1
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, chúng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
Ban Giám hiệu, Khoa sau Đại học và quý Thầy – Cô Trường Đại học Vinh đã
tham gia giảng dạy, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho chúng tơi trong q
trình đào tạo. Đặc biệt là PGS.TS Trần Hữu Cát, người thầy, người hướng dẫn
khoa học, đã tận tâm và hết lòng truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm về lý luận
và thực tiễn trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo, Phòng
kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, cán bộ giảng viên trường cao đẳng
giao thông vận tải Miền trung đã giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu .
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do hạn chế nhất định về khả năng và
điều kiện nghiên cứu nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính xin
được sự chỉ dẫn, góp ý và giúp đỡ thêm của q thầy cơ, đồng nghiệp cùng bạn
bè.
Một lần nữa xin chân thành biết ơn.
Vinh , tháng
năm 201
Tác giả
Nguyễn Thị Linh Chi
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những tiêu thức để xem xét, đánh giá mức độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia đó là trình độ dân trí, mặt bằng về giáo dục đào tạo. Ở
các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển, trong các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, Nhà nước luôn quan tâm và đặt lĩnh vực giáo dục đào tạo
đúng “ tầm ” của nó , dành vị trí ưu tiên trong việc thực hiện các nhiệm vụ chiến
lược và dành nguồn lực tài chính đầu tư thích đáng. Trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam, các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước
luôn khẳng định: giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư cho sự phát triển. Hiện nay, sự phát triển năng động của các
nền kinh tế, q trình hội nhập và tồn cầu hóa đang rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các quốc gia. Các quy trình này khơng thể tách rời với sự
phát triển và tác động của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, giáo dục đào tạo – các
yếu tố được coi là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế xã hội và sự hưng
thịnh của một quốc gia.
Chỉ thị 40/ CT – TW ngày 15/06/2004 của Ban Bí thư Trung ương về việc
xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
( CBQLGD ) đã nêu: “ Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
là điều kiện để phát huy năng lực con người. Đây là trách nhiệm của tồn Đảng,
tồn dân trong đó nhà giáo và CBQLGD là lực lượng nịng cốt có vai trị quan
trọng ”.
Đứng trước những thay đổi của sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Đất nước; ngành Giao thơng Vận tải, cụ thể là ngành Đường Bộ Việt Nam càng
cần phải có một lực lượng lao động được đào tạo nghề căn bản. Hiện nay hệ
thống mạng lưới đường bộ Việt nam còn nghèo nàn và rất lạc hậu. Lực lượng
3
lao động được đào tạo cơ bản còn hạn chế, chất lượng chưa cao đáp ứng được
yêu cầu của xã hội trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế Quốc tế.
Trong những năm qua Trường cao đẳng GTVT Miền Trung đã xây dựng
được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có phẩm chất đạo đức, ý thức
chính trị tốt, trình độ chun mơn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao góp phần
vào sự nghiệp giáo dục - Đào tạo và phát triển nhà trường.
Nhưng trên thực tế, hiện nay chất lượng đội ngũ giảng viên của nhà trường
còn hạn chế, bất cập chưa đáp ứng với thực tế phát triển của ngành, của đất nước
cũng như khu vực. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên,
đặc biệt giáo viên dạy nghề trước những yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội
chưa tương xứng, đa số vẫn dạy theo lối cũ nặng về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý
đến sự phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học. Vì vậy
tay nghề của người lao động qua đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương và
đất nước. Một số bộ phận nhà giáo chưa gương mẫu trong đạo đức, lối sống,
thiếu gương mẫu trước học sinh, sinh viên, không tạo nên được động lực thúc
đẩy hoạt động dạy và học trong nhà trường theo hướng tích cực.
Do đó, ngồi việc tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học thì vấn đề xây
dựng đội ngũ giảng viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo là một
yêu cầu cấp bách đảm bảo cho chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường
được nâng cao, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của ngành
Giao thông Vận tải, địa phương và đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu " Một số giải pháp
xây dựng đội ngũ giảng viên Trường cao đẳng GTVT Miền Trung ".
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên Trường cao đẳng
GTVT Miền Trung
4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Công tác xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
chuyên nghiệp
- Đối tượng: Một số giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên Trường cao
đẳng GTVT Miền Trung
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được các giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên dựa trên
những nét đặc thù của nhà trường, phù hợp với thực tế của trường Cao đẳng giao
thơng vận tải Miền trung thì có thể nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên góp
phần nâng cao được chất lượng đào tạo ở Trường cao đẳng GTVT Miền Trung
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ giảng viên.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên của Trường
cao đẳng GTVT Miền Trung.
- Đề xuất và khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi một số giải pháp xây
dựng đội ngũ giảng viên của Trường cao đẳng GTVT Miền Trung.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả lựa chọn, sử
dụng các phương pháp sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp,
hệ thống và khái qt hố.,…
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều
tra, chuyên gia, quan sát, trao đổi trực tiếp với giáo viên và học sinh, sinh viên,
….
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác:
5
Phương pháp so sánh, phương pháp khảo nghiệm và một số
phương pháp khác.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
chuyên nghiệp .
Chương 2: Thực trạng về đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Giao
thông Vận tải Miền Trung .
Chương 3: Một số giải pháp xây dựng đội ngũ giảng viên Trường Cao
đẳng Giao thông Vận tải Miền Trung .
6
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Từ xa xưa, ông cha ta đã khẳng định: “Không Thầy đố mày làm nên!”
hay “Thầy nào trò nấy”. Những lời răn dạy ấy đã khẳng định vai trò quyết định
của người Thầy đối với quá trình giáo dục. Chân lý đó là hiển nhiên và mãi mãi
trường tồn. Bởi thế vai trò của đội ngũ giáo viên là vơ cùng quan trọng vì “
khơng có hệ thống giáo dục nào vươn quá tầm những người giáo viên làm việc
cho nó”.
Thực hiện chính sách mở cửa, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương xã hội
hố giáo dục và đào tạo, làm cho sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp chung của mọi
người dân, với quyết tâm cháy bỏng. Chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu với
chiến lược cực kỳ sáng suốt và vô cùng sáng tạo của Đảng đó là đi tắt đón đầu.
Thực chất phát triển giáo dục nói chung và phát triển đội ngũ giáo viên của
ngành giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề nói riêng đó là cách nâng cao ý thức
của toàn xã hội đối với giáo dục, huy động các lực lượng, các nguồn lực của xã
hội để phát triển quy mô và chất lượng của giáo dục, đồng thời biến giáo dục
thành quyền và nghĩa vụ của mọi người dân, thành phúc lợi của toàn dân, thành
dịch vụ cho mỗi cá nhân có nhu cầu và điều kiện muốn học tập, phát triển. Đây
cũng là cách để cho nền giáo dục nước nhà có chất lượng cao, có khả năng đào
tạo những người thực tài, có tầm mắt chiến lược tồn cầu, có ý thức vươn lên
hàng đầu, có năng lực sáng tạo cái mới và cạnh tranh quốc tế, có khả năng biến
tri thức thành sản phẩm mang lại lợi ích kinh tế.
Xuất phát từ những nhận thức trên nên từ năm 1990 đến nay các chính
sách của nhà nước tập trung cho lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và xây dựng đội
ngũ giáo viên tương đối tập trung.
7
Các nhà Giáo dục học và các nhà Sư phạm cũng ln nghiên cứu nhằm
tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Trong những năm
qua đã có những cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên như: Trần Hồng Quân, Trần Bá Hoành, Phạm
Minh Hạc, Nghiêm Đình Vì, Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Ngọc Dũng….
Vì thế nếu đưa vào áp dụng vào một cơ sở đào tạo cụ thể như Trường
Cao đẳng Giao thông vận tải Miền trung thì địi hỏi phải có những giải pháp cụ
thể sao cho phù hợp với đặc thù của ngành GTVT, phù hợp với tình hình kinh
tế, chính trị, văn hố và giáo dục của địa bàn nơi trường đóng.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.2.1 Khái niệm quản lý, quản lý nhà trường
1.2.1.1 Khái niệm quản lý :
Quản lý là một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp
độ và liên quan đến mọi người. C.Mác coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất
biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội, Ông viết “ một nhạc sỹ độc tấu thì tự
điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng ” . Có
nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác
nhau ( xã hội , sinh vật, kỹ thuật ), nó bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy
trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động. [1.].
Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập
thể những người lao động nói chung nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến.
Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của
từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội [1.].
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các
hoạt động( chức năng ) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Xem xét nội hàm của các khái niệm quản lý trên, có thể kết luận rằng:
8
Quản lý là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý bằng các chức năng quản lý, thông qua các phương pháp quản
lý và các phương tiện quản lý nhằm làm cho tổ chức vận hành theo đúng mục tiêu
đã định.
1.2.1.2 Khái niệm Quản lý nhà trường
Nhà trường là cấp cơ sở của hệ thống giáo dục. Nơi trực tiếp giáo dục và đào tạo
học sinh, sinh viên. Nơi thực thi mọi chủ trương đường lối chế độ, chính sách,
nội dung, phương pháp, chế độ tổ chức giáo dục. Nơi trực tiếp diễn ra hoạt động
dạy của thầy, hoạt động học của trò, hoạt động của bộ máy quản lý nhà trường.
Luật giáo dục đã ghi rõ : “ Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân
thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường cơng lập
giữ vai trị nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.” [ 12]
Trường học là một hệ thống xã hội, nó nằm trong mơi trường xã hội và có
sự tác động qua lại với mơi trường đó nên: Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu Giáo dục –
Đào tạo và việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy và học
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
tiến tới mục tiêu giáo dục. [ 12 ]
Cũng có thể coi quản lý nhà trường là quản lý một hệ thống bao gồm 6
thành tố:
1- Mục tiêu giáo dục ( MT )
2- Nội dung giáo dục ( ND )
3- Phương pháp giáo dục ( PP )
4- Thầy giáo ( Th )
5- Học sinh ( Tr )
9
6- Trường sở và thiết bị trường học ( CSVC )
Các yếu tố hợp thành quá trình giáo dục vừa có tính độc lập tương đối và
có nét đặc trưng riêng của mình, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, tác
động tương hỗ lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất.
1.2.2 Khái niệm giảng viên
Điều 61, Luật giáo dục nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã
ban hành ngày 27/06/2005 đã rất chú trọng đến vai trị, vị trí của nhà giáo. Nhà
giáo theo luật giáo dục là: “ người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường, cơ sở giáo dục khác”.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau:
- Phẩm chất đạo đức tư tưởng tốt.
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ:
- Đủ sức khoẻ theo yêu cầu của nghề nghiệp.
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục cao đẳng đại học và sau đại học
gọi là giảng viên ”.
Vậy là, tùy thuộc cách tiếp cận mà các khái niệm đã nêu ra theo nghĩa
rộng hay hẹp, nhưng đề cập đến bản chất của người giảng viên (giáo viên ). Đó
là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc học để người học tích cực chủ động nắm được tri thức, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo và xây dựng, phát triển nhân cách bằng chính nỗ lực chủ quan của mình.
1.2.3 Khái niệm đội ngũ
Theo từ điển Tiếng Việt : “ Đội ngũ là tập hợp gồm 1 số đông người cùng
chức năng hoặc nghề nghiệp thành một lực lượng ” [ 29 ]
Ngày nay khái niệm về đội ngũ được dùng rộng rãi trong các tổ chức xã
hội như: Đội ngũ tri thức, đội ngũ những người tình nguyện, đội ngũ cơng
10
chức, ....Theo cách hiểu thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là một tổ chức gồm
nhiều người tập hợp thành một lực lượng: đội ngũ chỉnh tề để chiến đấu và bảo
vệ.
Tuy các khái niệm về đội ngũ có khác nhau nhưng đều thống nhất một
điều là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực
hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khơng, nhưng đều
có cùng một mục đích nhất định.
Trong giáo dục, người quản lý nhà trường phải xây dựng đội ngũ trên cơ
sở gắn kết các thành viên tạo ra đội ngũ để mỗi người vẫn giữ được sắc thái
riêng của mình nhưng đồng thời phải tạo thành một khối thống nhất có quan hệ
hữu cơ với nhau.
1.2.4 Khái niệm xây dựng, xây dựng đội ngũ giảng viên
Theo Đại từ điển Tiếng Việt - NXB Văn hố Thơng tin 1999 thì xây dựng
có nghĩa là:
- " Làm nên, gây dựng nên".
- " Tạo ra cái có giá trị tinh thần, có nội dung nào đó".
Khái niệm xây dựng có nhiều nghĩa: Một trong các nghĩa của nó là: " Làm
cho hình thành một tổ chức, hay một chỉnh thể xã hội, chính trị, kinh tế, văn hố,
theo một phương hướng nhất định". {29, trang 1105}
Nói đến xây dựng, nó được hiểu bao hàm cả về số lượng và chất lượng.
Xây dựng luôn gắn với sự phát triển, phát triển phải dựa trên cơ sở của thế ổn
định. Phát triển là q trình biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển ở đây được hiểu đó là q trình biến
đổi làm cho số lượng và chất lượng luôn vận động đi lên, hỗ trợ bổ sung lẫn
nhau tạo nên thế bền vững...
Khái niệm xây dựng đội ngũ giảng viên thực chất là xây dựng cả ba yếu
tố: Quy mô, cơ cấu và chất lượng. Trong đó:
11
- Quy mô thể hiện bằng số lượng
- Cơ cấu thể hiện sự hợp lý trong bố trí cơ cấu về chun ngành, độ tuổi,
giới tính, chun mơn nghiệp vụ,.....hay nói cách khác là tạo ra tập thể đồng bộ,
đồng tâm nhất trí có khả năng hỗ trợ bù đắp cho nhau về mọi mặt.
- Chất lượng: Đây là nhân tố quan trọng nhất trong việc xây dựng đội ngũ
giảng viên.
Theo từ điển Tiếng Việt: “ Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương
đối của sự vật, hiện tượng phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác ”. [ 29 ]
Xuất phát từ những ý tưởng trên, chất lượng đội ngũ giáo viên được chủ
yếu thể hiện ở 5 yếu tố cơ bản sau:
- Phẩm chất chính trị - tư tưởng
- Trình độ chun mơn.
- Nghiệp vụ sư phạm.
- Số lượng giáo viên.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên.
Trong đó 3 yếu tố đầu tiên tạo lên chất lượng của từng cá nhân người
giáo viên. Như vậy, đội ngũ giáo viên được đánh giá là đảm bảo chất lượng khi
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, mạnh về chất lượng và phát huy 3 yếu tố trên
tạo lên chất lượng của tập hợp đội ngũ giáo viên.
* Nếu nhìn từ góc độ cá nhân (trong đội ngũ) thì chất lượng thể hiện ở:
- Trình độ chun mơn và nghiệp vụ sư phạm đạt chuẩn quốc gia.
- Phẩm chất chính trị – tư tưởng tốt.
- Khoẻ mạnh cả tinh thần lẫn thể chất.
- Về trình độ chun mơn, dấu hiệu thể hiện chất lượng ở.
+ Trình độ đào tạo, bằng cấp đào tạo
+ Năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
12
+ Mức độ cống hiến của cá nhân đó với tập thể, tổ chức.
- Về trình độ nghiệp vụ sư phạm, dấu hiệu thể hiện chất lượng ở:
+ Năng lực giảng dạy các mơn chun ngành của mình.
+ Năng lực giáo dục
+ Năng lực hoạt động xã hội.
+ Năng lực tự học, học suốt đời để giảng dạy.
- Về phẩm chất chính trị – tư tưởng, chất lượng thể hiện ở :
+ Có lý tưởng XHCN, có tình cảm với nghề sư phạm ;
+ Có hồi bão, có sự say mê nghiên cứu học tập để cải tiến nghề dạy ;
+ Yêu quý, chăm lo đến học sinh, sinh viên bằng cả tâm hồn. Có tác
phong, lối sống lành mạnh trong sạch giản dị.
Trong trình độ cần chú ý hệ thống kiến thức chuyên môn và kỹ năng
giảng dạy - giáo dục để chuyển tải tri thức khoa học, kỹ năng nghiên cứu cho
sinh viên. Cũng cần nhấn mạnh trình độ nghiệp vụ sư phạm, vì rằng dạy học là
một nghề, nghề truyền bá tri thức khoa học để hình thành nhân cách con người,
làm chủ đất nước.
Ngoài những tiêu chuẩn đã trình bày, chất lượng cá nhân giáo viên cần
phải : Biết quan tâm đến bản thân, bè bạn với quần chúng nhân dân. Nắm bắt
tình hình thời sự trong nước và thế giới về mọi mặt để xử lý kịp thời vào giảng
dạy – giáo dục; hiểu sâu sắc đối tượng là sinh viên, học sinh, có sức khoẻ, biết
vui chơi, giải trí lành mạnh; đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ nhất định, ngơn ngữ lưu
lốt, lịch thiệp, vẻ mặt vui tươi, tư thế tác phong đàng hoàng tự tin.
* Nếu nhìn từ góc độ tập thể đội ngũ giáo viên, chất lượng thể hiện ở :
- Đạt chuẩn (số lượng và chất lượng).
- Đồng bộ về cơ cấu tổ chức.
- Đoàn kết quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
- Được bồi dưỡng thường xuyên.
13
- Đạt hiệu quả trong công tác.
Nếu nghiên cứu chất lượng và giải pháp để xây dựng đội ngũ giáo viên
với quan điểm từng cá nhân thì chất lượng thể hiện ở hiệu quả đào tạo mà kết
quả học tập của học sinh, sinh viên, khả năng chuyên môn nghiệp vụ của người
giáo viên tương lai là tiêu chí để đánh giá chất lượng giáo dục của đội ngũ giáo
viên nhà trường.
Nếu xem xét giải pháp xây dựng đội ngũ giáo viên với quan điểm cả
tập thể thì chất lượng đó thể hiện ở số lượng, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của nhà trường hay chưa, từ
đó đề ra chiến lược đào tạo bồi dưỡng đội ngũ này.
Vì vậy, nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ giáo viên phải đề cập đến cả
hai phương diện – vừa là cá nhân, vừa là tập thể. Có như vậy mới đánh giá đúng
thực trạng và đề ra được giải pháp nâng cao chất lượng cho toàn bộ đội ngũ giáo
viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
1.2.5 Giải pháp, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
- Giải pháp: Theo từ điển Tiếng Việt giải pháp là “Phương pháp giải quyết
một vấn đề cụ thể nào đó” {29, trang 387}. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến
những cách thức tác động nhằm thay đổi, chuyển biến một hệ thống, một quá
trình, một trạng thái nhất định…, tập trung lại, nhằm đạt được mục đích hoạt
động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu, càng giúp con người nhanh chóng
giải quyết những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên để có những giải pháp như vậy, cần
phải dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy.
- Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là cách thức tác động
hướng vào việc tạo ra những biến đổi tích cực về chất lượng trong đội ngũ giáo
viên.
1.2.6 Tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ giảng viên
14
Giáo dục là một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội và được coi là cơ
sở hạ tầng của kinh tế - xã hội. Giáo dục là một q trình xã hội hóa liên tục và
có tính phổ quát trong sự hiện diện của nó ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử
của nhân loại. Giáo dục xuất hiện trong xã hội loài người, trong cộng đồng nhằm
mục đích truyền thụ kinh nghiệm sống, kỹ năng,…..cho các thế hệ sau và các
chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thủy của giáo dục là xã hội hóa cá nhân.
Giáo dục phát triển thành một quá trình tự giác và nhà trường xuất hiện. Với ý
nghĩa này, giáo dục trở thành một q trình tác động có định hướng lên ý thức
và thể chất nhằm hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
Giáo dục – đào tạo đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nó có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau như tính chất của
một phản ứng thuận nghịch, tùy theo điều kiện của chất xúc tác phản ứng xảy ra
theo chiều nào mạnh hơn, chúng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Ở
giai đoạn đầu của lịch sử loài người ‘‘ làm rồi mới nghĩ ” thì kinh tế có vai trị
quyết định, giai đoạn mà con người ‘‘ vừa làm vừa nghĩ ” , nghĩ rồi mới làm ”
thì giáo dục đào tạo được xem như là một động lực chủ yếu cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
Giáo dục – đào tạo đã tạo cho nền kinh tế của dân tộc nguồn nhân lực:
những nhà bác học, chuyên gia, kỹ sư……trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ
nguồn nhân lực này mới có thể sáng tạo ra các kỹ thuật tiên tiến, những cơng
nghệ mới, những ngun liệu khơng có sẵn trong tự nhiên, những hình thức
quản lý mới trong sản xuất. Nếu khơng có nguồn nhân lực đó thì nhất định
khơng có sự nhảy vọt về kinh tế.
Giáo dục – đào tạo trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học vấn,
trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng lực thực tiễn của những người
lao động. Tính sáng tạo của con người trong sản xuất bắt nguồn từ thành quả
15
trong giáo dục, khơng có giáo dục thì khơng thể nói đến việc cải tiến cơng cụ áp
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, tích lũy tri thức kinh nghiệm và tất nhiên
không thể nào nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan.
Giáo dục – đào tạo còn tạo ra những điều kiện cần thiết, những động lực
trực tiếp cho việc nâng cao năng suất lao động, luôn thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Có thể nói rằng đây là nhân tố duy trì phát triển những thành
tựu văn minh của nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Luật giáo dục đã xác định rõ vai trò của nhà giáo trong công tác giáo dục
đào tạo: ‘‘ Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo
dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người
học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo có chính sách bảo đảm các
điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của
mình….” .[ 12 ]
Đội ngũ giảng viên là người trực tiếp thực thi các mục tiêu và nhiệm vụ
của giáo dục – đào tạo, với vai trị chủ đạo trong q trình giáo dục đào tạo ở các
trường, các cơ sở giáo dục đào tạo. Đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết định
chất lượng của giáo dục đào tạo.
Trong hệ thống các thành tố giáo dục: Mục tiêu, nội dung, phương pháp,
thầy, trị, các điều kiện…..thì yếu tố người thầy đóng vai trị vơ cùng quan
trọng. Chất lượng đào tạo chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố , song không nếu
không giải quyết tốt vấn đề đội ngũ giảng viên thì những yếu tố khác không thể
biến thành chất của giáo dục đào tạo. Mối quan hệ giữa các thành tố trong giáo
dục – đào tạo là mối quan hệ biện chứng mà trong đó yếu tố người thầy đóng vai
trị quyết định.
16
Khẳng định vai trò quyết định của đội ngũ giảng viên đến chất lượng giáo
dục đào tạo, cũng đồng thời khẳng định tầm quan trọng và những ảnh hưởng to
lớn của người thầy đến toàn xã hội . Sự nghiệp ở mỗi con người, sự thành bại
của một quốc gia rõ ràng đều bắt đầu từ sự học hành mà ở đó người thầy giữ vị
trí vơ cùng quan trọng.
1.2.7.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng phát triển đội ngũ nhà giáo.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) rất quan tâm tới công tác
đào tạo con người thông qua hoạt động giáo dục. Người khẳng định “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [Hồ
Chí Minh, tập 12, 2002: 498]. Để thực hiện nhiệm vụ cách mạng vẻ vang đó,
theo Người cần phải tăng cường đầu tư cho giáo dục, trong đó cơng tác xây
dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo đóng vai trị quan trọng.Trước tiên, muốn
thực hiện tốt công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng cần phải đánh giá đúng vai trị, vị trí của đội ngũ này trong sự
nghiệp cách mạng. Theo Người “…nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo
dục… Khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói đến kinh tế, văn
hóa” [Hồ Chí Minh, 1981: 22]. Do đó, Bác khẳng định “Những người thầy giáo
tốt là những người vẻ vang nhất, là những người anh hùng vô danh” [Hồ Chí
Minh, 1975: 98]. Đồng thời với sự đánh giá cao vai trò của đội ngũ nhà giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nhiều quan điểm về cơng tác xây dựng đào tạo
đội ngũ nhà giáo.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là
xây dựng đội ngũ những người thầy giáo. Người khẳng định trách nhiệm đó của
tồn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước với vai trò là người lãnh đạo và
quản lý. Đảng, Nhà nước phải “quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt” [Hồ Chí Minh, 1975: 116], trong đó xây dựng đội
ngũ nhà giáo là nội dung trọng tâm. Người yêu cầu cán bộ làm công tác quản lý
17
giáo dục “phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến
và kiến quốc” [Hồ Chí Minh, 1975: 26]. Muốn vậy, “phải đi sâu vào việc điều
tra, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm” để chủ động nắm bắt được suy nghĩ của
đội ngũ nhà giáo, phát huy ưu điểm, phát hiện và khắc phục nhược điểm, thiếu
sót trong q trình quản lý, đồng thời, phải trang bị cho đội ngũ nhà giáo lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin vì trường học của chúng ta là trường học xã hội chủ
nghĩa, mỗi thầy cô giáo phải là người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận đó.
Tạo ra cho nhà giáo những mơi trường thuận lợi để nâng cao năng lực
giảng dạy cũng được thể hiện trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
và phát triển đội ngũ nhà giáo. Mặc dù bận trăm cơng nghìn việc nhưng Bác vẫn
dành thời gian để chỉ đạo sát sao phong trào “Dạy tốt- Học tốt”. Theo Người,
các phong trào thi đua góp phần tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi
cho nhà giáo. Nó thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ của xã hội đối với nhà giáo, tạo
niềm tin và phấn khởi cho đội ngũ giáo viên khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
Mặt khác, phong trào hai tốt còn góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên về chất
lượng.
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự nỗ lực phấn đấu của mỗi
nhà giáo là động lực chủ yếu để phát triển đội ngũ giáo viên cả về số lượng lẫn
chất lượng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể rút ra một số yêu
cầu đối với nhà giáo như sau:
Một là, Nhà giáo phải phát huy tinh thần học tập không ngừng. Người vẫn
thường dẫn lại câu nói của Khổng Tử “Học khơng biết chán, dạy không biết
mỏi” và lời dạy của V. I. Lênin “Học, học nữa, học mãi” để nhắc nhở các thầy,
cơ giáo “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt...
phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chun mơn…” [Hồ Chí Minh,
tập 12, 2002: 403]. Bác khuyên cán bộ và giáo viên “Chớ tự túc, tự mãn, cho là
giỏi rồi thì dừng lại, mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước.
18
Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo
con em và giúp vào việc cải tạo xã hội” [Hồ Chí Minh, tập 9, 2002: 489]. Bác
rất quan tâm đến việc học ở nhân dân, có “Biết làm học trị dân thì mới làm
được thầy học của dân”. Ngày nay, trước sự phát triển của nền kinh tế tri thức.
Người giáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ, phương pháp sư phạm. Đó là những yêu cầu cần thiết
đối với đội ngũ nhà giáo.
Hai là, Mỗi giáo viên phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách
mạng, ra sức học tập lý luận chính trị vì “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính
trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân” [Hồ
Chí Minh, 1975: 72]. Nhà giáo “Phải thật thà, yêu nghề mình, u trường
mình… khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên
hạ” [Hồ Chí Minh, 1975: 98-99] để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo.
Ba là, Trong quan hệ “Thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ
(thật thà tự phê bình và phê bình) để giúp nhau tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi” [Hồ
Chí Minh, 1975: 40]. Tuy nhiên, “Dân chủ, nhưng trị phải kính thầy, thầy phải
q trị, chứ khơng phả là “Cá đối đầu bằng” [Hồ Chí Minh, 1975: 50]. Đây
khơng chỉ lời khun dành riêng cho mỗi nhà giáo mà còn là nền tảng cho Đảng
và Nhà nước ta trong hoạch định chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ nhà
giáo theo đúng nghĩa “Thầy ra thầy, trò ra trò”.
1.3. Xây dựng đội ngũ giáo viên - Yếu tố quyết định việc nâng cao
chất lượng đào tạo
1.3.1. Vai trò của đội ngũ giảng viên
Như ta biết, bất cứ XH nào cũng tạo dựng được một vị thế xứng đáng
cho người thầy giáo của xã hội mình. Các nhà tư tưởng tiến bộ của mọi thời đại
đều ca ngợi ý nghĩa cao cả và tính ưu việt của ngề dạy học. Chẳng hạn nhà giáo
19
dục Đixtevec cho rằng: Vai trò của người giáo viên là vơ cùng vì đối tượng
chăm sóc của người giáo viên khơng phải là hịn đá mà là con người, “ Khơng
có giáo viên thì thế giới sẽ trở về thời đại giã man”.
Người Việt Nam từ xưa tới nay vẫn ln kính trọng người thầy, họ cho
rằng “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ hãy yêu lấy thầy” hay
“Nửa bụng chữ còn hơn hũ vàng”.
Mặc dù, hiện nay nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề như sự bùng nổ
của tri thức khoa học và công nghệ. Sự xuất hiện một thế giới phụ thuộc lẫn
nhau, sự đối mặt với nhữngvấn đề lớn có tính tồn cầu, vượt ra ngoài phạm vi
mỗi quốc gia, của từng khu vực, như dân số, môi trường, bênh dịch... Nên con
người là trung tâm của sự phát triển. Một xã hội phát triển dựa vào sức mạnh
của tri thức, bắt nguồn từ khai thác tiềm năng của con người, lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản của sự phát triển nhanh chóng và bền
vững. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc đặt con
người vào trung tâm của sự phát triển khiến cho giáo dục phải rà soát lại nhận
thức về mục tiêu: từ chỗ “Học để biết” sang chỗ “Học để làm”, rồi “Học để cùng
chung sống”, học để tự khẳng định mình, có nghĩa là “Khuyến khích sự phát
triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con người” nhưng vai trò của giáo
viên vẫn vô cùng quan trọng bởi giáo dục nhà trường dưới sự chỉ đạo của giáo
viên là con đường tin cậy và hiệu quả nhất giúp đỡ thế hệ trẻ tiếp thu có mục
đích, có chọn lọc, có hệ thống những tinh hoa di sản văn hoá, khoa học, nghệ
thuật của lồi người và của dân tộc. Do đó; Đảng và Nhà nước ta đã coi đội ngũ
GV là lực lượng cốt cán của sự nghiệp giáo dục - đào tạo, người GV là chiến sĩ
cách mạng trên mặt trận tư tưởng – văn hoá.
Xu thế đổi mới giáo dục của thế kỉ XXI đang đặt ra những yều cầu mới về
phẩm chất, năng lực và làm thay đổi vai trò, chức năng của người GV.
20
Cơng nghệ thơng tin phát triển nhanh chóng, tạo ra những phương tiện,
phương pháp giao lưu mới, tạo cơ hội cho mỗi người có thể học dưới nhiều hình
thức theo khả năng và điều kiện cho phép. Giáo dục nhà trường khơng cịn là
nguồn thơng tin duy nhất đem đến cho học sinh các tri thức mới mẻ của loài
người mà học sinh có thể tiếp nhận thơng tin khoa học từ các nguồn khác nhau
như: phần mềm dạy học, internet, truyền hình... Vì vậy, giáo viên khơng chỉ
đóng vai trò truyền đạt các tri thức khoa học mà còn phải phát triển những cảm
xúc, thái độ, hành vi, đảm bảo cho người làm chủ và biết ứng dụng hợp lý
những tri thức đó. Giáo dục phải quam tâm đến sự phát triển ở người học, ý thức
về các giá trị đạo đức tinh thần, thẩm mỹ tạo nên bản sắc tốt đẹp của loài người,
vừa kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trịu
mới, thích nghi với thời đại mới. Về mặt này khơng có gì thay thế vai trị của
người giáo viên như nhà Giáo dục người Tiệp Jan Amos Komensky khẳng
định: Chức vụ mà xã hội trao cho người giáo viên là chức vụ quang vinh mà
dưới ánh mặt trời này khơng có chức vụ nào cao q hơn, nhưng cũng đặt ra cho
người GV yêu cầu cao về lòng nhân ái “Anh khơng thể như một người cha thì
cũng khơng thể là một người thầy”.
Ngày nay, phương pháp dạy học đang chuyển từ kiểu dạy học tập trung
vào vai trò của người giáo viên sang kiểu dạy tập trung và vai trị của học sinh,
từ cách dạy thơng báo đồng loạt, học tập thụ động sang cách dạy phân hoá, học
tập tích cực. Giáo viên khơng cịn đóng vai trị là người truyền đạt kiến thức mà
là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tịi,
tranh luận của học sinh.
Vai trị chủ động tích cực, sáng tạo của học sinh được phát huy, nhưng vai
trị của người giáo viên khơng hề giảm nhẹ mà trái lại. Kinh nghiệm nghề
nghiệp của mỗi người trong chúng ta cho biết tiến hành một tiết dạy theo kiểu
truyền thống: Thuyết trình, độc thoại thì dễ hơn dạy một tiết học theo phương
21
pháp tích cực, trong đó giáo viên tổ chức, hướng đẫn các hoạt động độc lập hoặc
theo nhóm học sinh, thơng qua đó các em tự giành lấy những kiến thức mới,
đồng thời nắm được phương pháp đi tới kiến thức đó. Giáo viên phải được đào
tạo cơng phu, có một trình độ cao về chun mơn nghiệp vụ mới có thể đóng vai
trị làm người cố vấn. Người trọng tài ln ln giữ vai trị chủ đạo trong q
trình sư phạm, trong các hoạt động đa dạng của học sinh.
Với vai trò to lớn như vậy, nên trong lần phát biểu tại trường ĐH SP Hà
Nội tháng 10 năm 1964. Chủ Tịch Hồ Chủ Tịch khẳng định: “ Người thầy giáo
tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo,
không được thưởng huân chương, song những thầy giáo tốt là những anh hùng
vô danh”.[ 14 ]
Khoa học càng phát triển, các kỹ năng, kỹ sảo nghề nghiệp càng tinh vi
phức tạp; Mỗi người khơng thể tự mình có được các chức năng, kỹ sảo đó mà
phải có người dạy dỗ. Tục ngữ : “Khơng thầy đố mày làm nên” câu nói đó cho
thấy rõ vai trò của người thầy trong việc đào tạo nghề. Nhờ có thầy mà kho tàng
tri thức, văn hoá kinh nghiệm của nhân loại được lưu truyền từ thế hệ trước sang
thế hệ sau.
Thầy giáo không chỉ dạy nghề mà nhiệm vụ lớn hơn là hình thành cho học
sinh nhân cách người lao động. Rõ ràng người thầy giáo có vai trị quan trọng
đối với sự phát triển của từng con người. Vì vậy; họ xứng đáng được xã hội tơn
vinh. Điều đó phù hợp với đạo lý “Tôn sư trọng đạo của dân tộc ta”.
Chúng ta đang sống ở những năm đầu của thế kỷ XXI, khởi đầu của nền
kinh tế tri thức. Vai trò của người thầy đối với sự phát triển của đất nước trong
tương lai càng trở lên quan trọng. Người thầy phải thực hiện trọng trách mà xã
hội giao phó, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Như Luật
Giáo dục đã khẳng định: “Người thầy là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo
dục”. Thầy giáo là người tổ chức lãnh đạo quá trình học tập, giáo dục ở trường
22
học, ảnh hưởng của người thầy đối với học sinh rất to lớn. Ngay trong việc
giảng dạy, nội dung bài giảng hoàn toàn do giáo viên quyết định. V.I Lê nin
viết: “Khơng có sự kiểm tra nào, khơng có chương trình nào có thể thay đổi một
cách tuyệt đối phương hướng của các bài học mà giảng viên đã xác định”. [ 18 ]
Trong nhà trường nếu đội ngũ giáo viên có năng lực, họ có thể lựa chọn
được nội dung giảng dạy sát với thực tế và nhu cầu người học, khai thác, sử
dụng có hiệu quả thiết bị, phương tiện dạy học, tạo ra được mơ hình, học cụ, làm
giàu thêm cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy.
1.3.2. Đặc điểm lao động, phẩm chất và năng lực của người giảng viên.
1.3.2.1. Đặc điểm lao động của người giảng viên
Đối tượng lao động của người giảng viên là sinh viên
Nghề của giảng viên là nghề dạy học, đây là lao động trí óc đặc thù
Nghề dạy học yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất cao ở giảng viên vì giảng
viên dạy học bằng chính năng lực và nhân cách của mình. Giảng viên là một tấm
gương sáng cho sinh viên noi theo.
Nghề dạy học có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn vì giáo dục tạo ra sức lao
động mới cho từng con người.
Nghề dạy học địi hỏi phải có tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo.
1.3.3.2 Một số phẩm chất và năng lực của người giảng viên.
- Phẩm chất của người giảng viên:
Thế giới quan là thành tố, nền tảng, định hướng thái độ, hành vi ứng xử
của giảng viên trước các vấn đề của thế giới tự nhiên, thực tiễn xã hội và thực
tiễn nghề nghiệp. Lòng yêu trẻ và lòng yêu nghề.
- Năng lực của người giáo viên được thể hiện qua kiến thức và kỹ năng sư
phạm.
+ Kiến thức
23
Người giáo viên phải nắm vững các kiến thức cơ bản của mơn học mà
mình được đào tạo và đảm nhận giảng dạy các kiến thức này tối thiểu ở trình độ
Trung học Sư phạm đối với giáo viên Mầm non, Tiểu học, Cao đẳng Sư phạm
đối với giáo viên Trung học cơ sở; Đại học Sư phạm đối với giáo viên Trung
học phổ thông, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề vv... Để có thể dạy một
cách có hiệu quả các mơn học trong chương trình của bậc học. Các kiến thức cơ
bản của người giáo viên phải đủ sâu sắc để có khả năng giúp học sinh vận dụng
kiến thức đã học không chỉ thể hiện trong việc làm bài tập tại lớp mà cịn trong
hồn cảnh khác: Trong gia đình, ngồi xã hội và ở các cơ sở sản xuất.
Giáo viên cịn phải có kiến thức về tâm lý học, giáo dục học, logíc học.
Những kiến thức về phương pháp giáo dục, dạy học, kiểm tra đánh giá, quản lý
giáo dục và phải luôn cập nhật những thơng tin mới về thành tựu của lĩnh
vực này.
Có kiến thức về những vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước và của địa
phương; hiểu biết về phong tục tập quán, cả ngôn ngữ và đời sống của cộng
đồng địa phương nơi trường đóng. Nắm được các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và của ngành giáo dục.
Kiến thức về công nghệ thông tin, nền kinh tế tri thức, mục tiêu giáo dục
ở thế kỷ XXI, mục tiêu giáo dục mà mình giảng dạy.
Kiến thức về lập kế hoạch giảng dạy, soạn giáo án, tổ chức các hoạt động
giáo dục cho học sinh, sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học trên lớp.
Kiến thức, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tham gia các hoạt động hội
thảo khoa học nhằm khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp
ứng yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát triển giáo dục.
+ Kỹ năng sư phạm.
Giáo viên phải có kỹ năng sư phạm bao gồm kỹ năng dạy học, kỹ năng
24
giáo dục, kỹ năng tổ chức, kỹ năng phối hợp với cha mẹ học sinh và các lực
lượng giáo dục trong xã hội.
Giáo viên có kỹ năng chuẩn bị bài lên lớp: xác định được mục tiêu và
những nội dung cơ bản của bài học; dự kiến các phương pháp, phương tiện dạy
học sẽ sử dụng trong giờ học, phân phối thời gian theo các khâu, các bước của
giờ lên lớp và soạn giáo án một cách hợp lý, khoa học; người giáo viên trong
q trình dạy học ln giữ vai trò chủ động quản lý lớp học hợp lý, theo dõi
hướng dẫn học theo quy trình khoa học; ngơn ngữ rõ ràng, mạch lạc, phù hợp
với trình độ nhận thức của học sinh. Giáo viên phải biết đặt câu hỏi và duy trì
khơng khí hứng thú, tích cực học tập của học sinh; Sử dụng các phương pháp,
phương tiện dạy học, đặc biệt là ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin
vào dạy học, tự làm các thiết bị dạy học, nắm được cách thức tổ chức kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh, lập hồ sơ giảng giảng của bản thân và tích
luỹ tư liệu giảng dạy, biết xây dựng hồ sơ theo dõi q trình học tập của học
sinh để thơng báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho cha mẹ học sinh. Người giáo
viên cịn phải có những kỹ năng sau:
Quản lý lớp học và tổ chức các hoạt động của học sinh ở trong và ngồi
trường, vận dụng lơi cuốn học sinh tham gia các hoạt động này và duy trì thái độ
học tập tích cực và sáng tạo.
Giao tiếp với học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp, thể hiện khả năng duy
trì và phát triển mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau.
Phối hợp với lực lượng giáo dục trong xã hội để tổ chức tốt các hoạt động
giáo dục.
Nghiên cứu khoa học giáo dục để nâng cao trình độ, khơng ngừng hồn
thiện mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục.
1.3.3.3 Tiêu chí và tiêu chuẩn của người giảng viên hiện nay
* Tiêu chuẩn 1: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
25
-Tiêu chí 1. Phẩm chất chính trị
Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia các hoạt động chính trị - xã hội;
thực hiện nghĩa vụ cơng dân.
- Tiêu chí 2. Đạo đức nghề nghiệp
u nghề, gắn bó với nghề dạy học; chấp hành Luật Giáo dục, điều lệ, quy chế,
quy định của ngành; có ý thức tổ chức kỉ luật và tinh thần trách nhiệm, giữ gìn
phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; sống trung thực, lành mạnh, là tấm
gương tốt cho học sinh.
- Tiêu chí 3. Ứng xử với học sinh
Thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, giúp học sinh khắc
phục khó khăn để học tập và rèn luyện tốt.
- Tiêu chí 4. Ứng xử với đồng nghiệp
Đồn kết, hợp tác, cộng tác với đồng nghiệp; có ý thức xây dựng tập thể tốt để
cùng thực hiện mục tiêu giáo dục.
- Tiêu chí 5. Lối sống, tác phong
Có lối sống lành mạnh, văn minh, phù hợp với bản sắc dân tộc và mơi trường
giáo dục; có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học.
* Tiêu chuẩn 2: Năng lực tìm hiểu đối tượng và mơi trường giáo dục
- Tiêu chí 6. Tìm hiểu đối tượng giáo dục
Có phương pháp thu thập và xử lí thơng tin thường xun về nhu cầu và đặc
điểm của học sinh, sử dụng các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục.
- Tiêu chí 7. Tìm hiểu mơi trường giáo dục
Có phương pháp thu thập và xử lí thơng tin về điều kiện giáo dục trong nhà
trường và tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương, sử
các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục.
* Tiêu chuẩn 3: Năng lực dạy học