1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------------------
ĐÀO THỊ HƯỜNG
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG KẾT
HỢP VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐĨNG VAI TRONG
DẠY HỌC MƠN GIÁO DỤC CƠNG DÂN LỚP 12
(Qua khảo sát tại trường THPT Lê Viết Thuật,
Thành phố Vinh)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2011
2
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU
1
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP TÌNH HUỐNG KẾT HỢP VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY
HỌC MÔN GDCD LỚP 12
9
1.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp tình huống kết
hợp với phương pháp đóng vai.
9
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với
phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 12.
31
Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH
HUỐNG KẾT HỢP VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐĨNG VAI TRONG DẠY HỌC
MƠN GDCD LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT, TP VINH
42
2.1. Giới thiệu khái quát về quá trình thực nghiệm
42
2.2.
Nội
dung
thực
nghiệm
43
Chương 3: QUY TRÌNH VÀ ĐIÈU KIỆN SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH
HUỐNG KẾT HỢP VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐĨNG VAI TRONG DẠY HỌC
MƠN GDCD LỚP 12
69
3.1. Quy trình sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương pháp
3
đóng vai trong dạy học mơn GDCD lớp 12
69
3.2. Điều kiện sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương pháp
đóng vai trong dạy học mơn GDCD lớp 12
86
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
95
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC
102
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH: Công nghiệp hố, Hiện đại hố
GV:
Giáo viên
GDCD:
Giáo dục cơng dân
HS:
Học sinh
SGK:
Sách giáo khoa
SGV:
Sách giáo viên
THPT:
Trung học phổ thông
PP:
Phương pháp
98
4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay, cả dân tộc ta đang nỗ lực
thực hiện một nhiệm vụ hết sức quan trọng là “phấn đấu đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9; 103]. Để thực
hiện được nhiệm vụ lớn lao này, một trong những vấn đề vừa cấp bách vừa
mang tính chiến lược hiện nay là cần phải xây dựng một nền giáo dục có chất
lượng ngày càng cao, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và hội nhập
quốc tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định một trong ba
khâu đột phá chiến lược là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ” [9;106]. Trong định hướng phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 về “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn
diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo” [9; 130] đã nhấn mạnh: “Đổi
mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các
cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình
giáo dục phổ thơng mới” [9; 132].
Ngay từ năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo việc
đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học ở cấp
THPT, đặc biệt tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh.
Hơn 4 năm (kể từ năm học 2006 - 2007) thực hiện chương trình và đổi
mới phương pháp dạy học, qua khảo sát thực tế cho thấy phong trào đổi mới
5
phương pháp dạy học bước đầu đã thu được nhiều kết quả khả quan. Tuy
nhiên, bên cạnh những giáo viên nghiêm túc, tâm huyết với nghề, năng động,
mạnh dạn tìm tịi, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực thì cũng cịn
một bộ phận khơng nhỏ giáo viên chưa chịu cải tiến phương pháp dạy học:
phương pháp chủ đạo trong dạy học vẫn là diễn giảng, thuyết trình; vẫn còn
hiện tượng “đọc - chép” trong các giờ dạy; giáo viên vẫn ôm đồm kiến thức,
làm việc quá nhiều mà chưa tạo điều kiện, chưa hướng dẫn và khích lệ học
sinh làm việc, hay nói cách khác, học sinh vẫn hồn tồn thụ động trong q
trình tiếp nhận kiến thức.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy
học phù hợp đặc trưng bộ môn GDCD, phù hợp với nội dung từng phần, lựa
chọn phương pháp phù hợp với từng bài dạy, từng tiết dạy nhằm phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh khả
năng hợp tác trong tập thể, rèn luyện kỹ năng biết vận dụng các kiến thức đã
học vào thực tiễn cuộc sống, đem lại niềm vui và sự hứng thú trong từng tiết
học.
Trong hệ thống các phương pháp dạy học có thể vận dụng trong dạy học
mơn GDCD nói chung và mơn GDCD lớp 12 nói riêng thì phương pháp tình
huống và phương pháp đóng vai là những phương pháp dạy học tích cực, đáp
ứng được yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, có tác dụng
phát huy tư duy sáng tạo, nghiên cứu, tìm tịi giải quyết những vấn đề đặt ra
trong học tập đồng thời rèn luyện kỹ năng biết vận dụng kiến thức áp dụng
vào đời sống thực tiễn.
Một trong những nội dung chủ yếu của môn GDCD lớp 12 ở THPT là
trang bị hệ thống tri thức cơ bản, phổ thông, thiết thực về pháp luật cho học
sinh, từ đó hình thành cho các em nhận thức, suy nghĩ, hành động và tuân thủ
6
theo pháp luật. Nội dung phần Công dân với pháp luật được thể hiện tập trung
trong chương trình sách giáo khoa GDCD lớp 12.
Nghiên cứu mục tiêu, nội dung dạy học môn GDCD lớp 12, chúng tôi
thấy rằng, phương pháp tình huống và phương pháp đóng vai là hai phương
pháp quan trọng và hoàn toàn phù hợp trong dạy học môn GDCD lớp 12. Thế
nhưng so với các phương pháp dạy học khác thì hai phương pháp này ít được
giáo viên quan tâm và chưa có nhận thức đúng đắn về vai trị vị trí của của
các phương pháp đó. Trong thực tế, ít giáo viên biết tổ chức cho học sinh
nghiên cứu tình huống kết hợp với đóng vai thể hiện tình huống theo một qui
trình hợp lý, phù hợp với mục đích, yêu cầu, nội dung bài học, dẫn đến giờ
học nặng nề, buồn tẻ, kém hiệu quả. Việc nghiên cứu sử dụng phương pháp
tình huống kết hợp với phương pháp đóng vai khơng những có ý nghĩa về mặt
lý luận mà cịn có ý nghĩa trong thực tiễn, góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay theo hướng tổ chức cho học sinh học tập dưới sự tổ
chức, hướng dẫn của giáo viên. Vì vậy, chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu của
mình là: “Sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương pháp đóng
vai trong dạy học mơn Giáo dục cơng dân lớp 12” (Qua khảo sát tại trường
THPT Lê Viết Thuật, Thành phố Vinh) làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phương pháp tình huống và phương pháp đóng vai là những phương
pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động từ người học.
Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực này vào q trình dạy học với
mục đích lấy người học làm trung tâm là một vấn đề luôn được các nhà giáo
dục trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Phát huy tính tích cực trong nhận thức khơng phải là một vấn đề mới.
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà sư phạm tiền bối như Khổng Tử, Aristôt đã
7
từng nói nhiều đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh và đã đặt nền móng đầu tiên khi nêu những tư tưởng mang
nội dung của phương pháp tình huống nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
của người học. Socrat (469 - 399), nhà triết học của Hi Lạp cổ đại ln dạy
học trị mình bằng cách đặt ra câu hỏi gợi mở để từ đó học trị tự tìm hiểu,
khám phá kiến thức. Quan điểm nổi tiếng của ông là “… Sự tự nhận thức,
nhận thức chính mình…” [17; 29].
Bước sang thế kỷ XX, khoa học - kỹ thuật phát triển nhanh chóng thì u
cầu tự nghiên cứu, chủ động, sáng tạo của người học đặt ra cấp thiết hơn.
IF.Kharlamop - nhà giáo dục Xô viết đã viết “Tri thức trở thành kiến thức
thực sự khi học sinh chiếm lĩnh nó bằng sức lao động, sáng tạo của mình”
[16; 13]. Quá trình dạy học bằng phương pháp tình huống ln đặt ra u cầu
học sinh phải tìm tịi, suy nghĩ. “Điều quan trọng đối với giáo viên là phải
cung cấp các tình huống đa dạng, các khía cạnh lý thú của một kỹ năng cụ thể
cũng như các mục rèn luyện lý thú, các tình huống trong đó học sinh có thể sử
dụng kỹ năng hay kiến thức trong các giai đoạn học tập khác, các mục rèn
luyện có liên hệ với những kinh nghiệm và hứng thú của học sinh…” [1;
175].
Tác giả Thái Duy Tuyên đã đề cập nhiều đến bản chất của các phương
pháp dạy học hiện đại nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
“J.A.Komenxki nhà sư phạm Tiệp Khắc lỗi lạc (1592 – 1670) đã đưa ra
những biện pháp dạy học bắt học sinh phải tìm tịi, suy nghĩ để tự nắm bắt
được bản chất của sự vật, hiện tượng” [27; 478].
Ở nước ta, phương pháp đóng vai được sử dụng trong quá trình dạy học
chưa nhiều. Một trong những vấn đề cơ bản của đổi mới phương pháp dạy
học hiện nay đó là tổ chức cho học sinh “học mà chơi, chơi mà học” đã và
8
đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Nó làm giảm đi sự quá
tải cho học sinh trong quá trình tiếp nhận tri thức, phù hợp với đặc điểm tâm,
sinh lý học sinh. Trong xu thế hiện nay, nếu vận dụng được phương pháp
đóng vai thành công cũng hạn chế được truyền thống “thuyết giảng”. Tác giả
Allan C.Ornstein đã nghiên cứu sâu về các kỹ năng, kỹ thuật của dạy học,
trong đó tác giả nhấn mạnh các chiến lược để dạy học có hiệu quả chủ yếu
thông qua thực hành. Tác giả viết: “Học sinh sẽ học dễ dàng hơn và sẽ nhớ
lâu hơn nếu chúng thực hành cái mà chúng hiểu hay đã học thông qua những
kinh nghiệm trong lớp có ý nghĩa và những kinh nghiệm trước đó” [1; 175]. Ở
Việt Nam, một số tác giả như Nguyễn Nghĩa Dân [7], Đặng Vũ Hoạt [11],
Trần Bá Hoành [12] rất quan tâm đưa phương pháp đóng vai vào để giảng dạy
trong các nhà trường. Các tác giả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của phương
pháp đóng vai trong q trình dạy học.
Ở Việt Nam, thời gian qua đã có nhiều nhà khoa học, nhà sư phạm
nghiên cứu về các phương pháp dạy học tích cực, đặc biệt là phương pháp
tình huống kết hợp với phương pháp đóng vai. Nhiều bài báo, nhiều cuốn
sách, cơng trình nghiên cứu đã được công bố, hỗ trợ rất lớn cho đội ngũ giáo
viên, sinh viên, học sinh tham khảo học tập.
Khi nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực, nhiều tác giả đã phân
tích rất sâu sắc đặc điểm, nội dung và những cơ sở để vận dụng phương pháp
tình huống, phương pháp đóng vai trong dạy học mơn GDCD ở trường THPT.
Điển hình là các cơng trình: Một số phương pháp dạy học tích cực của
PGS.TS Vũ Hồng Tiến [26]; Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách giáo khoa của Trần Bá Hồnh [12]; Thạc sĩ Dương Thuý Nga cũng đã
nghiên cứu về Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học mơn GDCD
[20]… Ngồi ra, các chuyên đề thay SGK, chương trình bồi dưỡng thường
9
xuyên, tài liệu hướng dẫn dạy học bộ môn cũng đề cập nhiều đến phương
pháp tình huống và phương pháp đóng vai trong dạy học mơn GDCD.
Đã có nhiều học viên Cao học nghiên cứu việc sử dụng phương pháp tình
huống và phương pháp đóng vai trong các mơn học khác nhau. Thạc sĩ Vũ
Thị Hồng Quế với đề tài: Qui trình sử dụng phương pháp dạy học đóng vai kết
hợp với phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn đạo đức (Bậc tiểu
học) [23]; Thạc sĩ Đỗ Khánh Năm với đề tài: Sử dụng phương pháp đóng vai
kết hợp thảo luận nhóm trong dạy học mơn khoa học nhằm giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh tiểu học [19].
Tuy nhiên, trong các cơng trình nghiên cứu, các tài liệu chuyên ngành
phương pháp dạy học cũng như các tài liệu tham khảo chưa có tác giả nào đi
sâu nghiên cứu việc vận dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương
pháp đóng vai, đặc biệt là trong dạy học bộ mơn GDCD ở cấp THPT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương
pháp tình huống kết hợp với phương pháp đóng vai. Trên cơ sở đó đề xuất
quy trình và điều kiện sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương
pháp đóng vai nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD lớp 12.
3.2. Nhiệm vụ:
3.2.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương
pháp tình huống kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học môn
GDCD lớp 12.
10
3.2.2. Thực nghiệm sư phạm về việc sử dụng phương pháp tình huống
kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 12 tại
trường THPT Lê Viết Thuật, Thành phố Vinh.
3.2.3. Đề xuất quy trình và điều kiện sử dụng phương pháp tình huống
kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học mơn GDCD lớp 12 nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học của bộ môn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về việc sử dụng phương pháp tình huống
kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học một số bài cụ thể của bộ
môn GDCD lớp 12 (Qua khảo sát ở trường THPT Lê Viết Thuật, thành phố
Vinh).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
qua các văn kiện Đại hội Đảng, Luật Giáo dục 2005.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp phân tích, so sánh,
phương pháp lịch sử - lơ gic, phương pháp thống kê tốn học…
6. Giả thuyết khoa học
Vận dụng một cách phù hợp, linh hoạt phương pháp tình huống kết hợp
với phương pháp đóng vai trong dạy học mơn GDCD lớp 12 sẽ phát huy được
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, tạo niềm vui và sự hứng thú
trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD lớp 12.
11
7. Đóng góp của luận văn
- Đề xuất điều kiện sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương
pháp đóng vai nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học của bộ mơn, phát
huy tính năng động, sáng tạo, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức, tạo
niềm vui và sự hứng thú trong học tập của học sinh.
- Góp phần thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD lớp
12 ở trường THPT hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tình
huống kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học mơn GDCD lớp 12
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm về việc sử dụng phương pháp tình
huống kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 12
tại trường THPT Lê Viết Thuật, thành phố Vinh
Chương 3: Quy trình và điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả việc sử dụng
phương pháp tình huống kết hợp với phương pháp đóng vai trong dạy học
môn GDCD lớp 12
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP TÌNH HUỐNG KẾT HỢP VỚI PHƯƠNG PHÁP ĐĨNG VAI
TRONG DẠY HỌC MƠN GDCD LỚP 12
1.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với
phương pháp đóng vai
1.1.1. Khái niệm về phương pháp tình huống và phương pháp đóng vai
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Phương pháp là một phạm trù hết sức quan trọng, có tính chất quyết
định đối với mọi hoạt động. Khi đã khẳng định được mục đích, đã xây dựng
được một nội dung chương trình dạy học hiện đại, thì phương pháp dạy học
của thầy và trò sẽ quyết định chất lượng dạy học.
Theo Từ điển Tiếng Việt, phương pháp là “cách thức để làm một việc gì
sau khi nghiên cứu kỹ: làm việc có phương pháp” [30; 994].
Theo Từ điển Triết học, “Phương pháp - theo nghĩa chung nhất là cách
thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trình tự nhất định”
[28; 458].
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi lạp “methodos”, có nghĩa
là: con đường, cơng cụ nhận thức. Theo nghĩa thông thường, phương pháp là
những cách thức, thủ đoạn được chủ thể sử dụng để thực hiện mục đích nhất
định. Cịn theo nghĩa khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc
được rút ra từ tri thức về các qui luật khách quan để điều chỉnh hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
13
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng của quá
trình dạy học. Cùng một nội dung nhưng học sinh có hứng thú hay khơng, kết
quả bài giảng đạt hiệu quả như thế nào, phần lớn phụ thuộc nhiều vào phương
pháp dạy học.
Xung quanh khái niệm phương pháp dạy học, hiện nay còn tồn tại nhiều
ý kiến khác nhau.
Theo Phạm Viết Vượng, phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức
hoạt động phối hợp của giáo viên và học sinh, trong đó phương pháp dạy chỉ
đạo phương pháp học, nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh hệ thống kiến thức
khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo thực hành sáng tạo [27; 102
- 103].
Mặc dù chưa có ý kiến thống nhất về định nghĩa phương pháp dạy học
song các tác giả đều thừa nhận rằng phương pháp dạy học có những đặc trưng
sau:
- Nó phản ánh sự vận động quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
được mục đích đề ra.
- Phản ánh sự vận động của nội dung đã được nhà trường qui định.
- Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
- Phản ánh cách thức giao tiếp giữa thầy và trò.
- Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức và kiểm tra đánh
giá kết quả hoạt động.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Phương pháp
dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả thầy và trò trong quá trình
dạy học, dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học.
14
Cũng như các bộ mơn khoa học khác, có thể vận dụng vào q trình dạy
học mơn GDCD nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp thuyết
trình, diễn giảng, phương pháp đàm thoại, phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp tình huống, phương pháp đóng vai, phương pháp dự án… Trong
đó, với đặc thù về mục tiêu của môn GDCD lớp 12 thì phương pháp tình
huống và phương pháp đóng vai là hai phương pháp giữ vai trò quan trọng,
đặc biệt trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả của dạy học bộ mơn.
1.1.1.2. Phương pháp tình huống
* Tình huống
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Tình huống: Tình trạng và cảnh huống” [30;
1129].
“Tình huống là một sự kiện có thực trong đời sống xã hội với những đặc
trưng vật lý, sinh lý, tâm lý và xã hội” [20; 11]. Con người ln ln sống
trong những tình huống nhất định, thường xun phải đối mặt và chịu sự tác
động của những tình huống đó; có những tình huống đơn giản xảy ra trong
sinh hoạt, trong giao tiếp hàng ngày và có những tình huống phức tạp trong
hoạt động nghề nghiệp, hoạt động nghiên cứu khoa học…
“Ở mức độ phổ quát nhất thì mọi tình huống đều có giá trị dạy học, bởi
lẽ bất kỳ tình huống nào cũng đều hàm chứa những tri thức về các sự kiện, tri
thức về kỹ năng và phương pháp giải quyết chúng” [20; 11]. Tuy nhiên, dạy
học khơng phải là một q trình tự phát mà là một hoạt động có chủ đích, vì
vậy một tình huống thơng thường chưa phải là một tình huống dạy học, nó chỉ
trở thành tình huống dạy học khi được giáo viên sử dụng với dụng ý tạo ra
môi trường làm việc cho học sinh, và khi học sinh giải quyết tình huống sẽ đạt
được mục tiêu dạy học.
15
* Phương pháp tình huống
- Khái niệm: Phương pháp tình huống (hay còn gọi là phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình) là một phương pháp dạy học, trong đó học
sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của
tình huống đặt ra [5;14].
Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn, xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn với câu
chuyện có cốt chuyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp
được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực
tế. Tình huống trong dạy học là những tình huống thực hoặc mơ phỏng theo
tình huống thực, được cấu trúc hố nhằm mục đích dạy học.
- Yêu cầu sư phạm
Trong một bài giảng, tình huống được lựa chọn có thể dài hay ngắn, tuỳ
từng nội dung vấn đề.
Tình huống phải được được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu
hỏi như: Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân
vật A? Nhân vật B?... Vấn đề này có thể được ngăn chặn như thế nào? Lúc
này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình
huống rộng hơn, khái quát hơn.
Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống
rộng hơn, với nghề nghiệp trong tương lai của người học.
Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở
nhiều hướng giải quyết.
16
Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề và có thể liên quan đến
nhiều phương diện.
Giáo viên cũng ln lưu ý, tình huống đưa ra phải ln vừa sức với học
sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ thể.
Một tình huống đưa ra cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong
việc giải quyết các tình huống thực tiễn, khơng phải bao giờ cũng chỉ có giải
pháp duy nhất đúng.
Cần phải đa dạng hố hình thức đưa ra các tình huống. Đơi khi, nghiên
cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cát-xét mà
khơng phải ở dạng chữ viết hoặc lời nói.
* Các bước tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có thể là:
Bước 1: Giáo viên cung cấp cho học sinh tình huống để học sinh đọc
(hoặc xem hay nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về nó.
Bước 2: Giáo viên đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến
tình huống để học sinh suy nghĩ.
Bước 3: Học sinh tiến hành thảo luận tình huống thực tế.
1.1.1.3. Phương pháp đóng vai
* Đóng vai
Theo Từ điển Tiếng Việt, đóng vai (đóng kịch): có nghĩa là đóng trị, giữ
một vai diễn trong một vở kịch [30; 374]. Như vậy, quá trình đóng vai là sự thể
hiện nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hoặc màn ảnh bằng các hoạt động
nói năng y như thật. Khi một chủ đề, một vấn đề nào đó trong cuộc sống hiện
thực được xây dựng thành một vở kịch thì đó được gọi là kịch bản, nhưng để
17
thể hiện nội dung kịch bản đó người diễn viên phải đảm nhận sắm vai một
nhân vật và biểu diễn vai diễn đó. Q trình đó được gọi là đóng vai.
* Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là cách thức tổ chức cho học sinh thực hành
“làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định, hoặc
một tình huống của thực tế cuộc sống, bằng cách diễn xuất một cách ngẫu
hứng mà không cần kịch bản hoặc luyện tập trước nhằm giải quyết tình huống
này trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em [5;16].
Đây là phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về
một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được.
Việc diễn không phải là phần chính của phương pháp này, mà điều quan
trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy [5; 16].
* Cách tiến hành
Phương pháp đóng vai được tiến hành chủ yếu theo các bước sau:
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống. Tình huống nêu ra
cho học sinh đóng vai gần như là tình huống có thật trong thực tế; yêu cầu
đóng vai của từng nhóm, trong đó có qui định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian
đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm tiến hành đóng vai, bắt đầu biểu diễn, trong khi đó các em
khác theo dõi “các vai diễn”, xem họ suy nghĩ và hành động như thế nào để
giải quyết tình huống.
- GV hướng dẫn lớp thảo luận, nhận xét. Thường thì bắt đầu thảo luận về
cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ
18
mở rộng sang phạm vi thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn
đề mà vở diễn chứng minh.
- Giáo viên kết luận.
Phương pháp này được thực hiện theo chủ đề một tình huống cụ thể của
nội dung học tập, gắn liền với thực tế cuộc sống. Trong tiết giảng, thời lượng
thời gian để các “diễn viên” thể hiện không dài (chỉ 3- 5 phút) nên giáo viên
cần hướng dẫn học sinh xây dựng kịch bản phù hợp, đơn giản và dễ hiểu.
Trong một kịch bản, ít nhất phải có sự tham gia của 2 nhân vật. Việc giải
quyết tình huống trong một tiết học khơng được xây dựng trước thành kịch
bản, không nên diễn tập trước mà địi hỏi các “diễn viên” phải nhập vai nhanh
chóng, phải phát huy được óc tưởng tượng và tư duy sáng tạo, linh hoạt để
giải quyết tình huống ngay trong khi biểu diễn.
* Yêu cầu sư phạm
Vấn đề quan trọng nhất đối với giáo viên, đó là tình huống đưa ra cho
học sinh đóng vai phải phù hợp với chủ đề bộ mơn GDCD, phù hợp với lứa
tuổi học sinh, trình độ học sinh và điều kiện hoàn cảnh của lớp học.
Tình huống đưa ra cho học sinh đóng vai nên để mở, không cho trước
“ kịch bản” và lời thoại.
Giáo viên phải dành lượng thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị
đóng vai hoặc có thể giao cho các nhóm chuẩn bị đóng vai từ trước.
Người đóng vai phải ln hiểu rõ vai diễn của mình trong bài tập đóng
vai để khơng lạc chủ đề.
Nên khích lệ tất cả học sinh cùng tham gia, kể cả những học sinh nhút
nhát; hoặc giáo viên phân chia từng lượt để mọi học sinh đều có thể tham gia
đóng vai.
19
Giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị hóa trang và những đạo
cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trị chơi đóng vai.
Như vậy, mục đích của phương pháp đóng vai là cụ thế hóa bài học
bằng sự diễn xuất để phân tích nội dung bài giảng chi tiết hơn, sâu sắc hơn.
1.1.1.4. Sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương pháp
đóng vai trong dạy học môn GDCD lớp 12
Phương pháp dạy học môn GDCD rất phong phú, đa dạng bao gồm các
phương pháp truyền thống (diễn giảng, đàm thoại, kể chuyện…) và các
phương pháp hiện đại (hoạt động nhóm, phương pháp tình huống, phương
pháp đóng vai, dự án…). Mỗi phương pháp dạy học mơn GDCD đều có ưu
điểm và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng tiết dạy riêng. Vì
vậy, khơng nên q lạm dụng hoặc phủ định hồn tồn một phương pháp hoặc
hình thức dạy học nào. Điều quan trọng đối với mỗi giáo viên trong quá trình
dạy học là biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, sử dụng kết hợp các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý.
Một trong những định hướng cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học
bộ mơn GDCD là q trình dạy học phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc
sống của HS. Định hướng này đặt ra yêu cầu là GV cần tăng cường sử dụng
các tình huống, các câu chuyện, các hiện tượng thực tế, các vấn đề bức xúc
trong xã hội để phân tích, so sánh, đối chiếu với bài giảng. Q trình dạy học
đồng thời cũng địi hỏi GV phải hướng dẫn, khuyến khích HS biết liên hệ, tự
liên hệ, tìm hiểu, phân tích, đánh giá, thực hành ứng xử các tình huống, các sự
kiện trong đời sống của lớp học, nhà trường và ở địa phương.
Đặc thù riêng của bộ môn GDCD lớp 12 là dạy học kiến thức cơ bản về
pháp luật cho nên dễ gây cảm giác khô khan, nhàm chán. Bởi vậy, các tiết dạy
về pháp luật địi hỏi GV phải đưa ra nhiều tình huống để HS suy nghĩ, giải
20
quyết các tình huống pháp luật đặt ra trong thực tiễn. Trong quá trình dạy học,
sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống bên cạnh nhiều ưu điểm cịn có
những nhược điểm nhất định. Một trong những nhược điểm cơ bản là sử dụng
phương pháp này vẫn còn nặng về lý thuyết, HS chủ yếu phải sử dụng tư duy
trừu tượng để giải quyết tình huống đặt ra. Điều này chỉ đáp ứng được ở một
số HS biết tư duy năng động, tư duy trừu tượng cao. Nếu chỉ nghiên cứu tình
huống sẽ tạo nên sức nặng trong quá trình tư duy của HS, và vẫn chỉ dừng lại
ở tư duy về lý luận. Để những kiến thức mang nặng về tư duy trừu tượng,
nặng về lý thuyết giúp cho HS dễ hiểu, dễ tiếp thu hơn, phát triển sự sáng tạo,
năng động của HS thì cần thiết phải thể hiện thơng qua phương pháp đóng
vai. Q trình này HS sẽ hứng thú, thơng hiểu và ghi nhớ những gì các em
nắm được qua hoạt động chủ động, tích cực của mình.
Như vậy, để giải quyết tình huống có hiệu quả hơn cần cụ thể hố
thơng qua đóng vai. Bởi thực chất của sử dụng phương pháp đóng vai là đã
bao hàm quá trình học sinh phải suy nghĩ, thảo luận để giải quyết tình huống.
Thơng qua hoạt động đóng vai cũng là bước HS được tiếp cận rõ hơn với tình
huống, giải quyết tình huống một cách cụ thể, sinh động, hấp dẫn hơn, kích
thích tính tích cực, hứng thú, chủ động hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức
của người học. “Tổ chức cho học sinh hành động, vận dụng kiến thức có lẽ là
điểm hạn chế của chúng ta hiện nay” [2; 17]. Bởi vậy, quá trình dạy học môn
GDCD lớp 12 cần phải sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với phương
pháp đóng vai nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của
cả hai phương pháp. Vì vậy, trong quá trình dạy học, một mặt, giáo viên biết
lựa chọn các tình huống pháp luật minh họa trong tiết dạy để các em biết gắn
kết bài học với thực tiễn, đồng thời tổ chức hướng dẫn cho các em đóng vai,
thể hiện thử các tình huống đó, từ đó giúp học sinh nhận thức bài học dễ dàng,
21
sâu sắc hơn, hình thành cho HS kỹ năng biết ứng xử, bày tỏ thái độ của mình
trong thực tế thực hiện pháp luật.
1.1.2. Yêu cầu của dạy học nói chung và mục tiêu, nhiệm vụ của mơn
GDCD nói riêng
1.1.2.1. Mục đích của dạy học nói chung:
Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Xu hướng hội nhập và tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ từng
ngày, từng giờ, địi hỏi giáo dục và đào tạo phải đào tạo lớp người trẻ năng
động, sáng tạo, nhạy bén, thích ứng nhanh. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào
phương pháp dạy học, giáo dục của người thầy.
Quá trình dạy học người giáo viên giữ vai trò quyết định trong việc thực
hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển tồn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [17; 20].
Điều 28 khoản 2 Luật Giáo dục xác định: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh” [17; 22].
1.1.2.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của môn GDCD trong trường THPT
Giáo dục cơng dân là một trong những mơn học đóng vai trị quan trọng
trong nhà trường THPT. Bộ mơn GDCD cùng với tất cả các môn học khác
22
góp phần hình thành và phát triển dần dần nhân cách, năng lực và phẩm chất
của người công dân. Khác với các bộ mơn khoa học khác, mơn GDCD góp
phần đào tạo những người lao động mới, vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo
đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có phẩm chất chính trị, tư tưởng,
vừa có ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng, với gia đình và đối với bản thân
mình, nó gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mơn GDCD có nhiệm vụ góp phần đào tạo học sinh thành những người
lao động mới, hình thành những phẩm chất tốt đẹp, tích cực của người cơng
dân tương lai, có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức
trong sáng, ra sức thực hiện đường lối, nhiệm vụ cách mạng đúng đắn của
Đảng và Nhà nước, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Mơn học GDCD là “mơn học có vị trí hàng đầu trong việc định hướng và
phát triển nhân cách của học sinh ở trường THPT” [20; 28].
Đặc thù của môn GDCD là giáo dục phẩm chất chính trị tư tưởng đạo
đức cho học sinh do tất cả các môn học, các hình thức giáo dục của nhà
trường thực hiện. Song mơn GDCD có nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
việc giáo dục đó, nó có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức về
thế giới quan một cách tương đối có hệ thống, tồn diện; giúp cho học sinh
hiểu đúng qui luật phát triển tất yếu của tự nhiên, của xã hội và của tư duy;
giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống của cá nhân và cộng đồng
phải phù hợp với qui luật khách quan của sự phát triển của lịch sử xã hội, biết
sống trong điều kiện của bản thân, gia đình và xã hội, ln có ý thức vươn tới
những cái đẹp. Trên cơ sở những tri thức đó, học sinh sẽ dần hình thành
những quan điểm mới, những khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ, hồi bão,
lịng tin và hành vi tốt đẹp của con người. Đồng thời thông qua tri thức của
mơn GDCD sẽ hình thành từng bước phương pháp nhận thức, tư duy khoa
23
học và phương pháp hành động đúng qui luật khách quan. Đặc biệt trong thời
đại ngày nay việc định hướng đúng đắn suy nghĩ và định hướng đúng trong
hành động có vai trị hết sức quan trọng đối với mỗi cá nhân.
1.1.3. Nội dung chương trình sách giáo khoa và định hướng đổi mới
phương pháp dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT
1.1.3.1. Nội dung chương trình SGK GDCD lớp 12
Về vị trí
Nội dung mơn GDCD ở cấp THPT được xác định 5 phần chính với thời
lượng phân phối như sau:
Phần thứ nhất: Cơng dân với việc hình thành thế giới quan và phương
pháp luận khoa học (16 tiết)
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức (11 tiết)
Phần thứ ba: Công dân với kinh tế (13 tiết)
Phần thứ tư: Cơng dân với các vấn đề chính trị - xã hội (14 tiết)
Phần thứ năm: Công dân với pháp luật (27 tiết)
Xuất phát từ vị trí của từng phần trong chương trình, thời lượng phân bố
cho từng khối lớp được bố trí như sau:
Lớp 10: Học phần thứ nhất và phần thứ hai
Lớp 11: Học phần thứ ba và phần thứ tư
Lớp 12: Học phần thứ năm
Như vậy, phần chương trình học của học sinh khối 12 chủ yếu là những
kiến thức về pháp luật. Đặc biệt, đối với các em chuẩn bị rời khỏi nhà trường
để bước vào cuộc sống mới, chân trời mới với tư cách là những công dân trẻ
của đất nước, việc nắm vững những kiến thức cơ bản nhất về pháp luật để từ
24
đó tự điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng.
Về mục tiêu chương trình
Học xong chương trình GDCD lớp 12, học sinh cần đạt được các yêu cầu
cơ bản sau đây:
* Về kiến thức
- Hiểu được bản chất giai cấp, xã hội của pháp luật; mối quan hệ biện
chứng giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức.
- Nhận biết được vai trò và giá trị cơ bản của pháp luật đối với sự tồn tại
và phát triển của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.
- Hiểu được một số nội dung cơ bản của pháp luật liên quan đến việc
thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng, tự do, dân chủ và phát triển của công
dân.
* Về kỹ năng
- Từng bước hình thành năng lực phân tích, đánh giá các biểu hiện, tình
huống pháp luật trong đời sống thường ngày của bản thân, gia đình và xã hội.
- Biết cách tìm hiểu, tiếp cận các văn bản đã được trang bị trong nhà
trường vào việc tự điều chỉnh hành vi của bản thân trong các mối quan hệ xã
hội mà học sinh tham gia hàng ngày.
* Về thái độ
- Trân trọng, tin tưởng ở lẽ phải và cơng bằng; có ý thức trách nhiệm và
tính tích cực cơng dân trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Tôn trọng và tự giác sống, học tập theo pháp luật, trước tiên là tuân thủ
các qui định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của học sinh trong nhà trường,
25
trong các hoạt động xã hội cũng như chủ động góp phần phịng, chống các
biểu hiện vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội.
Về cấu trúc chương trình
Nội dung chương trình GDCD lớp 12 gồm 10 bài, thời lượng được
phân phối như sau:
Bài 1: Pháp luật và đời sống (3 tiết)
Bài 2: Thực hiện pháp luật (3 tiết)
Bài 3: Cơng dân bình đẳng trước pháp luật (1 tiết)
Bài 4: Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội (3 tiết)
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo (1 tiết)
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4 tiết)
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (3 tiết)
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân (2 tiết)
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước (4 tiết)
Bài 10: Pháp luật với hịa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại
(2 tiết)
Tồn bộ chương trình GDCD lớp 12, phần Công dân với pháp luật gồm
hai chủ đề lớn:
Chủ đề thứ nhất: Bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát triển
của công dân, đất nước và nhân loại - được cụ thể hóa trong các bài 1, 2, 8, 9,
10.