Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu CÁC NHÀ NHÂN HỌC CHỈ CẦN ỨNG DỤNG: CÁC THÁCH THỨC CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.59 KB, 32 trang )

www.lrc.ctu.edu.vn

1
Tạp chí Viện Nhân học Hoàng gia (N.S) 13, 147 – 165
Bản quyền: Viện Nhân học Hoàng gia 2007
CÁC NHÀ NHÂN HỌC CHỈ CẦN ỨNG DỤNG:
CÁC THÁCH THỨC CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
Paul Sillitoe, Trường Đại học Durham
Người dịch: TS. Nguyễn Xuân Thơm, Đại học Quốc gia Hà Nội
Việc ứng dụng nhân học đang ngày càng thu hút sự chú ý khi một thời việc
này được coi là một việc đáng ngờ. Sự nổi lên của nhân học ứng dụng phản
ánh sự lan toả rộng rãi của ngành học này khi người ta tìm kiếm sự ứng
dụng trong một loạt các ứng dụng. Trong bài báo này tôi đưa ra ý kiến về
một số vấn đề đang được tranh cãi mà tôi đã gặp phải trong khi cố gắng đối
đầu với thách thức của ứng dụng nhân học trong bối cảnh “kiến thức của
người trong nghề” về các vấn đề phát triển, các vấn đề đòi hỏi phải quan
tâm chú ý để đẩy công việc lên phía trước. Một tổng luận ngắn gọn về lịch
sử cho thấy việc không đề cập các vấn đề này đã ngăn cản các nỗ lực nhằm
thiết lập ngành nhân học ứng dụng trước đây. Các vấn đề này bao gồm việc
định nghĩa chủ đề mà chúng ta cần ứng dụng, những ứng dụng mang tính
liên ngành cho các khoa học xã hội và vấn đề về chuyên môn sâu. Các xem
xét khác liên quan đến việc tạo cho các phương pháp nhân học một góc
cạnh ứng dụng bao gồm, ví dụ như, các đòi hỏi mang tính thách thúc của
các nghiên cứu đi kèm. Tôi lược giản ra đây năm phương pháp để quan sát
nhân học ứng dụng: Khai thác bí quyết công nghệ của những khoa học
khác; sử dụng kiến thức nội bộ môn để thúc đẩy sự phát triển; Chuyển giao
việc nghiên cứu và ứng dụng qua các nền văn hoá; Tìm cách đẩy mạnh việc
sử dụng tri thức cho mục đích thị trường; và cuối cùng tạo ra sự phê phán
mang tính cấp tiến về quá trình phát triển. Tất cả các vấn đề này đếu là
những thách thức đối với chúng ta. Và chúng chỉ ra thời đại thú vị cho nhân
học.



Ứng dụng của nhân học là gỉ? Đây là một vấn đề có ý nghĩa thiết thân trong
bối cảnh kinh tế, chính trị hiện nay khi những biến đổi từ kinh tế thị trường
đã tác động lên giáo dục đại học. Nhưng đây là một vấn đề khó nhất trí cho
nên sau 150 năm vẫn cần thiết phải đặt ra câu hỏi này. Các kết quả đáng thất
vọng từ nỗ lực của các thế hệ các nhà nhân học kế tiếp nhau cho thấy cách
thức trong đó ngành học này định nghĩa và tiếp cận các vấn đề đã không cho
nó hướng tới sự ứng dụng. Nếu chúng ta không nhất trí rằng các tiền đề của
www.lrc.ctu.edu.vn

2
chúng ta đã ngăn cản ý nghĩa ứng dụng, thì tại sao chúng ta lại luôn gặp khó
khăn trong các giải pháp ứng dụng? Quãng vài chục năm trước ReadClift
cũng đã đưa ra một câu hỏi tương tự trong một tập sách hướng tới nhân học
ứng dụng, rằng “phải chăng những ngáng trở tồn tại trong ngành nhân học
ngày nay là kết quả của việc không có khả năng tiếp cận với thực tế hay nó
là hội chứng của một cái gì đó còn sâu sắc hơn thế” (1985: 202). Các hướng
mở ra câu trả lời cho câu hỏi này nay vẫn còn hạn chế.
Có lẽ chúng ta nghĩ về thuật ngữ ứng dụng chưa ổn lắm. Mà ngành học thì
lại không có biến chuyển gì, như Evans – Pritchard (1946: 92), Hogbin
(1957: 245-6), Mair (1969: 3) và những người khác đã từng chỉ ra trước đây
về các ứng dụng trong cơ khí, dược, nông nghiệp. Suy nghĩ theo hướng này
tôi đã chỉ ra rằng ý tưởng về ứng dụng nhân học là một cái gì đó mang tính
mâu thuẫn về thuât ngữ (Sillitoe 2000: 7 – 8) đặt ra câu hỏi làm sao mà
người ta có thể ứng dụng các kiến thức về, ví dụ, các đức tin trong thờ vật tổ
và các cấm kỵ, hay kiến thức về các từ thân tộc, các sắp xếp hôn nhân, hoặc
các đức tin của tổ tiên. Thách thức là ở chỗ phải thoả thuận ứng dụng là ứng
dụng gì đối với nhân học, và từ đấy đề cập các vấn đề hiện đang ngăn cản sự
ứng dụng. Kinh nghiệm trước đây đã cho thấy con đường đi để tìm được câu
trả lời cho câu hỏi đó không hẳn là dễ dàng (Firth 1981; Grillo 1985)

Những nỗ lực hiện nay để ứng dụng nhân học phản ánh sự phát triển rộng rãi
của ngành học với những nỗ lực ứng dụng trong một loạt các ứng dụng bao
gồm bán lẻ, ngân hàng, chính phủ, kinh doanh, giải trí. Những nỗ lực này
cho thấy rằng nhân học liên quan đến hầu như mọi thứ, đòi hỏi ngành học
này cần phải tồn tại. Đối với tôi công việc này tập trung vào cái gọi là “kiến
thức trong nghề” trong phát triển ngành học, ở đó tôi có thể thấy sự ứng
dụng của nhân học. Sự xuất hiện của các vấn đề này, theo dòng các biến đổi
trong sự phát triển vài thập kỷ qua (ngày càng được quan tâm), đã tạo ra một
khía cạnh mới cho câu hỏi “chúng ta áp dụng nhân học như thế
nào?”(Antweiler 1998; DeWalt 1994; Purcell 1998; Sillitoe 1998). Các cơ
hội để cho nhân học có điều kiện đóng góp chưa bao giờ tốt như bây giờ.
Nhưng, với thậm chí các phương pháp tiếp cận liên ngành thì cũng khó có
thể ứng dụng , cho nên ngành nhân học cũng khó có thể đẩy vấn đề ứng
dụng tiến lên. Khi tôi cố gắng đối mặt với các thách thức của việc ứng dụng
nhân học, thì tôi cũng phải thừa nhận rằng tôi lọt vào một đống các mắc mớ
tạo ra bởi những nghịch lý mà tôi quay về hướng nào cũng vấp phải. Và
chúng ta chắc chắn có thừa cớ để tranh luận các vấn đề mâu thuẫn nhau,
ngay cả khi đã tìm cách để giải quyết các vấn đề mâu thuẫn văn hoá một
cách ổn thoả, nhất là trong thời buổi cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận.
www.lrc.ctu.edu.vn

3
Lịch sử của nhân học ứng dụng
Về xem xét lịch sử của nhân học cho thấy rằng nhân học luôn tìm cách
chứng tỏ sự phù hợp của nó từ thủa sơ khai, kể cả khi nó bao gồm cả một
loạt các mong muốn không dễ gì giải quyết từ những nỗ lực ban đầu nhằm
thiết lập ngành dân tộc học cho đến những nỗ lực ngày nay (Sillitoe 2006b).
Lúc đầu, ngành học khởi phát như là một nỗ lực đào tạo các quan chức cai
trị thuộc địa phục vụ ở các vùng lãnh thổ nước ngoài, sau đó để cung cấp
cho những người được đào tạo “khả năng tiếp cận quan điểm của người bản

xứ” và trình bày vấn đề này cho các quan chức, các nhà làm chính sách để
đẩy mạnh việc cai trị tốt hơn. Môn học ngày nay tìm cách đóng góp không
chỉ cho công tác phát triển quốc tế mà cả các vấn đề thuộc công nghiệp, cai
trị, xã hội ngày càng rộng lớn hơn.
Sau khi chính phủ Mỹ thành lập Ban Dân tộc học năm 1879 (tập trung chủ
yếu các nỗ lực vào nhân học người da đỏ” bị cai trị, các nỗ lực tương tự như
vậy ở Anh cuối TK19, đầu TK 20 cũng để nhằm thành lập một cơ quan
tương tự để làm việc với các dân tộc khác nhau trong đế chế, nhưng việc này
không thành công, những người đề xướng không thuyết phục được nhà cầm
quyền rằng nhân học có thể đóng góp quan trọng nào đó cho Bộ Thuộc địa
(Harvey 2006). Ở những năm sau thì họ có tiến triển đôi chút tốt hơn. Vị thế
này cũng khó khăn tương tự ở Mỹ nơi Brinton đã từng nói đến nhân học ứng
dụng từ rất sớm váo năm 1896 (Foster 1969:198), Nhưng một số người (vd.
Herskovits 1936) đã đặt vấn đề chất vấn bản chất thực của nhân học. Ở Anh,
Evans – Prichard (1946) dần dần cũng theo chủ đề này, đưa ra lập luận rằng
các ưu tiên mang tính học thuật chứ không phải là thực tiễn là điều quyết
định chương trình hành động của nhân học. Các ý kiến trở nên căng thẳng
hơn khi ngày càng có nhiều các thuộc địa giành được độc lập. Điều này
trùng hợp với nhiều minh chứng phê phán thời kỳ thuộc địa (Asad 1973;
Buruma & Margakit 2004; Prakash 1995; Said 1978; Spivak 1990), và cuối
cùng lan sang thành phê phán sự phát triển thực tế, coi nó như là sự phát
triển tiếp theo của các nỗ lực thuộc địa trước đây. Cuối cùng nhân học ứng
dụng phải đối mặt với một bước lùi ở Mỹ khi có một sự thật rằng các nhà
cầm quyền đã sử dụng kiến thức nhân học trong chiến tranh Việt Nam (Price
2000), mặc dù kết quả mang tính thiết thực của nó là để củng cố các tiêu
chuẩn đạo đức – và chúng ta có thể nghe được các mối quan tâm này hiện
nay trong các cuộc tranh luận về sáng kiến PRISP về việc đào tạo nhân học
của CIA chìm. Cũng không rõ các nhà nhân học có dính dáng gì đến công
tác ứng dụng được vận dụng để chống lại quyền lợi của người khác không.
Trên bề mặt của ngành học này có rất ít cơ hội để chúng tỏ sự phù hợp của

www.lrc.ctu.edu.vn

4
nó bới vì những người không biết gì về những hạn chế của ngành học thì lại
mong muốn ngành học này có khá năng đảm đương những công việc mà nó
không có thế đảm nhiệm đầy đủ. Hoặc là ngành học này bị ngăn cản không
được đóng góp vào những công việc mà ở đó nó đóng vai trò quan trọng.Ví
như phát triển quốc tế, do có những sắp xếp thiên lệch chống lại ngành học.
Phản ứng là tránh từ ứng dụng đi với những liên tưởng không thú vị gì của
nó (Hội Nhân học Ứng dụng Mỹ là trường hợp ngoại lệ), và chỉ chấp nhận
các so sánh bằng nhân học “đơn thuần”. Một vài tổ chức mới ra đời với
những dòng chữ viết tắt (Grillo 1985: 2; Wright 2006), ví như ở Anh, tổ
chức GAPP (Group for Anthpology in Policy and Practice -Nhóm nhân học
chính sách và thực hành), và ở Mỹ, tổ chức NAPA (National Association for
the Practice of Anthropology - Hiệp hội Quốc gia về Thực hành Nhân học)
với các LPO (Local Practitional Organizations Tổ chức thực hành địa
phương) của nó. Kết quả còn tản mạn và tất cả các tổ chức ở Anh trở nên im
ắng; gần đây, Hiệp hội các nhà Nhân học Xã hội đã nhất trí là tổ chức chịu
trách nhiệm chung trong mạng lưới các nhà nhân học ứng dụng được thành
lập bởi một số người bên ngoài làng chuyên môn. Nó cho thấy những dấu
hiệu của việc thi đua phát triển các nỗ lực mở rộng của nhân học Mỹ bằng
cách tìm kiếm các khả năng ứng dụng ở nhiều lĩnh vực khác. Viện Nhân học
Hoàng gia không biểu lộ khuynh hướng là đại diện cho các nhà nhân học
ứng dụng mặc dù gần đây tổ chức này nhận Huân chương LUCYMAIR là
vinh dự của nó. Quan điểm này có thể thay đổi với những thách thức hiện tại
đối với ngành học nhằm chúng tỏ giá trị của nó.
Trong thời kỳ sau. Nhân học xã hội Anh ngày càng trở nên trùng lặp với xã
hội học trong công cuộc tìm kiếm sự phù hợp chuyên môn tới mức là hiện
nay khó có thể tách bạch giữa các công việc nhân học và xã hội học, trừ khi
xem xét trên nền tảng rằng những người thực hành nhân học có thể cảm tình

với sự so sánh giao văn hoá và có sự hiểu biết về các tác phẩm kinh điển về
địa dân tộc học không phải của phương Tây. Điều này làm nổi bật lên vấn đề
về định nghĩa ngành học làm cho ngày càng khó có thể phát biểu là nhân học
sẽ đưa ra cụ thế những cái gì (bản thân xã hội học là một cuộc vật lộn với
phê bình cánh tả để thuyết minh cho công tác ứng dụng của nó trong chính
sách xã hội, công việc cộng đồng, phúc lợi xã hội, v..v). Phạm vi bao quát
của nhân học xã hội quả thực là rộng lớn.
Chúng ta tìm kiếm ứng dụng gì ở môn học này?
Điều cần thiết đầu tiên là phải đồng ý với định nghĩa về nhân học, chỉ như
vậy chúng ta mới có thể bàn về việc ứng dụng nó. Một số xuất bản phẩm gần
www.lrc.ctu.edu.vn

5
đây đã tranh luận về bản sắc và tương lai của nhân học, một số thậm chí còn
nói về một sự khủng hoảng (Moore 1996; Pina-Cabral 2005; Shore &
Ahmed 1995). (4) Như Stocking quan sát, “Giới hạn của nhân học đã luôn
có vấn đề - rất có vấn đề, có người nghi ngờ, so với các ngành và các diễn
ngôn khoa học xã hội. Tuy nhiên, không bao giờ, nó có quá nhiều vấn dề
như ngày nay” (2001:35). Ông tiếp tục bàn luận về sự phổ biến của các
nhóm phân ngành trong hiệp hội nhân học Hoa Kỳ và những quan tâm về sự
manh mún của ngành ngăn cản cách tiếp cận có hệ thống các thách thức
ngày nay. Nhân học hiện nay hiển nhiên như một nhà thờ lớn với những bức
tường đã rạn và mái sắp sập. Có thể vượt qua các vấn đề đa dạng như vậy
không, có nghĩa là, nghiên cứu con người theo nghĩa đen, hay điều này là
quá tham vọng?
Có vẻ như các nhà nhân học, những người tham dự vào các cuộc tranh luận
về bản chất của ngành này từ thế kỷ 19, không thể đồng ý với nhau một định
nghĩa, thúc đẩy những cuộc tranh luận không có hồi kết, hiện đã bị đẩy xa
hơn với những kiến giải ngược. Đó là một vấn đề mà tôi phải đối mặt hàng
năm, giống như những người khác, trong việc giới thiệu về nhân học cho

sinh viên; bước đi một cách khó khăn, để đến một kết cục buồn trong một
vài bài giảng gì đó. Chúng ta có thế dự đoán những rắc rối trong việc ứng
dụng một ngành học mà với nó, một tác giả gần đây đã thấy rằng đó là “một
chủ đề rất kỳ cục” bởi vì “thật khó để nói nó nghiên cứu cái gì”, và “chẳng
có chút nào rõ ràng chúng ta phải làm gì để nghiên cứu nó” (Ingold 2000:
14). Trong sự kiện này, chúng ta sẽ làm gì để thúc đẩy việc ứng dụng và
thuyết mục những người khác về những giá trị của nó?
Trong một tác phẩm gần đây về ứng dụng nhân học, Pink cũng nói rằng, ứng
dụng hay học thuật, là “khó để định nghĩa” và “mơ hồ và nghi hoặc”, và ghi
chú rằng các tác giả của các bài giới thiệu thường vòng vo quanh vấn đề này
bằng cách mô tả các nhà nhân học làm gì”, nhưng bà cũng tìm kiếm để tạo
ra tính hấp dẫn của vấn đề này bằng biện luận rằng “chúng ta không nên cốt
lõi hoá nhân học, có nhiều cách khác nhau một người có thể là/hoặc được
gọi là một nhà nhân học” (2006:10). Nhưng bà vẫn mong muốn định nghĩa,
như sự đối lập với “cốt lõi hoá”, nhân học như “một hình thức tiếp cận, một
hệ biến hoá hay một tập hợp các ý tưởng tạo thành sự hiểu biết của chúng
ta”, bao gồm một “cách xây dựng và phân tích một vấn đề, tạo ra và xem xét
một cách có phê phán “bằng chứng” và phản ánh trong ngữ cảnh văn hoá xã
hội rộng lớn”. Trong cố gắng chỉ ra nhân học khác các ngành khoa học khác
như thế nào trong việc giải quyết các vấn đề, bà trích Nolan, người biện luận
rằng các nhà nhân học “hiểu rằng văn hoá là chìa khoá giải quyết nhiều
www.lrc.ctu.edu.vn

6
khuôn mẫu mà chúng ta thấy và nhiếu vấn đề mà chúng ta cố gắng giải
quyết” (2003:119-20); Tiếp cận các vấn đề theo cách quy nạp; “là tổng thể
trong các phương pháp tiếp cận và triển vọng”; Nhận biết các mối quan hệ là
quan trọng, và “là tương tác”. Một nhà nhân học cũng tự minh chứng ‘học
để nói tiếng nói của tổ chức này (ông/bà ta làm việc cho), hiểu được các tầng
bậc quyền lực, và hệ thống văn hoá & xã hội” (Pink 2006:11), cho dù sự

hiểu biết của ông/bà ta khác như thế nào với những người khác làm việc
trong cùng một tổ chức là không rõ ràng.
Các tranh luận trong ngành này về vai trò và nghĩa vụ của các nhà nhân học
sản sinh ra cái gọi là công tác ứng dụng, dựa trên giả định là làm nhân học
hay là một nhà nhân học rõ ràng là những lĩnh vực hoạt động không hạn chế.
Những quan điểm này dựa trên một khái niệm chưa nhận thức được rằng
người ta có thể không hạn chế nhân học, như một thực tế, và như một nghề
(2006:119).
Ngược lại, như Van Willigen chú giải, công việc của các nhà nhân học ứng
dụng là “được xác định bởi các vấn đề và không phải bởi ngành này” (1986:
7). Điều này làm cho chúng ta với các khoa học xã hội không chia tách (Cho
dù nhân học cho nhiều người cũng bao gồm cả sinh học). Tôi không nghĩ
rằng điều này là hữu ích. Nếu như chúng ta muốn nghĩ về nhân học ứng
dụng như mặt ngược lại của nghiên cứu xã hội ứng dụng, chúng ta phải xác
định sự khác biệt. Đây không phải là những vấn đề duy nhất của nhân học.
Vấn đề định nghĩa ngành này đặc thù ở nhiều khoa học xã hội lân cận đang
xác định ranh giới, giống như tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa học thuật
đối ngược với công tác ứng dụng cũng như những hiểu lầm tồn tại giữa
nghiên cứu định tính và định lượng. Những điều này gợi ra rằng chúng ta
phải xem xét những cách thay đối của việc làm nhân học trên quan điểm vai
trò thay đổi của nó trong một kỷ nguyên phát triển của kỷ nguyên về nghiên
cứu xuyên ngành đang xuất hiện.
Các bộ phận làm nên phần cốt lõi của nhân học mà từ đó chúng ta có thể tìm
kiếm sự ứng dụng, thì ngoài việc nói rằng việc nghiên cứu ứng dụng có thể
mang đến một số kỹ năng khó có thể nói cho cụ thể một cách thuyết phục vì
những kỹ năng này khác với những kỹ năng đã thu được trong việc nghiên
cứu những bộ môn khác, cũng như đây là một cách tiếp cận cuộc sống, cũng
khó xác định một cách rõ ràng. Khủng hoảng hiện tại của nhân học có thể
chỉ ra rằng chúng ta đã chạm tới một giới hạn xã hội, vì, như một người nào
đó đã nhận định gần đây đối với Henley.

www.lrc.ctu.edu.vn

7
Tôi đã nói chuyện với một nghiên cứu sinh tiến sỹ ở Cambridge vào một
ngày và cô ấy đưa cho tôi một danh sách các lụân án đang viết….. rất ít
trong số đó được đặt một cách rõ ràng trong bối cảnh của nhân học. Thay
vào đó, nó nói về sở thích trong văn hoá của những người đồng tính ở Berlin
– tôi nhớ ý nghĩ của mình lúc đó rằng nhân học thậm chí đã để mất chủ đề
của nó (2006:184 – 5).
Bước vào nghề, người ta bảo với tôi rằng tôi là một người cổ lỗ khi tham gia
vào nghiên cứu vùng cao nguyên New Ginea liên quan đến việc trao đổi lợn
và vỏ trai khi những người nghiên cứu cùng thời đang chú trọng nghiên cứu
vùng nông thôn nước Anh hoặc các cộng đồng di cư vùng thành phố. Một số
người khác tập trung nghiên cứu vào hành vi của những ngưòi ham mê bóng
đá, nhân học mua bán, hội hè theo lứa tuổi, v..v. Thời gian trôi qua, tôi tự
cảm thấy là mình càng bế tắc, cho tới gần đây tôi mới bắt đầu lờ mờ cảm
nhận là tôi đã xoay quanh một vấn đề “về căn bản” cho biết nhân học là gì.
Nó xác định vùng giáp ranh của một vùng văn hoá xã hội trước một thế giới
hoàn toàn khác với chính bản thân nó mang theo đặc tính tương đối về văn
hoá chưa được đánh giá. Nó liên quan đến việc tìm hiểu một ngôn ngữ hoàn
toàn khác với những cuộc tìm hiểu khó khăn về những tác động ngoại lai.
Nó cuối cùng cho thấy sự tin tưởng của một nhóm người mà chúng tôi cộng
tác chặt chẽ trong những chi tiết nghiên cứu công phu, sử dụng một phương
pháp khó thực hiện và mâu thuẫn về những quan sát phụ trợ, và bao quát
việc nghiên cứu cộng đồng ở tầm quy mô tổng thể. Trong khi tiêu điểm của
nhân học có thể mang tính dịa phương, chúng ta phải thừa nhận rằng ta phải
đặt nhân học trong một tầm bao quát rộng và tính đến tương tác phức hợp
giữa các lực lượng ở tầm vi mô và vĩ mô, bao gồm những vấn đề toàn cầu
(Knob: 1999 – 5 -7), Kết quả là dân tộc học, một từ khoá khác thường được
nhắc đến trong định nghĩa nhân học. Các ghi nhận về dân tộc học bao gồm

kiến thức đặc thù mà chúng ta thường đưa vào các thư viện, qua đó chúng ta
có thể rút ra điều gì đó trong bối cảnh ứng dụng. Bên cạnh việc sử dụng nó
trong các so sánh chéo văn hoá, mặc dù nó chịu tác động của những cuộc
tranh cãi không ngừng, nhằm mục đích tìm hiểu thêm về tính nhân loại. Vậy
ta nên áp dụng những chi tiết đó như thế nào?
NHÂN HỌC NHƯ MỘT ĐỐI TÁC LIÊN NGÀNH.
Tầm bao quát rộng của bộ môn thật nghịch lý, vừa là điểm mạnh, vừa là
điểm yếu trong bối cảnh ứng dụng, Với một vấn đề liên quan đến định
nghĩa, nó có thể là một nguồn tri thức hữu ích (Sillico: 2004). Các nhà nhận
học được trang bị kến thức đầy đủ để tiếp cận không chỉ các vấn đề tiếp cận
ranh giới văn hoá, mà cả các vấn đề chuyên ngành. Điều này cho phép họ
www.lrc.ctu.edu.vn

8
làm quen với nghiên cưu liên ngành (Rew, Flesh 2005). Chúng ta có thể tìm
thấy nguồn gốc của tác động liên ngành đối với tiêu điểm của bộ môn ở các
tập hợp nhỏ. Với tư cách là một ngành học quan tâm đến các trật tự xã hội
như vậy, nhân học tự bộc lộ và tự đặt ra một cách tường minh việc nghiên
cứu tất cả những gì thuộc về nó (5). Các nhà nhân học dần dần nhận ra rằng
người ta không thể đoán trước được các vấn đề liên quan với nhau, và phái
chức năng luận được ra đời với quy định rằng chỉ có các nền văn hoá mới
bao gồm các tổng thể liên quan đến nhau, ta không thể bỏ qua bất kỳ một
khía cạnh nào mà không phạm phải các hiểu biết méo mó về nó. Quan niệm
chính đáng này cuối cùng được đúc kết trong khái niệm về chủ nghĩa tổng
thế, đó là sự nghiên cưú về toàn bộ vấn đề (Grillo 1986:21-22), điều này
thực sự thoả đáng, và đóng một vai trò then chốt trong việc nhận diện tính
liên ngành của nhân học, nhưng nó cũng bao hàm hạn chế là ngành học này
có vẻ như hướng tói nghiên cứu tất cả. Hậu quả là sự dàn trải của nhân học
như đã trình bày trên đây,
Chúng ta có thể khai thác tính bao hàm rộng của nhân học bằng cách cho

rằng nhân học đưa chúng ta tiến lên trong nghiên cứu chuyên ngành hiện
nay, trong đóng góp về một trật tụ chi tiết mới khi các ranh giới của môn học
trở nên mờ ảo với các nghiên cứu tổng thê (Ưâl Stain 2003.). Việc quá day
dứt về biên giới môn học có thể mang tính phản tác dụng do một số ngành
học quan tâm đến cùng một vấn đề. Tương tác lẫn nhau có thể đưa đến kết
quả cùng tìm ra các tác động chung, ví như trong sinh thái học chính trị nơi
các biên giới chuyên ngành không ăn nhập gì với quan tâm của các nhà môi
trường, các nhà nhân học, các nhà địa lý học khi cùng nghiên cứu, hay như
các nghiên cứu về các hệ thống tri thức hiện nay, các nhà triết học, các nhà
nhân học, xã hội học tạo nguồn kích thích cho nhau. Như việc phân định lại
các ngành học và sắp xếp lại tri thức, nếu làm đươc, có vẻ tỏ ra là có hại, vì
điều này có hàm ý rằng, như Grill đã quan sát, nhân học, ngành học mà biên
giới của nó rất mỏng manh và khó phân định, sẽ phải vật lộn để tồn tại trong
một vũ trụ trí thức chuyên ngành (2006, Tr. 19). Tôi nghĩ rằng nhân học sẽ
có nhiều cống hiến hơn và cống hiến đó không phải chỉ do chúng ta công bố,
mà là do các khoa học xã hội khác cũng đã nói đến rồi.
Dù có điều gì xảy ra nữa, chúng ta vẫn phải lập laị trật tự hoặc khoanh vùng
chuyên môn sự hiểu biết của chúng ta theo một cách nào đó. Tính mở của
nhân học trước các ngành chuyên môn đan chéo nhau sẽ cho phép người học
vận hành như điểm nối dòng giữa các luồng ý tưởng của các ngành học khác
nhau, bất kể chúng được định nghĩa như thế nào, người ta đã có những nhận
định rằng “các chuyên gia ở những chuyên ngành khác nhau phải nói chuyện
www.lrc.ctu.edu.vn

9
được nhau. Để vượt qua chủ nghĩa chuyên môn hẹp hòi, phải trợ giúp
nghiên cứu chuyên sâu trong một số lĩnh vực trong khi bỏ qua tâm lý vẽ bức
tranh tổng thể rộng lớn hơn. Đâu là một trong những lý do một số người đưa
ra để kích thích sự quan tâm của công chúng và làm thuyên giảm lòng tin
vào các chuyên gia – như ví dụ trong sự can thiệp nội ngành trong sinh sản

của loài người, lại bỏ qua các gen tốt và các bế tắc về dân tộc vì ta tự hiểu
rằng chưa có khả năng để lý giải, hay như trong sự phát hiện của các giống
biến gen, mặc dù đã đựơc hưởng thành quả khoa học sáng ngời, vẫn có thể
đe doạ môi trường tự nhiên theo những cách mà ta chưa nhận biết được
(Stone 2002: 611). Cho nên cần phải đặt những nghiên cứu như vậy trong
một bối cảnh rộng lớn hơn và đẩy mạnh việc tranh luận trong khi không bóp
méo vấn đề.
Nhưng chỉ nói rằng di sản liên ngành của nhân học đặt cho một nền tảng ứng
dụng của nhân học là chưa đủ. Chúng ta phải cải tiến cách thức làm việc để
thúc đẩy nó. Trong bối cảnh phát triển, như Rechard đã chỉ ra một thời gian
trước đây, các nhà nhân học bước vào các lĩnh vực mà họ không thể chỉ tự
mình giải quyết. Bà tiếp tục đặt câu hỏi “Liệu việc đào tạo các nhà nhân học
có tiếp tục mở rộng để cung cấp cho họ một số tri thức của các lĩnh vực
khác?” (1944: 229). Câu trả lới theo tôi là khẳng định, bởi vì “cách duy nhất
để kiến thức nhân học có thể ứng dụng vào bối cảnh phát triển là đi cặp với
kiến thức của một ngành khác nào đó như nông nghiệp, cơ khí, y học hay
kinh tế (Sillitoe 2000: 299). Gợi ý này có thể làm ai đó khó chịu. Theo lời
của một trong những người có quan điểm trung dung ngoại đạo khi tranh cử
một ghế mà tôi đã không tranh cử thành công thì “nhân học đã là tất cả
chưa?” trong ngữ cảnh này tôi nghĩ là chưa. Những người khác trước đó
cũng nói thế. Trong một đánh giá thật xít sao, Cochrare đã lưu ý sự đánh giá
của nhu cầu và đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải có năng lực trong một số
lĩnh vực và khuyến cáo phải có sự đào tạo về nhân học và sự làm quen với
các ngành học khác liên đới đến công tác phát triển, mà nếu thiếu thì nhân
học chẳng qua chỉ là một thành viên tri thức của cộng đồng mà anh ta nghiên
cứu, và theo ý kiến của ông đây chẳng qua chỉ là một nỗ lực áp dụng kiến
thức nhân học một cách biệt lập, … cuối cùng dẫn đến sự thất bại trong lộ
trình tiến bộ (1971: 11,12,14,26). Những người có quan điểm đồng tình là
Ackroyd, Grello, Tapper trong một báo cáo tại một hội thảo đề cập về vấn đề
sử dụng tri thức của các nhà nhân học, họ lưu ý rằng nhân học chưa có một

cơ sở rõ ràng để ứng dụng bất kỳ cái gì ngoài một quan điểm về con người
và một số tri thức về một số mặt hoạt động của các xã hội và các nền văn
hoá khác, và liệu những tri thức này có thể được ứng dụng (hoặc được sử
www.lrc.ctu.edu.vn

10
dụng như khởi xướng) nếu không được bổ trợ bởi một số tri thức kỹ thuật và
kỹ năng khác (1980: 6).
Đào tạo nghề và giáo dục nhân học có thể gây cho một số người cảm giác vớ
vẩn, nhưng các nhà nhân học và các chuyên gia với quan điểm cao siêu xa
vời thậm chí còn vớ vẩn xa lạ hơn. Để hoạt động được với tư cách là một
ngành học liên ngành, thì cần phải “nói tiếng nói thật, đi bước chân thật” của
các ngành học khác trong chừng mực nào đó, nhằm mục đích để người ta sẽ
xem xét chúng ta một cách nghiêm túc (Irvin, 2000: 26). Chúng ta có thể
mường tượng điều này như là việc thực hành quan sát vào các lĩnh vực
chuyên ngành khác, có nghĩa là tương tác với các nghề nghiệp khác trong
khi vẫn duy trì một mức độ riêng biệt. Ai đó được đào tạo về nhân học với
một kiến thức nền về y, luật, kiến trúc, lâm học, kinh tế học hoặc ở bất kỳ
một lĩnh vực nào đều có một vị thế vững chắc để áp dụng kiến thức nhân
học, được hiểu như là một kiến thức tổng thể bao gồm sự thúc đẩy trên một
bối cảnh chung theo nghĩa tương tác liên quan giữa các bối cảnh văn hoá, xã
hội và cộng tác liên ngành. Ngày càng có nhiều các nhà nhân học đồng ý và
dám chấp nhận sự thách thức của tính liên ngành đặc biệt trong các bối cảnh
ứng dụng nơi nhiều người đã có tiếng nói trong lĩnh vực chuyên ngành mình
được đào tạo. Đây là thời điểm để tận dụng các thành quả của thế hệ hiện
nay của các nhà nhân học liên ngành để so sánh những gì đạt được và thấy
đâu là điểm chung trong công hiến của họ, để nhận ra nhân học nói về cái gì
và người ta cẩm thấy nhân học là hữu ích và ứng dụng nhân học như thế nào.
CÁC NHÀ NHÂN HỌC KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO: AI LÀ
CHUYÊN GIA, AI KHÔNG PHẢI LÀ CHUYÊN GIA:

Trong một số gần đây của tạp chí nhân học ngày nay Mars đặt câu hỏi “tại
sao rất nhiều trong số các nhà nhân học ứng dụng lại thấy tốt hơn là nhận
mình có những chức vụ nghề nghiệp khác chứ không phải là nhà nhân học?
Tại sao nhân học ngày càng được nhìn nhận như một khoa học không phù
hợp?” và ông còn lưu ý “nhân học ứng dụng dường như xuất hiện khắp nơi
mà chẳng thấy ở đâu xuất hiện khoa nghiên cứu về nhân học. Và bạn phải
đào bới dưới bề mặt miêu tả của các nghề nghiệp xa lạ khác để thậm chí phát
hiện xem họ có phải là các nhà nhân học không” (2004: 4 tr.1) Tại hội thảo
của Hiệp hội các nhà nhân học xã hội ở Durham năm 2004 mọi người đã bàn
luận tương đối nhiều theo chủ đề tại sao các nhà nhân học dường như vô
hình trong khi họ thực sự làm việc với người khác. Những quan sát thường
rất không nhất quán bởi vì nó cho thấy rằng khi ta tham gia vào việc ứng
dụng thì các ngành học mang tính mục đích rõ ràng hơn thường là ngành
học chiếm ưu thế. Điều này có thể phản ánh hàm ý mâu thuẫn của việc đạt
www.lrc.ctu.edu.vn

11
được tính liên ngành thực sự. Khi người ta được người khác công nhận, vì
bất kể chuyên ngành của họ là gì, họ đều được một cộng đồng các đồng sự,
những người nói cùng một thứ ngôn ngữ và cùng quan tâm đến những vấn
đề như nhau trích dẫn về nhau. Tôi không phải là thành viên của nhân học xã
hội, địa lý hay khảo cổ về Melane, ví dụ thế, hay thành viên của nhóm các
nhà sinh học dân tộc (bio..) hay các nhà khoa học nông nghiệp nhiệt đới hay
những người có dính dáng đến cộng đồng phát triển bền vững. Một nhà
nghiên cứu liên ngành đơn thuần không còn là thành viên đầy đủ của bất kỳ
một chuyên ngành nào, dù đó là nhân học hay bất kỳ ngành nào. Hơn nữa
tính vô hình còn được phản ánh nhu cầu thúc đẩy tính hữu ích của nhân học
một cách hiệu quả hơn và giúp cập nhật các quan điểm công chúng về các
vấn đề quan tâm hiện nay đẩy lùi hình ảnh xa lạ cũ kỹ về việc làm việc trong
một cộng đồng “truyền thống” khép kín. Cuối cùng nó có thể cho thấy rằng

nhà nhân học được hưởng lợi từ các phân tích phê phán sau khi sự kiện đã
kết thúc hơn là từ việc đưa ra các gợi ý để giải quyết các vấn đề hiện tại một
kiểu tiếp cận các vấn đề này một cách thô cứng là đặt câu hỏi một tổ chức sẽ
được cái gì nếu tổ chức đó thuê một nhà nhân học. Như Keen đã nói “tại sao
một cộng đồng lại không tập trung vào một công nghệ, kinh tế, kế toán, luật,
một cách cai trị địa phương phù hợp hay bất kỳ một vấn đề nào khác chứ
không phải là nhà nhân học (1999: 51). Những người khác cũng đưa ra cùng
một vấn đề “cái gì làm cho nhân học trở nên độc đáo? Nhân học làm thế nào
để đưa ra một cách hiểu mà các ngành học khác không thể và đâu là lời thề
của ngành học này đối với khách hàng?’ (Pink 2006: 10).
Chúng ta đều biết chúng ta mong muốn gì từ một bác sĩ phẫu thuật chỉnh
hình, một kiến trúc sư, một luật sư hay một kế toán. Điều gì một nhà nhân
học đem đến cho một công ty, một nhà chức trách địa phương, một tổ chức
phát triển, hay cơ quan y tế mà một cử nhân về xã hội học, lịch sử, địa lý,
nghiên cứu văn hoá hay một ngành cùng nguồn gốc khác không mang đến
được (có nghĩa là những chủ đề có những vấn đề tương tự với nhân học,
không đào tạo chuyên môn mà là một sự giáo dục nghệ thuật tự do)? Bằng
cách đặt ra những câu hỏi như vậy mà chúng ta có thể nhận biết được những
ứng dụng của nhân học, điều mà chúng ta có thể xúc tiến một cách rộng rãi
hơn. Chúng ta không thể giả bộ là những chuyên gia trong tất cả các lĩnh
vực, bởi vì như Ervin quan sát, trong khi các nhà nhân học phải biết hết cả
mọi việc trong các kỹ năng thực hiện và nghiên cứu của họ, họ không thể
làm tất cả mọi việc” (2000: 219). Điều mong muốn trong sự phát triển là họ
phải có cái gì đó có giá trị và duy nhất để đóng góp vào những cố gắng giảm
đói nghèo cùng với các chuyên gia các ngành khác khác như các nhà kinh tế
học, nông học, y tế hay kỹ sư. Nó liên quan đến sự hình thành nhận thức
www.lrc.ctu.edu.vn

12
nghế nghiệp nợ lâu đối với nhân học, mở rộng vượt qua biên giới của giới

học viện để các nhà thực hành chiến đấu với các vấn đề ‘thế giới thực tại”
(Sillitoe 2003a).
Sự thách thức, như Scudder bình luận trong đánh giá lạc quan của ông, là
phải làm nổi bật được điều mà các nhà nhân học tin tưởng là những vấn đề
then chốt mà chúng ta có đủ chuyên môn và trách nhiệm để đề cập
(1999:359). Chúng ta có một phạm vi kinh nghiệm rộng rãi để rà soát là có
có nhiều cách thức làm nghiên cứu đa dạng trong một chuyên ngành có
phạm vi rộng như nhân học, mặc dù có thể có phương pháp này phù hợp
thực tế hơn phương pháp kia. Chúng ta ở địa vị rất độc đáo tăng cường sự
hiểu biết về nghèo đói, như Scudder đã lưu ý, nghèo đói là “một vấn đề” tôi
tin các nhà nhân học có hiểu biết nhiều hơn về nó so với các học giả và các
nhà thực hành khác” (1999: 355). Ông cũng lập luận rằng chúng ta đóng một
vai trò độc đáo trong xây dựng nhận thức chung về các vấn đề toàn cầu hiện
nay mặc dù chúng ta cần phải năng động hơn, tích cực hơn trong việc làm
cho nhận thức chuyên môn đó được công chúng và các nhà làm chính sách
chú ý” (1999: 309). Nghiên cứu về địa dân tộc học chuyên sâu cung cấp sự
hiểu biết về cuộc sống hàng ngày không có trước đây, về các vấn đề, ngày
càng được tỏ tường, với các nhà xã hội học, các nhà khoa học chính trị và
những người khác, cho thấy mối quan tâm về cách tiếp cận này. Các kỹ năng
phân tích khác bao gồm phân tích hệ thống xã hội, nhìn nhận các hậu quả
ngoài mong muốn của các sự can thiệp được đưa ra, hiểu biết về bản chất
của phân bổ công lý và hậu quả của nó, các phương pháp và lý thuyết của
các phân môn nhân học khác nhau như là nhân học dược lý, nhân học tâm
lý, nhân học sinh thái văn hoá. Sự đào tạo về nhân học tạo phương tiện phân
tích để hiểu tính đa dạng của các tác nhân địa phương và mối quan tâm của
họ, để thấy sự liên kết đa chiều trong cuộc sống xã hội và đánh giá được các
chiến lược hàng ngày, để tiếp cận sự hiểu biết địa phương và thông hiểu
được sự phản kháng trước sự can thiệp từ bên ngoài mà họ cảm nhận được.
Các lĩnh vực mà nhân học có đóng góp cụ thể bao gồm các nghiên cứu về
các chiến lược kiếm sống, sinh thái chính trị về quản lý nguồn lực, các vấn

đề về y tế địa phương và sự lành mạnh sức khoẻ, bạo lực chính trị, các
phong trào cơ sở, công lý xã hội và các vấn đề nhân quyền.
Nhưng để phấn đấu đạt được một sự hiện diện chuyên môn rõ ràng hơn đối
với nhân học chúng ta lại phải vượt qua một mắc mớ ứng dụng khác. Luận
điểm cho rằng chúng ta có thể ứng dụng nhân học có hàm ý rằng chúng ta có
một số kiến thức và kỹ năng chuyên môn khác với, và phụ trợ cho các tri
thức và kỹ năng các chuyên ngành khác. Liệu ta có muốn trở thành chuyên

×