cơ sở lý sở lý luận về vai trị của chính sách tín dụng đầu
1.2
tư phát triển kinh tế ngoại thành
Biểu hiện vai trò chính sách tín dụng đầu tư phát triển kinh
Trang
3
12
12
tế ngoại thành Hà Nội trong thực tiễn, nguyên nhân và
những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI
31
PHÁP HỒN
THIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THỜI
53
2.1
GIAN TỚI
Những quan điểm cơ bản hồn thiện chính sách tín dụng
53
2.2
đầu tư phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội thời gian tới
Những giải pháp chủ yếu hồn thiện chính sách tín dụng
đầu tư phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội trong thời
gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
73
90
93
98
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã
thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình được sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội,
cùng với bốn huyện ngoại thành cũ, Thành phố Hà Nội có một khơng gian
KTNT rộng lớn. Khu vực KTNT giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của Thủ đô, cũng như đối với việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị ngày 6/01/2012 "Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ
đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020"
Những năm qua, Thành ủy và Chính quyền các cấp Thành phố Hà Nội
đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy kinh tế Hà Nội nói
chung, khu vực ngoại thành nói riêng phát triển. Nhiều nghị quyết của HĐND,
quyết định của UBND Thành phố về phát triển Thủ đô, cùng với các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế Thủ đơ, trong đó
có CSTD đầu tư phát triển.
Tại các địa bàn thuộc khu vực kinh tế ngoại thành Hà Nội, các quy định
về hỗ trợ lãi suất cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước và của Thành phố Hà
Nội cùng với những quy định cụ thể của các tổ chức tín dụng nhằm khuyến
khích các hoạt động cho vay đầu tư các lĩnh vực của đời sống kinh tế Thủ đô,
thông qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất, kinh
doanh của các chủ thể kinh tế khu vực ngoại thành đã có những tác động mạnh
đến các ngành, các lĩnh vực, các chủ thể kinh tế trên địa bàn Thành phố, thúc
đẩy kinh tế toàn Thành phố bao gồm cả khu vực KTNT phát triển. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy, sự tiếp cận các nguồn vốn ĐTPT của các chủ thể kinh tế vẫn
gặp những khó khăn nhất định; hệ thống CSTD đầu tư phát triển đã có nhưng
vẫn chưa phát huy hết vai trị tích cực đối với sự phát triển của kinh tế khu vực
KTNT. Các chủ thể kinh tế khu vực ngoại thành (hộ kinh tế nông dân, các hợp
tác xã, các chủ trang trại và một bộ phận các DNNVV đứng chân trên địa bàn
4
ngoại thành ln phải đối diện với những khó khăn về vốn đầu tư phát triển,
vốn cho sản xuất kinh doanh). Có nhiều ngun nhân chi phối tình hình nói
trên, trong đó có vấn đề về bản thân CSTD đầu tư phát triển, có vấn đề về
chính sách tín dụng của các TCTD đứng chân trên địa bàn, có vấn đề về cơ chế
tiếp cận CSTD đầu tư phát triển của các chủ thể vay vốn tín dụng ĐTPT... Tình
hình đó ảnh hưởng đến sự phát triển khu vực KTNT trong q trình hiện thực
hóa Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về về "Phương hướng nhiệm
vụ phát triển Thủ đô Hà nội trong 10 năm tới" và mục tiêu CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn Thủ Đô Hà Nội.
Làm gì và làm như thế nào để các chủ thể kinh tế có những thuận lợi
mới và dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ĐTPT để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế khu vực ngoại thành, góp phần thực hiện Nghị quyết số 11NQ/TW của Bộ Chính trị và mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trên
địa bàn Thủ đô Hà Nội, đang thực sự là vấn đề mang tính thời sự. Đề tài luận
văn thạc sĩ "Chính sách tín dụng đầu tư phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội"
được lựa chọn xuất phát từ những lý do trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
CSTD đầu tư phát triển là một trong những nhân tố giữ vai trò chi
phối quan trọng đối với diện mạo nền kinh tế của một quốc gia hay mỗi
địa phương. Những CSTD đầu tư phát triển phù hợp với điều kiện thực
tiễn và những quy định về cho vay thuộc phạm vi của CSTD thông thống
có vai trị quan trọng thúc đẩy các chủ thể kinh tế đầu tư phát triển và sản
xuất kinh doanh, tạo ra hiệu ứng thuận và ngược lại là hiệu ứng trái chiều
đối với diện mạo kinh tế của của một ngành, một lĩnh vực, một vùng, hoặc
một địa phương nhất định. Do có tầm quan trọng như vậy nên xung quanh
vấn đề CSTD đầu tư phát triển luôn được các cơ quan khoa học và cá
nhân các học giả đầu tư nghiên cứu.
5
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài luận văn, ở tầm vĩ mô và cấp
độ Thành phố, nhóm tác giả Nguyễn Đình Phan, Nguyễn Minh Đạo, Nguyễn
Văn Phúc , có cơng trình "Các giải pháp nhằm đẩy mạnh q trình CNH,
HĐH vùng nơng thơn đồng bằng sơng Hồng", Nxb CTQG, Hà Nội -2002.
Cuốn sách đề cập đến những vấn đề chung về kinh tế - xã hội của nơng thơn
đồng bằng sơng Hồng - nơi có Thủ đơ Hà Nội giữ vai trị là trung tâm, là động
lực phát triển đối với tồn bộ khu vực. Cơng trình đề cập nhiều thơng tin giúp
tác giả luận văn có nhận thức tổng thể về tầm vóc, vị thế của kinh tế Thủ đô
cũng như hệ thống giải pháp nhằm đẩy mạnh q trình CNH, HĐH vùng nơng
thơn đồng bằng sơng Hồng giúp tác giả có cách nhìn tổng thể khi xác định giải
pháp cho các vấn đề thuộc đề tài luận văn nghiên cứu; Tác giả Chu Tiến Quang
với cơng trình "Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế
nông thôn, thực trạng và giải pháp" , Nxb CTQG, Hà Nội - 2005. Tác giả của
cuốn sách tập trung bàn về huy động các nguồn lực, trong đó có nguồn lực về
vốn. Đề tài chỉ bàn về "cái chung" nhưng có giá trị đối với tác giả luận văn
trong nghiên cứu về vai trò của vốn đầu tư phát triển và CSTD đầu tư phát
triển.
Dưới góc độ các luận văn luận án kinh tế, trên bình diện nghiên cứu khu
vực kinh tế nơng thơn Hà Nội, tác giả Nguyễn Quốc Oánh (2012) với đề tài
"Nghiên cứu hệ thống tín dụng nơng thơn ngoại thành Hà Nội", luận án tiến sĩ,
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2012.
Theo tác giả, Việt Nam có khoảng 13 triệu nông hộ (chiếm khoảng gần
80% tổng số hộ), trong đó hơn một nửa thuộc diện thu nhập thấp. Khoảng gần
90% hộ nghèo sống ở nông thôn; các số liệu khảo sát cho thấy thiếu vốn cho
sản xuất là một vấn đề khó khăn của các hộ nơng dân. Cần phải có một hệ
thống tín dụng vững mạnh để đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động kinh tế
cũng như đời sống ở nông thôn, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội.
6
Hệ thống tín dụng nơng thơn ngoại thành Hà Nội có sự phát triển mạnh
cả về số lượng và chất lượng, ngồi sự có mặt của các Ngân hàng Nơng nghiệp
và PTNT; Chính sách xã hội và Quĩ tín dụng nhân dân cịn có rất nhiều Ngân
hàng Thương mại khác hoạt động trên địa bàn, hoạt động chủ yếu là huy động
tiết kiệm. Hoạt động của hệ thống đó tại khu vực nơng thơn ngoại thành có sự
khác biệt với các vùng nông thôn thuần túy khác cả về số lượng, cơ cấu, mức
độ hoạt động và sự đa dạng các đối tượng tham gia thị trường. Tác giả đã tập
trung luận giải về cơ cấu tổ chức của hệ thống tín dụng nơng thơn ngoại thành,
chỉ ra tính hợp lý và những bất cấp của hệ thống này đối với hoạt động tín dụng
nơng thơn ngoại thành, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ
chức đó.
Trước đó, năm 2006, tác giả Trần Trọng Tiến với đề tài "Phát triển kinh
tế hộ ở khu vực nông thơn Hà Nội và tác động của nó đối với chuẩn bị kinh tế
cho thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trên địa bàn hiện nay", luận án
tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội 2010. Tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ
góc độ kinh tế chính trị, tác giả coi các hộ kinh tế ở khu vực nông thôn Hà Nội
là một trong những thực thể phát triển kinh tế nông thôn, là chủ thể tạo ra tiềm
lực kinh tế và kinh tế quân sự cho thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng
thuộc khu vực ngoại thành. Thông qua luận giải về những vấn đề cơ bản của
phát triển kinh tế hộ ở khu vực nơng thơn Hà Nội và những tác động của q
trình đó đến chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ qn sự quốc phịng trên
địa bàn nơng thơn Hà Nội; thực trạng của q trình đó thời gian qua là cơ sở
cho việc đề xuất những quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ ở khu vực
nông thôn Hà Nội gắn với chuẩn bị kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ quân sự
quốc phòng trên địa bàn thời gian tới. Một trong những giải pháp được tác giả
đề cập và phân tích trong luận án là huy động các nguồn vốn trong đó có vốn
tín dụng cho đầu tư phát triển, coi đó là cơ sở để kinh tế hộ phát triển và là một
7
trong những điều kiện tạo ra thực lực kinh tế đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng trên địa bàn.
Ở mảng vấn đề nghiên cứu kinh tế ngoại thành cịn có luận văn thạc sĩ
của tác giả Nguyễn Kim Cam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội 2010, với đề tài: "Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở bốn
quận, huyện phía tây Thành phố Hà Nội"
Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người nông dân
bị thu hồi đất ở 4 quận huyện khu vực ngoại thành phía tây Thành phố Hà Nội,
tác giả luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết có hiệu
quả vấn đề việc làm cho người nơng dân bị thu hồi đất trên địa bàn phía tây
thành phố theo hướng CNH, HĐH. Trong các giải pháp được đề xuất, vấn đề
vốn cho giải quyết việc làm được nhìn nhận là đầu tư cho phát triển trong đó có
vốn tín dụng, đã được tác giả đề cập ở những mức độ khác nhau.
Xung quanh vấn đề huy động vốn, ở mảng này có một số luận văn thạc sĩ
bàn về huy động vốn ở tầm khái quát hoặc tập trung vào cấp độ các địa phương:
Tác giả Đỗ Thị Anh với đề tài "Huy động vốn cho CNH, HĐH ở tỉnh
Đồng Nai hiện nay" Học viện chính trị - 2009.
Luận văn trình bày khái quát hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn sự cần
thiết phải huy động vốn cho CNH, HĐH nói chung và ở Đồng Nai nói riêng;
chỉ ra vai trị quan trọng của việc huy động vốn cho các mặt phát triển kinh tế,
khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và một số lĩnh vực khác. . . ; chỉ
ra thực trạng cùng với những thành tựu, nguyên nhân kết quả đạt được và
những mặt hạn chế; đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của việc huy động vốn và sử dụng vốn cho CNH, HĐH ở tỉnh Đồng Nai
trong thời gian tới.
Tác giả Lại Ngọc Thuận với đề tài "Huy động vốn cho phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Hải Dương hiện nay", Học viện Chính
trị – 2010.
8
Tác giả luận văn đã tập trung luận giải quan niệm vốn phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nơng thơn; quan niệm và tính tất yếu của việc huy động
vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Hải Dương
hiện nay; phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Hải Dương từ năm 2001 đến nay, xác
định nguyên nhân và đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường huy động
vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ở tỉnh Hải Dương
trong thời gian tới.
Ở khía cạnh các vấn đề rộng và có liên quan khác, tiếp cận từ góc độ các
tổng kết của các bộ, ngành; các bài đăng trên các báo, có:
Báo cáo của Tổng cục Thống Kê, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn,
nông nghiệp và thủy sản Trung ương (2002) về "Kết quả tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001", Hà Nội.
Ban chỉ đạo Trung ương (2006), có "Báo cáo kết quả tổng điều tra nơng
thơn, nông nghiệp và thủy sản".
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nơng thơn Việt Nam có hai tài
liệu quan trọng: "Một số chính sách tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho
khách hàng vay vốn" (2008), và "Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện quyết
định số 67/1999/QĐ-TTg và giải pháp triển khai Nghị định số
41/2010/NĐ-CP "Về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp,
nông thôn" (2010). Trong hai cơng trình này, Ngân hàng Nơng nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam đã đề cập tổng quát về chính sách tín dụng
của chính ngân hàng này trong 10 năm qua được nhìn nhận như một bài
học kinh nghiệm cho thời gian tới.
Một cơng trình đáng chú ý khác là Liên ngành Hội Nông dân Việt
Nam - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, năm
2010 có phối hợp xây dựng văn bản "Thỏa thuận liên ngành giữa Hội Nông
9
dân Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nơng thơn Việt nam
"Về tổ chức thực hiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp,
nơng thơn theo nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ", song cũng
chỉ giới hạn ở các quy định liên ngành về thực hiện chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn trên cơ sở Nghị định số
41/2010/NĐ-CP của Chính phủ".
Các báo điện tử, báo in đăng nhiều tin, bài phản ánh tình hình thực thi
CSTD thời gian qua. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (13/6/2012), với bài
"Cần tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện CSTD với hộ nghèo" và tiếp theo là
bài "CSTD tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển" ngày
16/08/2012. Báo điện tử Sài Gòn onlie, ngày 8/8/2009, với bài "CSTD cần nhất
quán". Trên Tuần báo Việt Nam nét điện tử ngày 4/6/2012, có bài "Thế cùng
đường của nhóm lợi ích ngân hàng"? Các bài báo nói trên tập trung vào những
vướng mắc cần tháo gỡ về CSTD cho các đối tượng trong khuôn khổ đề cập để
giúp họ vươn lên trong sản xuất kinh doanh, hoặc thốt nghèo.
Có thể thấy, mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nghị quyết của
Đảng, chính sách của Nhà nước ở Trung ương và Thành phố Hà Nội nói về
kinh tế liên quan đến phát triển Thủ đô, về CSTD, CSTD đầu tư phát triển,
song nhìn tổng qt có thể thấy vấn đề CSTD đầu tư phát triển kinh tế với khu
vực KTNT Thủ đơ Hà Nội vẫn cịn để ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của CSTD đầu tư phát
triển kinh tế ngoại thành Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp
hồn thiện CSTD đầu tư phát triển nhằm phát huy mạnh mẽ hơn vai trị đó đối
với phát triển KTNT Hà Nội thời gian tới.
10
Nhiệm vụ
1). Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của CSTD đầu tư phát triển
trong cung ứng nguồn lực về vốn đầu tư phát triển thông qua kênh tín dụng cho
khu vực kinh tế ngoại thành Hà Nội
2). Chỉ ra những biểu hiện về vai trò của chính sách tín dụng đầu tư phát
triển kinh tế ngoại thành Hà Nội trong thực tiễn, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết.
3). Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện CSTD đầu tư phát
triển nhằm phát huy mạnh mẽ hơn vai trị đó đối với phát triển KTNT Hà
Nội thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Chính sách tín dụng đầu tư phát triển theo nghĩa rộng dưới góc độ của
kinh tế học chính trị.
+ Phạm vi nghiên cứu: giới hạn ở vai trị của chính sách tín dụng đầu tư
phát triển đối với khu vực ngoại thành Hà Nội với tính cách là một vấn đề của
kinh tế chính trị học. Đề tài khơng đi vào từng loại hình tín dụng dưới góc độ
kinh tế ngành, hay CSTD dưới góc độ học thuật. Đề tài cũng khơng nghiên cứu
tín dụng thương mại, hoặc hoạt động tín dụng thuần túy mang tính chất nghiệp
vụ chuyên môn của các TCTD.
+ Về không gian kinh tế: Từ sau khi Hà nội được mở rộng địa giới hành
chính (Theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội Khóa XII tại kỳ họp thứ ba,
ngày 25/8/2008), Hà Nội có một khơng gian KTNT rộng lớn. Tuy nhiên, với
vấn đề đang bàn luận ở đề tài này, khu vực KTNT Hà Nội chỉ tập trung vào khu
vực nông thơn, ngoại thành nói chung, khơng bao gồm các khu công nghiệp,
Thị xã Sơn Tây và các quận dù là các quận chỉ mới được thành lập như Long
Biên, Hoàng Mai, Hà Đông.
+ Thời gian khảo sát đánh giá trong khoảng 5 năm trở lại đây.
11
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội
lần thứ XV, các nghị quyết của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố Hà Nội liên
quan đến CSTD đầu tư phát triển đối với kinh tế Thủ đô và khu vực ngoại thành
Hà Nội nhằm hiện thực hóa Nghị quyết số 11- NQ/TW của Bộ Chính trị; đồng
thời sử dụng số liệu khảo sát thực tế, tham khảo các tài liệu có liên quan và kế
thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan đã công bố.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của
kinh tế chính trị Mác - Lênin: trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lơgíc và lịch
sử, phân tích, tổng hợp và một số phương pháp khác: thơng kê, so sánh, chuyên
gia v.v…
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được nghiên cứu thành cơng sẽ là một đóng góp nhất định đối với
các cơ quan chức năng hoạch định và thực thi chính sách của Đảng, Nhà nước
trước hết là của Thành phố Hà Nội về CSTD đầu tư phát triển và của các
TCTD trên địa bàn Thủ đơ, có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy tối đa
vai trò của CSTD đầu tư phát triển trong thời gian tới đáp ứng tốt hơn yêu cầu
của thực tiễn; phát huy những tác động thuận chiều, hạn chế và khắc phục tối
đa những tác động trái chiều, giúp các chủ thể kinh tế ngoại thành Hà Nội tiếp
cận thuận lợi hơn đối với các nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển.
Luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy
môn kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị và các trường khác có chương trình
học tập về bộ mơn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của ḷn văn
Ngồi mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRỊ CỦA CHÍNH SÁCH
TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
1.1. Cơ sở lý sở lý luận về vai trò của chính sách tín dụng đầu tư
phát triển kinh tế ngoại thành
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội (tín
dụng đầu tư phát triển hiểu theo nghĩa rộng - huy động và cung ứng các nguồn
lực về vốn cho đầu tư phát triển) là một vấn đề của khoa học kinh tế thuộc
phạm trù kinh tế học chính trị, và là phạm trù phái sinh của hai phạm trù tín
dụng và CSTD, đồng thời cũng là vấn đề phái sinh từ tính đặc thù về tự nhiên,
kinh tế, xã hội khu vực ngoại thành Hà Nội. Do đó để có nhận thức đúng về
CSTD đầu tư phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội, cần bắt đầu từ các phạm
trù và vấn đề liên quan.
1.1.1. Tín dụng, tín dụng đầu tư phát triển và chính sách tín dụng đầu
tư phát triển
* Tín dụng.
Trong đời sống kinh tế nhân loại, tín dụng ra đời từ rất sớm. Sự ra đời và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho tín dụng và
hoạt động tín dụng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế và q
trình cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Tín dụng ra đời làm cho các hoạt động
huy động và sử dụng vốn tín dụng dưới chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển
đa dạng (đặc biệt là hoạt động của các TCTD) góp phần thúc đẩy nhanh sự ra
đời và tạo lập sự thống trị của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với
đời sống kinh tế thuộc hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Để phát triển kinh tế của một ngành, một vùng, một lĩnh vực ưu tiên nào
đó, hay để tiến hành sản xuất, hoặc kinh doanh, dù là một tổ chức, một doanh
13
nghiệp, hay một cá nhân đều cần có vốn. Tín dụng là một kênh đáp ứng được
nhu cầu đó.
Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thông qua tác phẩm Tư
bản, C.Mác đã chỉ ra sự vận động của tiền với tính cách là tư bản trong q
trình lưu thông của tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp và thực hiện sự
vận động này như một vận động riêng, biến tư bản này thành tư bản kinh doanh
tiền tệ [24, Ph.II, tr.9-239].
Theo C.Mác, trong đời sống kinh tế của xã hội tư bản ln có: "Một bộ
phận nhất định của tư bản phải thường xuyên tồn tại dưới hình thái tiền tích trữ,
dưới hình thái tư bản - tiền tệ tiềm thế, tức là: dự trữ các phương tiện mua và
các phương tiện thanh toán, hoặc là tư bản chưa sử dụng, tồn tại dưới hình thái
tiền, đang chờ được đem sử dụng..."[24, Ph.I, tr.481]. Nhà tư bản có thể cho tư
bản khác vay khoản tư bản - tiền tệ tiềm thế đó để đầu tư phát triển, hoặc sử
dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh. Nghĩa là một khoản tiền dưới dạng tư
bản của của người này có thể được một tư bản khác sử dụng vào các mục đích
làm tăng lợi nhuận của tư bản.
Như vậy, trên thực tế, ln có một bộ phận tư bản bị chia thành "tư bản
sở hữu và tư bản chức năng", tức là tư bản thuộc về số người này, nhưng lại làm
chức năng của số người khác. Ở đó một số nhà tư bản trao tiền của mình cho
nhà tư bản kinh doanh tiền tệ (các tư bản ngân hàng) trong một thời hạn nhất
định và khi hết hạn thì lại thu về, cộng thêm một số tăng thêm nhất định - lợi
tức. C.Mác gọi tư bản sinh lợi tức đó là tư bản cho vay. Tư bản cho vay là một
bộ phận của tư bản tiền tệ tách rời ra hoạt động. C.Mác viết “Tư bản cho vay
mà các ngân hàng nắm trong tay là do nhiều nguồn đưa đến. Trước hết, ngân
hàng là những thủ quỹ của các nhà tư bản công nghiệp, cho nên nó tập trung
được số tư bản - tiền tệ mà mỗi nhà sản xuất và mỗi thương nhân hiện đang giữ
trong tay làm quỹ dự trữ, hay vừa nhận được dưới hình thái thanh tốn. Như
14
thế là những số vốn này được chuyển thành tư bản - tiền tệ để cho vay” [24,
tr.615]. Hình thức huy động tiền nhàn rỗi để cho vay đó là tín dụng.
* Tín dụng đầu tư phát triển
Sử dụng các nguồn lực để có ngày càng nhiều lợi nhuận ln là mục tiêu
theo đuổi của bất cứ chủ đầu tư nào. Để việc huy động và sử dụng các nguồn
lực về vốn hiện đang nhàn rỗi đó một cách có hiệu quả, các chủ đầu tư, các tập
đoàn tư bản thường hướng dòng vốn đi vay được đầu tư vào những ngành,
vùng, lĩnh vực ưu tiên phát triển có khả năng sinh lời cao. Do đó mà xuất hiện
tín dụng đầu tư phát triển.
Tín dụng đầu tư phát triển là sự huy động các nguồn lực về vốn để cho
vay đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển về sức sản xuất mới (hoặc cho trước mắt,
hoặc cho lâu dài, hoặc ở một ngành, một vùng, một lĩnh vực nào đó, thậm chí
đối với một hoạt động nhất định nào đó) để tạo ra một năng lực sản xuất mới..
Trong tín dụng đầu tư phát triển có tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước, có tín dụng đầu tư phát triển của xã hội.
Ở nước ta hiện nay, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (cả của nhà
nước trung ương và nhà nước cấp địa phương) là nhà nước huy động vốn ngân
sách, vốn vay nước ngoài, để đầu tư cho các dự án ưu tiên của quốc gia, hay
một vùng lãnh thổ, hoặc hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực cần khuyến khích phát
triển.
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thể hiện mối quan hệ vay - trả
giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân hoạt động trong nền kinh tế, được
nhà nước hỗ trợ với chính sách ưu đãi cho từng đối tượng cụ thể nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định theo định hướng của nhà
nước, trong đó nguồn chính thức được thực hiện thông qua Ngân hàng phát
triển Việt Nam, các gói hỗ trợ được thực hiện thơng qua các ngân hàng khác do
NHNN chỉ định.
15
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ở nước ta bao gồm: tín dụng
đầu tư chính thức (nhà nước hỗ trợ, ưu đãi cấp tín dụng, hoặc cho vay ưu đãi
cho các dự án, chương trình phát triển) và tín dụng bán chính thức (nhà nước
hỗ trợ lãi suất cho các gói tín dụng được tung ra do các tình huống có vấn đề
của nền kinh tế, hoặc để "giải cứu", hoặc kích thích phát triển một lĩnh vực nào
đó; song song với tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là tín dụng đầu tư
phát triển ngồi nhà nước. Theo đó, tín dụng đầu tư phát triển ngồi nhà nước
bao gồm; tín dụng bán chính thức (tín dụng của các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội trong hoặc ngồi nước), tín dụng chính thức của TCTD và tín
dụng phi chính thức - tín dụng tư nhân
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, có đặc điểm là nhà nước chỉ tài
trợ (hỗ trợ, ưu đãi) cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, có hiệu quả kinh tế xã hội, phù hợp với các mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ; và chỉ có hình thức tín dụng trung, dài hạn, đầu tư nhằm mục đích
hướng đến xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế; khơng vì mục tiêu lợi
nhuận và được ủy thác cho một tổ chức tín dụng đầu tư là Ngân hàng phát triển
Việt Nam; các quy định cụ thể về tín dụng đầu tư phát triển thể hiện trong các
văn bản của pháp luật.
Tín dụng đầu tư phát triển của xã hội (tín dụng đầu tư phát triển
ngồi nhà nước - tín dụng đầu tư phát triển khác - để phân biệt với tín dụng
đầu tư phát triển nhà nước), một dạng thức rất phổ biến ở khu vực nơng
thơn, là tín dụng của các tổ chức tín dụng phi chính phủ (NGOs), tín dụng
của tổ chức chính trị xã hội (Hội Nơng dân Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt
Nam, Hội người làm vườn...) và nguồn tín dụng đầu tư phát triển của các
TCTD (các NHTM, các QTDND là dạng thức tín dụng huy động từ các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế cho các chủ thể kinh tế vay, có trường
16
hợp là nguồn vốn tín dụng đầu tư của tư nhân cho các thể nhân vay) để đầu
tư phát triển, hoặc sản xuất kinh doanh.
* Chính sách tín dụng đầu tư phát triển
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển là hệ thống các biện pháp, chính
sách, quy định do Nhà nước (trung ương, hoặc địa phương - tùy theo cấp) ban
hành; hoặc do chính các tổ chức tín dụng quy định nhằm khuyến khích các hoạt
động cho vay đầu tư phát triển vào lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế thơng qua đó
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hoặc trực tiếp phát triển các năng lực sản
xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế trên các địa bàn nhất định.
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển là bộ phận hợp thành của chính
sách tín dụng nói chung, là phạm trù phái sinh của chính sách tín dụng khi mục
đích của chính sách là hướng vào sự đầu tư phát triển.
Ở nước ta, để phát triển kinh tế, hoặc tạo năng lực mới về sự phát triển
của một vùng, một ngành, một lĩnh vực nào đó nhà nước cần phải bỏ vốn đầu
tư hoặc bằng các con đường khác thúc đẩy các tổ chức tín dụng tiến hành các
hoạt động cho vay đầu tư, do đó cần có những quy định, chế tài để bảo đảm
nguồn vốn bỏ ra được đầu tư đúng hướng, có hiệu quả, trong nhiều trường hợp,
nguồn vốn đó có thể còn được thu hồi sau một chu kỳ đầu tư nhất định.
Trên cơ sở chính sách động viên các nguồn lực trong nước và tranh thủ
tối đa nguồn lực ngoài nước, Nhà nước chủ trương thực hiện CSTD đầu tư phát
triển nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh tế, các vùng miền các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh, các đối tượng chính sách xã hội... cần được ưu tiên
đầu tư phát triển, được tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển; giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ
thống tài chính, tiền tệ quốc gia; mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; thực
hiện CNH, HĐH đất nước; góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội.
17
Như vậy có thể thấy, CSTD đầu tư phát triển là tổng thể các quy định về
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển (của Nhà nước, hoặc các TCTD) nhằm
hướng tới việc phát huy vai trị của vốn tín dụng đối với phát triển kinh tế, và
tính hiệu quả của vốn tín dụng của các chủ thể kinh tế trong tiếp cận, sử dụng
chúng vào mục đích đầu tư phát triển hoặc mục đích nâng cao năng lực sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế nước ta, nếu phân CSTD thành các cấp độ, có thể hình
dung chính sách tín dụng đầu tư phát triển nhà nước là CSTD cấp độ quốc gia
để khu biệt với CSTD cấp độ các TCTD. Ở cấp độ CSTD cấp quốc gia, CSTD
phản ánh mối quan hệ về lợi ích giữa một bên là nhà nước đại biểu cho lợi ích
quốc gia (hoặc địa phương với, cộng đồng dân cư thuộc địa phương) với bên
còn lại là các chủ thể kinh tế - các đối tượng được hưởng chính sách đầu tư
phát triển được vay vốn. CSTD đầu tư phát triển cấp độ quốc gia phản ánh tập
trung và sâu sắc sự thống nhất giữa tính chính trị và tính kinh tế trong mỗi
chính sách.
Chính sách tín dụng cấp độ quốc gia bao hàm trong đó cả CSTD nhà
nước trung ương và của các địa phương. Các địa phương cũng có những
khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ về tín dụng trong phạm vị địa phương. Chẳng hạn,
ở cấp độ cấp Nhà nước trung ương, để thúc đẩy sự phát triển đối với lĩnh vực
nơng nghiệp nơng thơn, Chính phủ đã có Nghị định số 41/2010/NĐ-CP, theo
đó quy định các TCTD được tổ chức và hoạt động theo quy định của "Luật các
tổ chức tín dụng"; các tổ chức tài chính quy mơ nhỏ, thực hiện việc cho vay
các món tiền nhỏ cho người nghèo và các đối tượng khác trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo quy định của pháp luật; các ngân hàng, tổ chức tài
chính được Chính phủ thành lập để thực hiện việc cho vay theo chính sách của
Nhà nước, cho các tổ chức, cá nhân được vay vốn để phục vụ sản xuất, kinh
doanh trong lĩnh vực nơng nghiệp, nơng thơn bao gồm: hộ gia đình, hộ kinh
18
doanh trên địa bàn nông thôn; cá nhân; chủ trang trại; các hợp tác xã, tổ hợp tác
trên địa bàn nông thôn; các tổ chức và cá nhân cung ứng các dịch vụ phục vụ
trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, ngư
nghiệp và thủy sản....kinh doanh trên địa bàn nông thôn [10].
Ở cấp độ nhà nước địa phương, đó là Quyết định số 22/2008/QĐ UBND ngày 02 tháng 5 năm 2008 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội
"Về quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển nghề và làng nghề Hà Nội"
nhằm phát triển kinh tế khu vực ngoại thành [41. tr.2], được ban hành ngay sau
khi tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội,
Ở cấp độ CSTD cấp quốc gia, ngồi CSTD của nhà nước, cịn có CSTD
của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Vì nó phục vụ lợi ích chung
của quốc gia, của xã hội các tổ chức này cũng có các nguồn lực riêng được
cung ứng cho các chủ thể kinh tế vay để đầu tư phát triển.
Ngoài ra, tùy theo tình hình kinh tế đất nước tại các thời điểm nhạy cảm
khác nhau, Chính phủ có những gói tín dụng hỗ trợ cho một nhóm, một số
nhóm đối tượng cụ thể nhằm kích thích sự phát triển, hay giúp tiêu thụ sản
phẩm cho các DN trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể. Trong mấy năm qua, chính
phủ có các gói tín dụng hỗ trợ như: gói tín dụng hỗ trợ nơng nghiệp, nơng dân,
nơng thơn (năm 2009); gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp (năm 2012) và gói tín
dụng hỗ thợ thị trường bất động sản (2013). Để vốn tín dụng đến tay nhà đầu
tư, Nhà nước tái cấp vốn và ủy thác cho một, hoặc một số ngân hàng thực
hiện. Dạng thức CSTD nói trên là CSTD bán chính thức
Để CSTD đầu tư phát triển của nhà nước đi vào thực tiễn phải thông qua
hoạt động tín dụng của một hoặc một số TCTD nhất định và việc thực hiện các
CSTD như vậy liên quan chặt chẽ đến CSTD của các TCTD.
Khi các TCTD tiến hành huy động và cho vay vốn tín dụng đầu tư để các
chủ thể kinh tế thực hiện đầu tư hoặc tiến hành sản xuất, kinh doanh trong khuôn
khổ chiến lược, các chính sách hoặc kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế của nhà
19
nước, đều thực hiện theo các quy định của mình, đó là CSTD cấp độ các TCTD.
CSTD của các TCTD nói chung bao gồm những quy định liên quan đến
cấp tín dụng, như: quy mơ, lãi suất, kỳ hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín
dụng có vấn đề. Tóm lại là các quy chế, quy trình cấp tín dụng, quản lý tín
dụng, danh mục tín dụng, phân cấp thẩm quyền...
Sở dĩ có những quy định như vậy là do hoạt động chủ yếu của các TCTD
là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các chủ thể kinh tế
cần vốn vay phát triển sản xuất, kinh doanh. Là nguồn vốn huy động trong nền
kinh tế, nên việc cho vay đối với các chủ thể có nhu cầu và quản lý nguồn vốn
sau khi cho vay cần được thực hiện qua một chu trình thẩm định kỹ lưỡng. Chu
trình thẩm định này rất quan trọng, mang tính sống cịn đối với các NHTM,
cũng như các qũy tín dụng. Vì vậy, các TCTD phải đưa ra những quy định
nhằm bảo đảm rằng có thể kiểm sốt được các nguồn vốn tín dụng đã cho vay
và đến kỳ đáo hạn vốn được thu hồi, tránh cho các nguốn vốn cho vay rơi vào
tình trạng nợ xấu, ngân hàng khơng có lợi nhuận.
Ở cấp độ này, nội dung tín dụng bó hẹp trong mối quan hệ giữa
người cho vay và người đi vay. Theo đó, lợi ích kinh tế của các chủ thể
hoạt động tín dụng (các TCTD) và lợi ích kinh tế của các đối tượng đi vay
vốn đều được thực hiện. Do đó, về bản chất, CSTD cấp độ các TCTD
khơng gì khác hơn là cơ chế về giải quyết quan hệ tín dụng giữa một bên là
TCTD còn bên kia là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vay
vốn tín dụng của họ.
Hoạt động tín dụng của các TCTD cần được nhìn nhận trên cả hai góc
độ. Một là, do lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thường gắn với những rủi ro cao, do
đó những quy định về CSTD thường có tính "bảo thủ" tương đối, muốn nó
khơng biến thành những rào cản, làm cho CSTD đến được các đối tượng cần
vốn tín dụng, việc tác động nhằm tạo mơi trường thuận lợi cho các chủ thể
20
kinh tế tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển là rất quan trọng nên đòi
hỏi những quy định về mặt nghiệp vụ thường rất chặt chẽ, song lại khơng
được làm "nản lịng" khách hàng. Hai là , các TCTD cũng là những đơn vị
kinh doanh, vì vậy khi nhìn nhận CSTD từ góc độ lợi ích của các TCTD đòi
hỏi các quy định do các TCTD đề ra phải được thượng tôn. Việc tuân thủ các
quy định đó là phù hợp quy định của pháp luật. Điều 15, "Luật Các tổ chức
tín dụng" (1997), về Quyền tự chủ kinh doanh quy định: "Các TCTD có
quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
mình. Khơng một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào
quyền tự chủ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD có quyền từ chối u cầu
cấp tín dụng, góp vốn, cung ứng các dịch vụ ngân hàng, nếu thấy khơng đủ
điều kiện, khơng có hiệu quả, không phù hợp với pháp luật". Nếu không sẽ
khơng cịn là TCTD.
* Tiêu chí đánh giá tính đúng đắn của CSTD đầu tư phát triển
Chính sách kinh tế, CSTD đầu tư phát triển là sản phẩm chủ quan của
con người. Tất thảy mọi chính sách kinh tế được ban hành đều dựa trên cơ sở
sự nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế và các điều kiện kinh tế khách
quan. Do đó, CSTD đầu tư phát triển chỉ phát huy tác dụng khi nó phản ánh
đúng đắn sự vận dụng các quy luật kinh tế và các điều kiện kinh tế khách quan
liên quan đến đầu tư phát triển. Đây là cơ sở khoa học để xác định tính đúng
đắn hoặc bảo thủ của CSTD. Có thể nhận diện tính đúng đắn đó qua các dấu
hiệu (tiêu chí) nhất định.
Những tiêu chí đánh giá tính đúng đắn của CSTD đầu tư phát triển:
Đối với những khoản (gói) tín dụng thuộc CSTD cấp độ quốc gia thể
hiện ở hai nội dung:
(1) Những khoản (gói) tín dụng được tung ra nhằm mục đích đầu tư phát
triển thực sự thúc đẩy quá trình tái sản xuất ở chiều rộng hoặc chiều sâu và góp
21
phần điều tiết kinh tế ở địa bàn mà khoản (gói) tín dụng đó được tung ra để đầu
tư phát triển
(2) Những khoản (gói) tín dụng được tung ra góp phần thực hiện chính
sách xã hội tại địa bàn đầu tư.
Đối với CSTD cấp độ các TCTD, cũng được thể hiện ở hai nội dung:
(1) Những khoản tín dụng đó được cấp thực sự tạo cơ hội cho các chủ
thể tiếp nhận tạo ra được một năng lực sản xuất kinh doanh mới nhờ nâng cao
năng lực cạnh tranh và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.
(2) Những khoản tín dụng đó được cấp thực sự tạo cho các chủ thể tiếp
nhận có nguồn vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, góp phần tiết kiệm
chi phí sản xuất và chi phí lưu thơng (do khơng phải đi vay tín dụng tư nhân thường phải chịu lãi suất cao hơn).
Các nội dung trên phản ánh tính đúng đắn của các CSTD đầu tư phát
triển bởi lẽ khi đã nói đến CSTD là nói đến những quy định về hỗ trợ, bổ sung
hoặc cho vay vốn đáp ứng các nhu cầu về đầu tư phát triển. Chính sách đúng,
phù hợp tạo sự phát triển, chính sách lỗi thời hoặc không phù hợp sẽ không tạo
được sự phát triển, thậm chí cịn tạo ra hiệu ứng ngược.
Do đó có thể sử dụng các tiêu chí trên để rà sốt, xem xét, đánh giá đối
với các CSTD cụ thể khi đã được ban hành. Nếu thấy các CSTD đã được ban
hành không đi vào thực tiễn hoặc không phát huy tác dụng trong thực tiễn như
mục tiêu đề ra khi xây dựng chính sách thì hoặc cần phải tìm ngun nhân và
xử lý những vướng mắc hoặc trong tổ chức thực hiện, hoặc phải sửa đổi, thay
thế chính sách hiện hành bằng một chính sách mới.
1.1.2. Vai trị của chính sách tín dụng đầu tư phát triển đối với kinh tế
ngoại thành Hà Nội
* Một số nét khái quát về đặc điểm của khu vực ngoại thành Hà Nội:
Sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của Vĩnh Phúc và 4 xã của
huyện Lương Sơn thuộc tỉnh Hịa Bình vào Thủ đơ, ngoại thành Hà Nội có một
22
không gian kinh tế đa ngành và một qui mô kinh tế rộng lớn nhất từ trước đến
nay.
Cơ cấu kinh tế Hà Nội nói chung tính đến cuối 2012, cơng nghiệp và xây
dựng: 41,8%, dịch vụ: 52,6%, nông, lâm nghiệp và thủy sản: 5,6% [15, tr.53].
Đáng chú ý là tỷ lệ 5,6% là nông, lâm nghiệp và thủy sản này lại nằm trong
một không gian rộng lớn gần 900 ngàn hộ, với trên gần 4 triệu nhân khẩu, tức
khoảng trên 50% dân số toàn Thành phố (dân số Hà Nội tính đến hết 2012 là
6.9957.300 người, trong đó 18 huyện ngoại thành là 3.809.6000 người [15,
tr.27,28], đang cần có những "cú hích" để làm cho các tiềm năng của khu vực
ngoại thành khơng chỉ được đánh thức, mà cịn cần một tốc độ phát triển nhanh
và bền vững [39, tr.58]. Riêng với ngành nông nghiệp, cơ cấu sản xuất nông
nghiệp năm 2012 là: trồng trọt 44,6%, chăn nuôi: 52,3%, dịch vụ và các họat
động khác: 3,1% [15, tr.239].
Nhìn tổng thể khu vực KTNT Hà Nội thời gian qua tuy có những phát
triển so với trước đây, song vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém cần được
khắc phục sớm và khắc phục nhanh. Biểu hiện cụ thể của những tồn tại, hạn
chế, yếu kém của KTNT Hà Nội thể hiện trên các vấn đề chủ yếu dưới đây:
Một là, các tiềm năng, lợi thế của KTNT chưa được khai thác đầy đủ để
tạo sự bứt phá trong phát triển.
Mặc dù Thành phố Hà Nội đã có một chương trình ưu tiên đầu tư phát
triển KTNT và từng bước hiện đại hóa nơng thơn (chương trình 12- CTr/TU)
và ban hành cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các huyện ngoại
thành, nhằm khai thác các tiềm năng và tạo thế cân bằng trong phát triển,
nhưng đến nay tiềm năng về lao động, đất đai, tiềm năng thế mạnh của các tiểu
vùng, các ngành nghề truyền thống... vẫn chưa được khai thác có hiệu quả,
chưa có nhiều mơ hình sản xuất kinh doanh giỏi có sức lan tỏa (chưa nói đối
với phạm vi cả nước, mà ngay cả tại mỗi địa phương).
23
Hai là, bức tranh kinh tế nông nghiệp nông thôn, tuy đã dần chuyển sang
kinh tế thị trường, nhưng nhìn tổng thể vẫn mang dáng dấp của kinh tế tiểu
nông. Kinh tế hộ nông dân vẫn sản xuất các sản phẩm thô là chủ yếu, kinh tế
dịch vụ chưa phát triển (con số 3,1% dịch vụ trong cơ cấu ngành nơng nghiệp
nêu trên nói lên điều đó); chăn ni có sự phát triển mạnh hơn trồng trọt nhưng
phân tán xen kẽ trong khu vực dân cư, năng lực cạnh tranh thấp. Quy mô của
các chủ thể sản xuất kinh doanh nhỏ bé. (21.242 cơ sở kinh doanh cá thể,
114.770 hộ nghề); đến hết năm 2012, tồn Thành phố có 1.233 trang trại [15,
tr.248]. Diện tích đất nơng nghiệp bình qn chỉ 0,42 ha đất canh tác, 242 m2
đất ở, nếu tính đất nơng nghiệp, chỉ có 42,80% số hộ có quy mô canh tác từ 0,2
đến 0,5 ha [39, tr.79].
Ba là, trình độ sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế khu vực ngoại
thành còn lạc hậu, chưa tạo được sự bứt phá để phát triển nhanh và bền vững.
Theo số liệu điều tra các hộ khu vực ngoại thành Hà Nội (2010), chỉ có
gần 20% số hộ làm ăn giỏi, biết canh tác đúng kỹ thuật, còn lại là trung
bình và yếu. Trình độ trang thiết bị cơng nghệ, kỹ thuật canh tác, SX, KD
cịn nhiều bất cập. Trình độ cơ giới hóa, thủy lợi hóa, cơng nghệ trong chế
biến nơng sản cịn lạc hậu. Trên 80% số cơ sở không đủ khả năng (vốn là
chủ yếu) đổi mới kỹ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất. Tính chung cả khu
vực ngoại thành (theo nhóm điều tra mẫu) chỉ có 43,6% có hệ thống cơng
cụ sản xuất thể hiện có trình độ các mức độ khác nhau về kỹ thuật và cơng
nghệ như: máy móc các loại (máy cày, máy kéo, máy chế biến thức ăn gia
súc, máy tuốt lúa...), xe vận tải, tàu thuyền (được mua sắm từ năm 2000 trở
về trước) [39, tr.86].
Để khắc phục làm được những tồn tại, hạn chế đó khu vực ngoại thành
Hà Nội cần một lượng vốn lớn, theo đó cần một CSTD đầu tư phát triển thơng
thống hơn, phù hợp hơn.