1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
HUỲNH TIỂU PHỤNG
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC
TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở QUẬN 11
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 60.14.05
Vinh – KHÓA 17 (Năm 2011
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh:
“Hồn thiện cơ chế, chính sách XHHGD, đào tạo trên cả ba phương diện: động
viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng;
khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,
tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời” [12].
XHHGD là một quan điểm cơ bản, có tính chất chiến lược trong xây dựng
và phát triển giáo dục. Làm cho hoạt động giáo dục vốn là hoạt động có tính
chun mơn nghiệp vụ của một thiết chế xã hội (Ngành GD&ĐT) trở thành một
hoạt động rộng lớn, sâu sắc, toàn diện, thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật…). Vì thế không phải xem
giáo dục như là một đối tượng tác động của XHH mà là “XHH cách làm giáo
dục”. XHHGD không chỉ đơn thuần là việc huy động nhân dân đóng góp tiền
của, vật chất mà là một chủ trương mang tính tồn diện và đồng bộ.
Xuất phát từ quan điểm cơ bản cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
Đảng ta khẳng định giáo dục là sự nghiệp của tồn dân, tồn xã hội. Sự nghiệp
đó đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải chăm
lo tốt nhất cho sự nghiệp giáo dục, Vì thế, cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất mở
mang trường lớp, xác định mục tiêu phát triển, xây dựng chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục, chuẩn bị đội ngũ giáo viên, sách giáo khoa, Nhà nước
còn phải huy động mọi lực lượng, mọi tiềm năng của xã hội tham gia vào sự
nghiệp giáo dục. Toàn dân và toàn xã hội tự nguyện tham gia xây dựng trường
lớp, tham gia chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ với mọi khả năng của mình và
trước tiên là luôn luôn nêu gương tốt cho thế hệ trẻ làm theo, tất cả mọi việc làm
3
của mọi công dân trong xã hội, đều hướng tới xây dựng một môi trường giáo dục
trong sáng, lành mạnh để thế hệ trẻ học tập và trưởng thành.
XHHGD là phải huy động toàn dân tham gia vào sự nghiệp giáo dục toàn
diện thế hệ trẻ đang theo học trong các nhà trường. Việc dạy và học trong nhà
trường không đơn thuần là việc của các thầy cô giáo, mà đó cịn là việc của cha
mẹ và các tổ chức đồn thể ngồi xã hội mà ở đây vai trị Đoàn thanh niên và
Đội thiếu niên rất quan trọng. Cha mẹ, người lớn sống gương mẫu, tôn trọng
pháp luật, giữ gìn kỷ cương phép nước, có đời sống lành mạnh chính là sự đóng
góp tốt nhất cho việc xây dựng lý tưởng và giáo dục đạo đức cho học sinh. Bởi
vậy điều đáng quan tâm số một trong việc thực hiện XHHGD ở từng địa phương
chính là việc phải xây dựng bằng được mơi trường sống lành mạnh, có văn hố.
Khơng làm được việc này dù có xây trường học đẹp, dù có cố gắng vận động tất
cả trẻ em đi học, dù có cải thiện đời sống giáo viên bao nhiêu chăng nữa việc
giáo dục con em trong các trường học vẫn chỉ dừng ở kết quả phiến diện, bề
ngồi mà thơi.
XHHGD cịn được thể hiện ở phong trào toàn dân đi học, toàn dân tự học,
tự nâng cao trình độ văn hố của mình, tất cả nhằm góp phần nâng cao trình độ
dân trí của tồn xã hội. Những năm qua nhiều địa phương, nhiều bộ ngành, nhiều
tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhiều dòng họ đã khởi xướng, duy trì và mở rộng
phong trào xã hội học tập. Hội khuyến học Việt Nam đi đầu trong việc tổ chức
các trung tâm giáo dục cộng đồng, các hội trong Liên hiệp các hội khoa học kỹ
thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam và nhiều hội
khác đã mở nhiều trung tâm đào tạo, mở nhiều khoá đào tạo, phổ biến, nâng cao
kiến thức cho mọi tầng lớp nhân dân ở từng địa phương trong phạm vi toàn quốc.
Phải khẳng định đây là một trong những thành công nổi trội của hoạt động
XHHGD trong thời gian qua.
4
Sau 6 năm thực hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ, công tác
XHHGD tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng. Ngân sách Nhà nước chi
cho giáo dục hằng năm đều tăng. Thực hiện chương trình kiên cố hố trường
học, trong 6 năm qua, Chính phủ huy động gần 8 ngàn tỷ đồng và ngân sách các
địa phương đóng góp hơn 5 ngàn tỷ đồng để xây dựng và đưa vào sử dụng hơn
80 nghìn phịng học kiên cố.
Trong cơ cấu chi cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước đã bố trí ưu tiên cho
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới hải đảo. Do đó, các cơ sở giáo
dục tiếp tục phát triển, số người đi học không ngừng tăng lên, củng cố và giữ
vững kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và thực hiện chủ trương phổ
cập giáo dục THCS.
Bên cạnh sự đầu tư của Nhà nước là chính, Ngành GD&ĐT còn nhận
được sự đầu tư, hỗ trợ về các mặt từ các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, tập thể, cá
nhân trong và ngồi nước. Sự hỗ trợ đó góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc
xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp học, thư viện, nhà ở công vụ cho giáo viên,
mua sắm các thiết bị hiện đại phục vụ đổi mới phương pháp dạy và học, giúp đỡ
những học sinh có hồn cảnh khó khăn... Mỗi địa phương đều có cách làm sáng
tạo để huy động nguồn lực phát triển sự nghiệp giáo dục. Các trường đại học
cũng đã có nhiều biện pháp huy động nguồn vốn từ doanh nghiệp nước ngoài tài
trợ cho các hoạt động đào tạo.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện XHHGD đã bộc lộ những mặt hạn
chế, bất cập, đó là tốc độ XHHGD còn chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu định
hướng của Chính phủ; mức độ phát triển XHHGD không đồng đều giữa các
vùng miền và cả giữa các tỉnh, thành phố, địa phương có điều kiện kinh tế - xã
hội như nhau; công tác quản lý cịn nhiều lúng túng; cơ chế chính sách chưa cụ
thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ; các lực lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp
5
tốt để chủ động, tích cực tham gia vào quá trình XHHGD... Ngun nhân của
những hạn chế nói trên là do nhận thức còn chưa đầy đủ, xem XHHGD chỉ là
biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân trong điều kiện ngân sách nhà
nước hạn hẹp; tư tưởng và thói quen bao cấp vẫn cịn khá nặng nề...
Quận 11 là một quận ven nội của Thành phố Hồ Chí Minh. Thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015, Quận
đang có nhiều cố gắng trong phát triển sự nghiệp giáo dục, trong đó chú trọng
“đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp theo quy hoạch; mở
rộng liên kết đào tạo, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với
các cơ sở đào tạo ngồi cơng lập và nước ngồi” [46 ]. Vì thế, việc đề xuất
những giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi để thực hiện XHHGD nói
chung, XHHGD THCS nói riêng, trên địa bàn quận 1l, Thành phố Hồ Chí Minh
là một vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp thực hiện công tác
XHHGD THCS ở Quận 11 – Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp nhằm thực
hiện có hiệu quả cơng tác XHHGD THCS ở quận 11- Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác XHHGD trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp thực hiện công tác XHHGD THCS ở quận 11 - Thành
phố Hồ Chí Minh.
6
4. Giả thuyết khoa học
Có thể thực hiện hiệu quả cơng tác XHHGD THCS ở quận 11- Thành phố
Hồ Chí Minh, nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính khả
thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác XHHGD THCS.
5.2 Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của công tác XHHGD THCS ở quận 11
thành phố Hồ Chí Minh.
5.3 Đề xuất các giải pháp thực hiện XHHGD THCS ở quận 11
thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích- tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
7
6.3. Phương pháp thống kê tốn học
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về XHHGD; làm rõ những
nguyên tắc, nội dung của việc thực hiện XHHGD nói chung, XHHGD THCS nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn đã khảo sát toàn diện thực trạng XHHGD THCS ở quận 11Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
cơng tác XHHGD THCS ở quận 11- Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục nghiên cứu, luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề XHHGD THCS
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề XHHGD THCS ở quận 11 - Thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp thực hiện XHHGD THCS ở quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, từ lâu rất nhiều nước đã quan tâm đến việc xây dựng và
củng cố các tổ chức trực tiếp phục vụ cho giáo dục với quan điểm coi con người
là trung tâm của sự phát triển. Ngay từ năm 1947, Nhật Bản đã đặt giáo dục vào
vị trí hàng đầu của chính sách quốc gia. Trung Quốc đã xác định: “Đưa giáo dục
vào vị trí ưu tiên cho sự phát triển”. Ấn Độ cũng huy động xã hội tham gia công
tác giáo dục gắn với phát triển nông thôn, huy động cộng đồng phát triển giáo
dục phi chính phủ.
Đặc biệt, trong những năm cuối thế kỷ XX, các nước Châu Á - Thái Bình
Dương có hai cuộc hội thảo lớn và các lớp tập huấn, chung quy đều hướng về
huy động cộng đồng tham gia làm giáo dục với mục đích vì lợi ích cộng đồng,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Khác hẳn với nền kinh tế nông nghiệp dựa vào lao động cơ bắp của con
người và nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự khai thác tài nguyên thiên nhiên,
nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI là nền kinh tế dựa trên công nghệ cao, đây là
nét đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh hậu công nghiệp, sản phẩm của cuộc
cách mạng thông tin, cách mạng tri thức, giáo dục càng có vai trò quan trọng
hơn. Trên thế giới đã có những thay đổi căn bản về đối tượng giáo dục và mục
tiêu giáo dục. Trước đây đối tượng giáo dục chỉ giới hạn ở trẻ em trong độ tuổi đi
học, bây giờ đã mở rộng ra đối với tất cả mọi người. Từ năm 1972, UNESCO
đã đề ra quan điểm “Giáo dục suốt đời”, “giáo dục phải hướng mục tiêu đào tạo
ra những người có đủ tri thức và kỷ năng, năng lực và phẩm chất với tinh thần
9
trách nhiệm đầy đủ của người công dân tham gia và cuộc sống lao động” [ 15 ].
Vì vậy, phương hướng phát triển giáo dục của các nước trên thế giới trong thế kỷ
XXI là: Tích cực chuyển nền giáo dục sang hệ thống học tập suốt đời; Phát triển
các chương trình giáo dục hướng mạnh vào tính cá nhân; Làm cho hệ thống giáo
dục đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại (đa dạng, mềm dẻo, liên thông)... Tất
cả đều hướng vào mục tiêu chung là thông qua phát triển GD&ĐT, tạo ra động
lực cho tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội của đất nước mình. Vì vậy phát triển
sự nghiệp GD&ĐT không chỉ riêng của Nhà nước và của Ngành GD&ĐT mà là
nhiệm vụ chung của mọi lực lượng xã hội. Mỗi quốc gia, tùy thuộc đặc điểm
riêng của mình đều có những hình thức làm giáo dục theo một cách riêng. Dưới
đây, chúng tôi xin khái quát về cách làm giáo dục của một số nước trên thế giới,
liên quan đến XHHGD.
Từ năm 1991, Hoa Kỳ đã đưa ra một số nét lớn của chiến lược phát triển
giáo dục, trong đó khẳng định việc biến nước Mỹ thành quốc gia của những học
sinh và biến các cộng đồng dân cư thành các cộng đồng học tập. Đến năm 2010,
Mỹ đã xây dựng được các cộng đồng giáo dục ngoài phạm vi nhà trường. Đây là
mô hình nhà trường kiểu mới mà vị trí đặc biệt trong thiết kế thuộc về tập thể
cộng đồng, giới doanh nghiệp và lao động. Nhà trường trở thành trung tâm đời
sống cộng đồng, tạo điều kiện cho việc học tập của mọi người không phải chỉ ở
nhà trường mà còn ở gia đình. Tổng thống Bill Clintơn đã có thông điệp nói đến
hiện đại hóa nền giáo dục, mục tiêu học tập suốt đời và đề cao việc học tập để
đạt trình đợ học vấn cao. Ơng cũng nói đến việc mở rộng các biên giới của việc
học suốt đời để người Mỹ ở độ tuổi nào cũng có cơ hội học tập, yêu cầu khấu trừ
thuế lên tới 10.000 USD/năm cho toàn bộ học phí ở cao đẳng và đại học để mọi
gia đình không phải đóng thuế với khoản tiền mà họ tiết kiệm được để giành
đóng học phí vào đại học và cao đẳng.
10
Tuy phải đối phó với nhiều vấn đề nhưng trong chiến lược phát triển giáo
dục của mình, nước Mỹ đặc biệt quan tâm đến yêu cầu một nền giáo dục được
xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin và xã hội tri thức để đón đầu sự phát
triển của nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ XXI.
Trung Quốc hiện đang đẩy mạnh tốc độ phát triển giáo dục kỹ thuật hướng
nghiệp, giáo dục cao đẳng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ sau trung
học. Mở rộng hệ thống giáo dục người lớn từ tiểu học đến đại học (bên cạnh hệ
thống giáo dục chính quy cho thế hệ trẻ). Từ năm học 2003 - 2004, Bộ Giáo dục
Trung Quốc đã ban hành một quyết định hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo (gọi là
Lối Xanh). Theo quyết định này, các trường đại học có nhiệm vụ: Hướng dẫn
sinh viên nghèo vay nợ để đóng học phí; tháng 8 hàng năm, các trường đại học
phải gửi danh sách vay nợ tới mỗi sinh viên cùng với giấy báo nhập học; không
một trường đại học nào được từ chối sinh viên nghèo. Nếu báo chí phát hiện
những vi phạm thì Hiệu trưởng bị cách chức ngay lập tức.
Hàn Quốc là một quốc gia có hệ thống trường học hiện đại. Học sinh bắt
buộc phải học tiểu học và THCS nhưng khơng phải trả chi phí giáo dục, ngoại
trừ một khoản phí nhỏ gọi là "Phí hỗ trợ hoạt động của nhà trường". Khoản phí
này khác nhau tùy theo từng trường học. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế
- do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thế giới (OECD) khởi xướng và chỉ
đạo - hiện đang xếp hạng giáo dục khoa học của Hàn Quốc tốt thứ ba trên thế
giới và cao hơn mức trung bình của OECD.
Hiện nay, giáo dục Hàn Q́c phát triển mạnh mẽ, đứng vào những nước
có tỷ lệ mù chữ thấp nhất thế giới. Ngân sách Nhà nước về giáo dục thay đổi
theo từng năm tài chính, nhưng trên nguyên tắc chiếm 22,7% tổng nguồn chi của
Chính phủ và chiếm 3-4 % tổng thu nhập quốc dân. Giáo dục tiểu học là bắt
buộc và miễn phí. Ở các vùng nông thôn Hàn Quốc, giáo dục bắt buộc kéo dài
11
thêm 3 năm (Tức là học sinh phải học hết lớp 9), hệ thống giáo dục bậc trung
học phổ thông được cải cách lại vào năm 1974, xóa bỏ việc thi chuyển cấp. Do
vậy, số lượng học sinh THPT tăng lên đáng kể. Hàn Quốc có 152 trường dạy
nghề với gần 1 triệu học sinh theo học, 80% trường dạy nghề thuộc sự điều hành
của tư nhân, tuy nhiên vẫn nằm trong sự kiểm soát của Bộ Giáo dục Hàn Quốc.
Giáo dục phi chính quy được phổ biến ở hai loại hình: Các chương trình giáo dục
tiếp tục cho thanh niên, người trưởng thành chưa hoàn thành giáo dục chính quy
và các khóa học ngắn hạn đào tạo bổ sung cho những người mới ra đi làm không
nằm trong nhóm học sinh, sinh viên .
Năm 1993, các trường tư thục ở Hàn Quốc tiếp nhận tới 61% số lượng học
sinh phổ thông trung học và 81% các bậc cao đẳng, đại học. Vai trò to lớn của
khu vực tư nhân trong giáo dục đã đặt ra những vấn đề quan trọng về tính công
bằng trong tiếp cận giáo dục. Hàn Quốc tập trung các nguồn lực cộng đồng cho
giáo dục cơ sở và lựa chọn thêm trong việc kết hợp nguồn lực Nhà nước và tư
nhân cho giáo dục bậc cao.
Giáo dục Malaysia hiện đang hướng vào mục tiêu đào tạo ra nguồn nhân
lực có kỹ năng, có tay nghề cao. Chính phủ đã đầu tư cho giáo dục chiếm phần
lớn nhất trong ngân sách nhà nước. Nhờ đó mà trong nhiều năm qua, thanh niên
Malaysia đã tham gia đông đảo vào thị trường lao động tay nghề cao ở Mỹ. Anh,
Canađa, Ôxtrâylia và Niwzilơn. Sinh viên Malaysia chiếm tỷ lệ cao trong số sinh
viên nước ngoài ở những đất nước này. Số sinh viên học tập ở nước ngoài chiếm
25% trong tổng số sinh viên. Chính phủ Malaysia có kế hoạch nâng tỷ lệ này lên
40% vào năm 2010. Ngành giáo dục Malaysia tăng cường hợp tác liên kết đào
tạo với các trường danh tiếng trên thế giới, bắt kịp nền giáo dục tiên tiến của các
nước khác .
12
Ở Singapore, Chính phủ tham gia khá mạnh mẽ vào hoạt động và tài trợ
cho giáo dục ở tất cả các cấp học. Các trường tư thục có chi phí cho giáo dục
thấp hơn hệ thống trường công. Chính phủ đã đưa ra một loạt các chương trình
đào tạo, ví dụ: Chương trình giáo dục cơ bản đào tạo kỹ năng triển khai từ năm
1883; chương trình đào tạo kỹ năng theo học phần triển khai từ năm 1987. Vào
những năm 1990, Singapor thành lập các cơ sở đào tạo có chuyên môn hóa và cơ
sở liên doanh với các doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, mỗi nước có một đặc điểm riêng về kinh tế xã hội nhưng đều có
điểm chung trong phương thức XHHGD là huy động mọi tiềm lực của cộng
đồng cho giáo dục. Nhưng ở mỗi quốc gia, tùy tḥc vào các điều kiện kinh tế chính trị- xã hợi và văn hóa của mình đều có sự lựa chọn mơ hình XHHGD thích
hợp.
1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Vấn đề XHHGD đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
trong nước. Tác giả Phạm Minh Hạc là người đã viết nhiều tài liệu về XHHGD,
có nhiều bài phát biểu chỉ đạo phong trào XHHGD.
Trong cuốn “Xã hội hóa công tác giáo dục” xuất bản năm 1997 do ông
làm tổng chủ biên, đã khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng
chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển giáo
dục nước ta” [ 33 ].
Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác
giả Phạm Minh Hạc một lần nữa khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ
là của Nhà nước, mà là của toàn xã hội: mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước
và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào tập
trung trong toàn dân” [34].
13
Tác giả Phạm Tất Dong trong cuốn “Xã hội hóa công tác giáo dục” đã làm
rõ nội hàm khái niệm xã hội hóa công tác giáo dục và coi xã hội hóa là một khái
niệm đã vận động trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, qua mỗi giai
đoạn khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú hơn.
Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục trong công
cuộc đổi mới”, tác giả Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục theo
tinh thần xã hợi hóa”. Ơng đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp cách
mạng, coi đó là một tư tưởng chiến lược của Đảng: “Tư tưởng đó được tổng kết
lại không chỉ là một bài học kinh nghiệm có tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một
nguyên lý của cách mạng Việt Nam”. Tư tưởng “Xã hội hóa” giáo dục được thừa
nhận như là một nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay, hơn thế, “với
tư cách là nhân tố mới của sự phát triển giáo dục, tư tưởng Xã hội hóa” công tác
giáo dục lại tạo ra những điều kiện để xuất hiện những nhân tố khác trong quá
trình vận động đi lên của phong trào giáo dục . những điều kiện đó chính là kinh
nghiệm rút ra từ thực tế sinh động của giáo dục, trên cơ sở đó tư duy giáo dục trở
nên sâu sắc, nhờ đó nhiều bài toán giáo dục đào tạo đã được giải một cách hợp
lý” [36 ].
Viện khoa học giáo dục Việt Nam đã triển khai nhiều năm một hệ thống đề
tài về XHHGD, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế
XHHGD. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hóa công tác giáo dục – nhận thức và
hành động” của Viện do tập thể tác giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn
Thanh Bình là một bước hoàn thiện về nhận thức lý luận và hướng dẫn thực tiễn.
Bộ GD&ĐT cũng đã có “Đề án XHHGD&ĐT” đánh giá thực trạng và đưa ra
những giải pháp XHHGD ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản
trong GD&ĐT, chuẩn bị tốt nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong hai chục năm đầu thế kỷ XXI.
14
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Viện Khoa học Giáo dục năm 2001,
từ góc độ giáo dục học, cuốn sách “XHHGD” do Võ Tấn Quang chủ biên cùng
tập thể tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc, Thái Duy Tuyên,
Nguyễn Văn Đản, Đào Huy Ngận đã khẳng định: “XHHGD - một phương thức
giáo dục nhằm xã hội hóa cá nhân”. Lần đầu tiên, một chuyên khảo đã đề cậo
đến đặc trưng của XHHGD ở các cấp học, bậc học và địa bàn nông thôn, vấn đề
quản lý Nhà nước trong việc thực hiện XHHGD để có sự định hướng đúng đắn
hoạt động XHHGD ở các nhà trường và địa phương.
Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập đến vấn đề XHHGD THCS trên địa
bàn quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
2.1 Xã hội hóa
Xã hợi hóa là một trong những vấn đề cơ bản của xã hội học. Từ trước đến
nay, xã hội hóa được hiểu theo hai nghĩa: xã hội hóa cá nhân và xã hội hóa một
hoạt động.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình con người tiếp thu nền văn hóa của xã hội
trong đó con người được sinh ra, quá trình nhờ đó con người đạt được những đặc
trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được coi là thích
hợp trong xã hội.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình tiếp thu và tái tạo những kinh nghiệm xã
hội của cá nhân thông qua hoạt động và giao lưu. Xã hội hóa cho phép con người
nhận thức toàn diện hiện thực xã hội xung quan, chiếm lĩnh những kỹ năng hoạt
động của cá nhân và tập thể.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình liên tục, quá trình đó còn gọi là quá trình
học hỏi xã hội, tiếp thu xã hội, thích ứng xã hội.
15
Xã hội hóa hoạt động là sự tham gia rộng rãi của xã hội (các cá nhân,
nhóm, tổ chức, cộng đồng…) vào một hoạt động hoặc một số các hoạt động mà
trước đó chỉ một đơn vị, bộ phận hay một ngành chức năng nhất định thực hiện.
Xã hội hóa hoạt động cần phải được coi là tư tưởng chiến lược có tính lâu
dài và toàn diện, làm một giải pháp xã hội có tính liên ngành cao nhằm huy động
các lực lượng xã hội tham gia một cách tích cực để giải quyết một vấn đề xã hội
nào đó. Xã hội hóa hoạt động dưới góc nhìn của các nhà lãnh đạo, quản lý là một
quá trình tổ chức, quản lý và huy động nhiều lực lượng xã hội cùng tham gia giải
quyết một vấn đề của xã hội theo một chiến lược xác định và có kế hoạch. Đối
với từng lực lượng xã hội, xã hội hóa được hiểu là một quá trình phối hợp, lồng
ghép các hoạt động của mình với hoạt động của các lực lượng khác trong xã hội
có liên quan để tạo ra hoạt động có tính liên ngành cao, trong đó có sự phân công
rõ trách nhiệm của từng lực lượng. Đối với mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, mỗi
người dân, xã hội hóa hoạt động được hiểu là một quá trình trong đó cần huy
động sự tham gia hưởng ứng của nhiều người, của cộng đồng vào các cuộc vận
động nhằm động viên, thúc đẩy họ hành động một cách chủ động, tích cực vì
mục đích mở rộng và nân gcao chất lượng một hoạt động xã hội nào đó.
XHH hoạt động xã hội còn được hiểu như là việc biến một nhiệm vụ, một
công việc của một chủ thể, của nhiều chủ thể hay toàn bộ xã hội, XHH với ý
nghĩa tương đồng với việc huy động sức lực, trí tuệ (nguồn lực) của cả cộng
đồng cho việc hoàn thành một nhiệm vụ xã hội nào đó. Ở đây huy động sức
người, sức của, tài chính, phương tiện, vật chất … là những cái cần huy động,
tổng hợp, phân bổ và sử dụng cho việc hoàn thành nhiệm vụ. XHH theo nghĩa
này như một phương thức huy động xã hội, thông qua công tác tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục, vận động xã hội là chính. Mà trong nhiều trường hợp
16
XHH theo cách này đã huy động được không nhỏ sức lực, trí tuệ của cả xã hội
cho việc thực hiện càc mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ xã hội.
Thực tế ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ cách mạng của mình đã không ít lần XHH thành công các nhiệm vụ trong
cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính
nhờ XHH mà chúng ta đã có những phong trào quần chúng rầm rộ trong cuộc
xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, phòng chống tệ nạn ma túy, mại
dâm, phòng chống HIV/AIDS, đảm bảo ATXH, an toàn cộng đồng, giữ vững an
ninh trật tự xã hội, quốc phòng toàn dân, đối ngoại nhân dân…
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng XHH các hoạt động không chỉ nghĩa là
tăng cường huy động cộng đồng mà coi nhẹ trách nhiệm Nhà nước hoặc trách
nhiệm các chủ thể chính mà ngược lại, đây chính là quá trình kết hợp chặt chẽ
giữa trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan chủ quản với cộng đồng, làm
cho các nguồn lực được huy động đến mức tối đa và sử dụng có hiệi quả nhất.
Đây mới là mục tiêu thực chất của XHH các hoạt động .
Như vậy, XHH hoạt động được đề cập ờ đây chính là biến nhiệm vụ của
một ngành, một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều ngành, nhiều chủ thể xã hội
hay của toàn xã hội bằng cách thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của từng đối tượng, sự
điều hành quản lý của các nhà lãnh đạo nhằm tăng cường phối hợp chặt chẽ giữ
các lực lượng xã hội để thực hiện nhiệm vụ xã hội đang đặt ra.
XHH hoạt động khác biệt với XHH cá nhân. Bởi lẽ nếu XHH cá nhân là
nhằm biến con người cá nhân thành con người xã hội thì XHH hoạt động là quá
trình biến một hay một số nhiệm vụ của một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều
chủ thể hay của toàn xã hội .
17
2.2 Xã hội hóa giáo dục
Từ sau Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII,
XHHGD là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Văn kiện Hội nghị này
đã nêu rõ XHHGD là “huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà
nước”.
Nghị quyết 90- CP của Chính phủ do Thủ tướng ký ngày 21-8-1997 đã xác
định khái niệm XHHGD với những nội dung sau đây: “Tạo ra phong trào học tập
sâu rộng trong tồn xã hội theo nhiều hình thức; vận động tồn dân, trước hết là
những người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời để làm việc tốt
hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta trở thành
một xã hội học tập; Vận động tồn dân chăm sóc thế hệ trẻ, tạo ra môi trường
giáo dục lành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo
dục ở gia đình và giáo dục ngồi xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ
Đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể quần chúng, các doanh
nghiệp... đối với sự nghiệp giáo dục; Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia
của toàn dân đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống
giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân” [ 25 ].
Theo Từ điển Giáo dục học, “XHHGD là chủ trương, biện pháp biến sự
nghiệp giáo dục trong nhà trường thành công việc chung của toàn xã hội để thu
hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tích cực tham gia vào hoạt động giáo
dục thế hệ trẻ tùy theo chức năng, điều kiện của mình” [ 44].
Như vậy, XHHGD là quá trình đổi mới phương thức tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực GD&ĐT, tạo cơ chế và động lực phát triển giáo dục, thực hiện
18
công bằng xã hội trong giáo dục, đáp ứng kịp thời yêu cầu CNH-HĐH đất nước
trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế và tồn cầu hóa.
2.3. Giải pháp và giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục
2.3.1. Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt, “giải pháp được xem là phương pháp giải quyết một,
công việc, một vấn đề cụ thể” [45].
Còn theo Nguyễn Văn Đạm, “giải pháp là tồn bộ những ý nghĩa có hệ thống
cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới sự khắc phục một khó
khăn” [23].
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt với một số khái
niệm tương tự như: phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của các khái niệm
này đều nói về cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một công việc, một vấn
đề. Còn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn mạnh đến cách làm, cách
hành động cụ thể, trong khi đó phương pháp nhấn mạnh đến trình tự các bước có
quan hệ với nhau để tiến hành một cơng việc có mục đích.
Theo Nguyễn Văn Đạm, “phương pháp được hiểu là trình tự cần theo trong
các bước có quan hệ với nhau khi tiến hành một công việc có mục đích nhất
định” [23].
Cịn theo Hồng Phê, “phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến
hành một cơng việc nào đó ” [ 17].
Về khái niệm biện pháp, theo Từ điển tiếng Việt, đó là “cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể” [45].
Như vậy, khái niệm giải pháp tuy có những điểm chung với các khái niệm
trên nhưng nó cũng có điểm riêng. Điểm riêng cơ bản của thuật ngữ này là nhấn
mạnh đến phương pháp giải quyết một vấn đề, với sự khắc phục khó khăn nhất
định. Trong một giải pháp có thể có nhiều biện pháp.
19
2.3.2. Giải pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục
Giải pháp thực hiện XHHGD là hệ thống các cách thức thực hiện XHHGD.
Từ đó, đề xuất các giải pháp thực hiện XHHGD thực chất là đưa ra các cách
thức thực hiện XHHGD.
3. Một số vấn đề về xã hội hóa giáo dục THCS
3.1 Giáo dục THCS trong hệ thống giáo dục quốc dân
3.1.1. Mục tiêu giáo dục trung học cơ sở
Theo Luật Giáo dục 2005, mục tiêu giáo dục THCS là "nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ
thơng ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp
để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động" [18].
3.1.2. Nhiệm vụ giáo dục trung học cơ sở
Trường THCS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Tổ chức giảng dạy,
học tập và các hoạt động giáo dục khác của chương trình giáo dục phổ thơng;
Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động giáo
viên, cán bộ, nhân viên; Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến
trường, quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thực hiện
kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng; Huy động, quản lý, sử
dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với gia đình học sinh, tổ
chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục; Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở
vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước; Tổ chức cho giáo viên, nhân
viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội; Tự đánh giá chất lượng giáo dục và
chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định
chất lượng giáo dục; Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật [ 6 ].
20
3.1.3. Cơ sở giáo dục trung học cơ sở
Cơ sở giáo dục THCS bao gồm các loại hình cơng lập và tư thục.
- Trường công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập
và Nhà nước trực tiếp quản lý. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí
cho chi thường xuyên, chủ yếu do ngân sách nhà nước bảo đảm.
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho phép. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động của
trường tư thục là nguồn ngoài ngân sách nhà nước.
3.2. Bản chất của xã hội hóa giáo dục THCS
XHHGD là đổi mới phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực
GD&ĐT, tạo cơ chế và động lực phát triển GD&ĐT, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục; thay đổi cách vận hành và hình thức hoạt động để mọi nguồn lực
cả về tài chính, vật chất và trí tuệ trong xã hội đều được phát huy; chuyển giao
một phần công việc của các cơ quan nhà nước cho các tổ chức, tập thể, cá nhân
làm dưới sự quản lý của nhà nước.
Một số tác giả Trung Quốc cho rằng XHHGD, trước hết chính là giáo dục
phải thích nghi với xã hội, phục vụ nền kinh tế xã hội, đồng thời phục vụ cuộc
sống xã hội. Do vậy mà XHHGD ở Trung Quốc bao gồm hai nội dung: Một là
phục vụ toàn xã hội do đối tượng của giáo dục giờ đây là toàn xã hội, toàn dân,
là đại chúng. Hai là giáo dục phải thực sự trở thành yếu tố thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và thoả mãn yêu cầu được giáo dục của mọi người.
XHHGD không chỉ là công việc của Ngành GD&ĐT mà là sự nghiệp của
toàn dân, của mọi tổ chức kinh tế xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng và quản lý
của nhà nước. XHHGD không là một giải pháp ngắn hạn trong lúc ngân sách nhà
21
nước dành cho giáo dục còn hạn hẹp mà là một giải pháp lâu dài, mang tính
chiến lược. XHHGD hướng đến thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục,
nhằm làm cho không chỉ thế hệ trẻ mà là mọi người dân được hưởng các quyền
lợi mà giáo dục đem đến đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người
dân, mọi tổ chức chính trị-kinh tế-văn hố xã hội phát huy cao nhất trách nhiệm
và năng lực của mình đóng góp cho cho sự nghiệp giáo dục. XHHGD còn nhằm
đến mục tiêu xây dựng xã hội học tập trên đất nước, hình thành thói quen học
suốt đời trong từng người dù là trí thức hay lao động chân tay, dù trẻ hay cao
tuổi. Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong tồn xã hội theo nhiều hình thức;
vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động, thực hiện
học tập suốt đời để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp
hơn, làm cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập.
Đối với giáo dục THCS, ngoài việc huy động mọi nguồn lực đầu tư cơ sở vật
chất cho nhà trường, đa dạng hóa hoại hình học tập, nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện thì khác với các cấp học, bậc học khác việc tuyên truyền giáo dục,
vận động học sinh bỏ học trở lại trường và định hướng phân luồng học sinh sau
THCS là hết sức cần thiết. Để vận động học sinh bỏ học trở lại trường và phân
luồng học sinh sau THCS phải là việc làm của toàn xã hội, nếu khoán trắng việc
này cho nhà trường thì rõ ràng hiệu quả không cao. Mà sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đang rát cần một lực lượng lớn thợ lành nghề, để
tránh được tình trạng “Thừa thầy, thiếu thợ” thì việc phân luồng học sinh là hết
sức cần thiết.
3.3. Đặc trưng của xã hội hóa giáo dục THCS
Trường THCS gắn liền với phường xã, là trung tậm văn hóa của địa
phương, góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích cho xã hợi.
Kế hoạch phát triển của nhà trường là một bộ phận trong kế hoạch phát triển
22
kinh tế - xã hội của địa phương. Ngoài ra, nhà trường THCS là cầu nối giữa “bậc
học tiểu học và THPT, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, nên XHHGD
THCS có những nét đặc trưng riêng biệt của nó.
Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khóa IX đã chỉ rõ: : “Toàn Đảng, toàn
dân, toàn ngành giáo dục cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những định
hướng chiến lược về giáo dục trong Nghị quyết TW 2 (khóa VIII)… đẩy mạnh
XHHGD THCS nhằm tạo nguồn nhân lực có số lượng và chất lượng đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”…
Như thế, XHHGD THCS không chỉ đơn thuần là huy động sức mạnh tổng
hợp của các ngành các cấp vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục mà còn có chiều
ngược lại: Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có số lượng và chất lượng đáp ứng
yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới góp phần giải quyết hiện tượng “thiếu thợ”
trong xã hội. Thực ra có thể coi XHHGD THCS là một cách làm giáo dục được
xác định bởi những đặc trưng cơ bản sau:
- Huy động toàn xã hội đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, thực hiện đa
dạng hóa các nguồn đầu tư giáo dục;
- Các lực lượng xã hội tham gia phát triển quy mô, số lượng giáo dục;
- Các lực lượng xã hội tham gia vào việc đa dạng hóa các hình thức học
tập;
- Các lực lượng xã hội tham gia và việc đa dạng hóa các loại hình trường
lớp;
- Huy động toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường thuận lợi cho việc
giáo dục thế hệ trẻ;
- Thu hút các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục của nhà
trường;
23
- Thu hút các lực lượng xã hội tham gia tuyên truyền vận động học sinh,
phụ huynh về công tác hướng nghiệp, dạy nghề và phân luồng học sinh sau
THCS.
Các đặc điểm trên cho thấy, XHHGD THCS sẽ làm cho giáo dục càng gắn
bó với cộng đồng, do cộng đồng thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của cộng đồng,
của người dân, mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện mà đặc biệt là giáo dục đạo đức học sinh tuổi mới lớn và định hướng
phân l̀ng học sinh sau THCS.
3.4. Vai trị của xã hội hóa giáo dục THCS
3.4.1 Xã hợi hóa giáo dục THCS khai thác được tối ưu tiềm năng của xã hội,
khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục THCS
Hơn 5 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước, giáo dục THCS đã có sự phát triển mạnh mẽ: Số lượng học sinh tăng
nhanh; hầu hết các trường THCS đã có phòng học khang trang, trang thiết bị
phục vụ dạy học tương đối đầy đủ, không còn hiện tượng học ba ca như trước
đây… Tuy nhiên, hiện nay cơ sở vật chất của giáo dục THCS còn gặp nhiều khó
khăn, nhất là các trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa: số phòng học tạm bợ còn
nhiều, tình trạng học hai ca còn khá phổ biến, phòng chức năng và thiết bị dạy
học cịn thiếu và khơng đảm bảo chất lượng… XHHGD THCS sẽ mang lại nhiều
nguồn lực phục vụ cho mọi hoạt động của giáo dục THCS. Huy động các nguồn
lực và đa dạng hóa các nguồn lực là tính đến một phạm vi rất rộng rãi bao gồm:
nguồn lực vật chất (nhân lực, vật lực, tài lực), nguồn lực tinh thần (sáng kiến
kinh nghiệm, góp ý, tư vấn…), nguồn lực vừa có ý nghĩa vật chất và tinh thần
(thông tin và công nghệ thông tin). Những nguồn lực này sẽ góp phần giải quyết
được mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục
THCS.
24
Ở đây, cần lưu ý rằng, XHHGD THCS không có nghĩa là giảm nhẹ trách
nhiệm và vai trò của Nhà nước. Trái lại, Nhà nước phải tăng đầu tư ngân sách
cũng như tăng cường quản lý Nhà nước đối với giáo dục.
3.4.2 Xã hội hóa giáo dục THCS góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
THCS, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển nhân cách của học sinh khi vào
THPT
XHHGD THCS sẽ huy động được các nguồn lực, góp phần tạo nên những
chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục, mà mục tiêu hàng đầu của giáo dục
là chất lượng- chất lượng nhân cách của người học. Nhờ XHHGD THCS mà
cộng đồng và các lực lượng xã hội có thể tham gia vào cải tiến nội dung và
phương pháp giáo dục, tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Học
sinh THCS, lứa tuổi từ 11 đến 15 t̉i là lứa t̉i có sự phát triển về mặt thể chất
và tâm lý không tương ứng. Ở lứa tuổi này, các em rất thích chứng tỏ mình là
người lớn, thích làm những việc mà người lớn làm. Ngay cả việc các em không
nghe lời cha mẹ cũng để chứng tỏ mình là người lớn. Do vậy XHHGD THCS
giúp cho việc gắn kết giáo dục giữa nhà trường - gia đình - xã hội để giáo dục
học sinh hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục THCS.
3.4.3 Xã hội hóa giáo dục THCS sẽ tạo ra sự công bằng, dân chủ trong hưởng
thụ và trách nhiệm đối với giáo dục THCS
Thực hiện XHHGD THCS có nghĩa là xây dựng được cộng đồng trách
nhiệm của mọi lực lượng xã hội không chỉ “tham gia” mà phải “cùng làm”. Như
vậy, XHHGD THCS sẽ là giải pháp quan trọng để thực hiện công bằng xã hội
trong phát triển giáo dục THCS. Công bằng xã hội thể hiện ở chỗ mở rộng các cơ
hội cho mọi thành phần kinh tế, cho mọi tầng lớp nhân dân chủ động và bình
đẳng tham gia vào các hoạt động giáo dục THCS, chính là việc hưởng thụ một
25
cách công bằng các phúc lợi giáo dục. Học sinh được tham gia học tập bình đẳng
như nhau.
Dân chủ hóa giáo dục là một chủ trương lớn trong đường lối giáo dục của
Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện XHHGD THCS là nhằm xóa bỏ tính khép kín
của hệ thống giáo dục và trường học, để mọi trẻ em được hưởng quyền học tập
như nhau, mọi người dân có thể thực hiện quyền làm chủ trong giáo dục.
XHHGD THCS là góp phần dân chủ hóa việc thực hiện mục tiêu, nội dung,
phương pháp, phương tiện, đánh giá giáo dục THCS, thực hiện sự dân chủ của
người dạy và người học.
Như vậy, XHHGD THCS đã đưa hệ thống giáo dục và nhà trường thoát
khỏi tính khép kín của một thể chế trở thành sự nghiệp của toàn xã hội, tạo điều
kiện thuận lợi để nhiều thành phần dân cư trong xã hội đóng góp về mọi mặt cho
sự nghiệp giáo dục. Làm tốt XHHGD THCS các lực lượng trong xã hội, các tổ
chức chính phủ và phi chính phủ, các nhà hảo tâm với giáo dục, các tổ chức quốc
tế, các gia đình, gia tộc và cộng đồng cùng hỗ trợ nâng cao chất lượng giáo dục.
Với cách thức đó sẽ đạt được mục tiêu dân chủ trong giáo dục THCS.
3.4.4 Xã hội hóa giáo dục THCS sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước, phát huy truyền thống giáo dục của dân tộc
Một chủ trương đường lối, văn bản pháp quy chỉ trở thành hiện thực khi
được quần chúng nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ. Việc phát triển các
hình thức phổ biến, tuyên truyền cho các bậc cha mẹ, đáp ứng nhu cầu chăm sóc
và giáo dục trẻ em của nhân dân… phải được nhân dân hiểu, đồng tình, ủng hộ
và tích cực tham gia chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mới được thực hiện, và có
như vậy cơng tác quản lý Nhà nước mới thực sự có hiệu lực và hiệu quả.