Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số nội dung về tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình trong bối cảnh đổi mới giáo dục ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.99 KB, 10 trang )

MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC VÀ TRÁCH NHIỆM
GIẢI TRÌNH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
Bùi Thị Vân
Trường Đại học Giao thông vận tải
Phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh đổi mới giáo
dục và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang được cả xã hội hết
sức quan tâm. Chủ trương, chính sách về tự chủ được trao cho một số trường đại học
từ nhiều năm trước nhằm tạo điều kiện phát triển giáo dục đại học. Tuy nhiên, đến nay
hệ thống giáo dục đại học ở nước ta vẫn ở trình độ phát triển thấp, mức độ thực hiện tự
chủ của các trường đại học có bước chuyển biến chậm. Bài viết đề cập một số nội
dung về tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình, khái qt chính sách tự chủ đại học ở
nước ta và đưa ra một số khuyến nghị.
1. Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình
Tự chủ đại học là xu thế phát triển chung, là động lực để các trường đại học đổi
mới nhằm đạt hiệu quả cao hơn và làm tăng tính cạnh tranh giữa các trường, tạo điều
kiện để đa dạng hóa các hoạt động giáo dục. Mức độ tự chủ của một trường đại học
phản ánh quan hệ giữa nhà nước với trường đại học. Theo đó có thể phân chia thành:
Các trường đại học do nhà nước kiểm sốt hồn tồn và được bao cấp kinh phí ở mức
độ cao; Các trường đại học tự chủ một phần, nhà nước vẫn can thiệp vào một số khâu;
Các trường đại học độc lập, tự chủ hồn tồn, khơng có sự can thiệp trực tiếp của nhà
nước.
Các nội dung trong tự chủ đại học
Tự chủ về tổ chức, bộ máy: Là quyền tự chủ của trường đại học trong việc quyết
định cơ cấu tổ chức và cơ chế tự ra quyết định. Tự chủ về tổ chức là sự chủ động về
cách thức quản lý các nguồn lực khác nhau nhằm mục tiêu phát triển của nhà trường.
Trường đại học được tự quyết định và chủ động trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức;
tiến hành thành lập, cơ cấu tổ chức hay giải thể các đơn vị trực thuộc; thực hiện công
tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ, đồng thời xây dựng chiến lược phát triển trường
theo tầm nhìn và định hướng riêng.
Một số nội dung chủ yếu của tự chủ đại học về mặt tổ chức, bộ máy như: tuyển
dụng hiệu trưởng; quyết định nhiệm kỳ/miễn nhiệm hiệu trưởng; lựa chọn thành viên


bên ngoài vào Hội đồng trường; quyết định về tổ chức các khoa, bộ môn; quyết định
chu trình, tiêu chí bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư.
Tự chủ về tài chính: Là quyền tự chủ của trường đại học về quản lý và phân bổ
nguồn tài chính một cách độc lập, cho phép trường huy động các nguồn lực để thực
hiện các mục tiêu chiến lược của mình. Trường đại học được tự quyết định và chủ
động trong hoạt động khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các
nguồn lực tài chính, tài sản hiện có; thực hiện cân đối thu chi các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo tính minh bạch của tồn hệ thống tài chính, đảm bảo hoạt động tài
chính trong đơn vị tuân thủ đúng pháp luật.
Một số nội dung chủ yếu của tự chủ đại học về mặt tài chính như: quyết định
mức học phí; trả lương cho giảng viên theo hiệu quả công việc nghiên cứu và giảng
291


dạy; phân bổ nguồn lực tài chính hiệu quả; sở hữu bất động sản và tài sản tài chính;
vay mượn đầu tư ở thị trường tài chính.
Tự chủ về học thuật: Là quyền tự chủ trong việc đưa ra các quyết định về học
thuật trong nội bộ trường một cách độc lập nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Trường đại học chủ động trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong các
vấn đề liên quan đến tuyển sinh, quyết định số lượng và tiêu chuẩn tuyển sinh. Tự chủ
trong học thuật, chương trình và phương pháp giảng dạy, kiểm tra và đánh giá kết quả
học tập, nội dung chương trình và giáo trình học liệu; các chuẩn mực học thuật như
tiêu chuẩn của văn bằng hay những liên quan đến kiểm định chất lượng; tự chủ trong
nghiên cứu và xuất bản.
Trường đại học được tự quyết định về các ngành học cũng như chương trình
đào tạo, tự quyết định các tiêu chuẩn học thuật và đảm bảo chất lượng; lựa chọn ngôn
ngữ giảng dạy và cơ quan kiểm định phù hợp; tự xác định mục tiêu và vấn đề nghiên
cứu, các hình thức thực hiện cũng như phương thức liên kết trong việc theo đuổi các
mục tiêu khoa học công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội cũng như nhu cầu phát
triển của từng lĩnh vực học thuật.

Tự chủ về nhân sự : Là quyền tự chủ của trường trong việc tuyển dụng và sử
dụng nguồn nhân lực phù hợp nhất theo yêu cầu của trường. Một số nội dung chính
của tự chủ về nhân sự như: tuyển dụng giảng viên và nhân viên; quyết định tiêu chí,
quy trình tuyển chọn, sa thải nhân sự; quyết định mức lương theo năng lực của giảng
viên, nhân viên; quyết định các tiêu chí tăng lương, thưởng; quyết định các tiêu chí
thăng chức vụ.
Sự chủ động của các trường đại học về các phương diện tổ chức, học thuật, tài
chính và nhân sự là khơng thể tách rời. Thực hiện quyền chủ tự chủ, các trường đại
học vừa đạt được mục tiêu phát triển bền vững, vừa thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và
năng động, đóng góp chung vào sự phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh kinh tế
thị trường và cạnh tranh toàn cầu.
Cần chú ý rằng tự chủ đại học khơng có nghĩa là trường đại học có sự tự do
hồn tồn mà tự chủ đại học luôn được giới hạn trong khuôn khổ luật pháp. Tự chủ đại
học bao gồm quyền tự quyết và trách nhiệm giải trình, gắn với tự chịu trách nhiệm,
yêu cầu công khai minh bạch và kiểm tra, kiểm sốt của Nhà nước và xã hội.
Trách nhiệm giải trình có thể hiểu là trách nhiệm, trách nhiệm giải thích. Trước
hết, liên quan tới những người có thẩm quyền và quy định họ cần thực thi nhiệm vụ
của mình như thế nào. Trong trường đại học, trách nhiệm giải trình nghĩa là người
được giao quyền lực phải chịu trách nhiệm trước một cá nhân hoặc một nhóm người
nào đó. Đó là sự sẵn sàng giải thích các quyết định có kèm theo minh chứng khi sinh
viên, đồng nghiệp hoặc các bên liên quan đặt câu hỏi.
Tự chủ đại học luôn đi liền với trách nhiệm giải trình bởi đó là nghĩa vụ của
trường đại học trước người học, xã hội và chính phủ về mọi hoạt động của mình. Tự
chủ để đảm bảo hiệu quả và hiệu suất cao, trách nhiệm giải trình là để đảm bảo chất
lượng giáo dục và công bằng xã hội trong giáo dục. Tùy theo mối quan hệ giữa nhà
nước và nhà trường trong việc trao quyền tự chủ mà có các hệ thống giải trình khác
nhau. Khái qt chung, thường có giải trình theo chiến lược đã phê duyệt, theo hợp
đồng đã ký kết giữa nhà trường và nhà nước, theo quy chế về kết quả hoạt động của
nhà trường.
292



2. Khái quát chung về tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình ở Việt Nam
Về khung khổ pháp lý
Cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, lĩnh vực giáo dục đại học ở
nước ta đã và đang từng bước được cải cách theo hướng cho phép mọi thành phần kinh
tế tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục đại học. Phát triển giáo dục đại học để phát
triển nguồn nhân lực trở thành yêu cầu bức thiết trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Chủ trương phát triển giáo dục đại học, đổi mới quản lý được thể
hiện trong Luật Giáo dục năm 1998. Luật này mới đề cập đến vấn đề tự chủ đại học và
trách nhiệm giải trình theo nghĩa là tự chịu trách nhiệm. Theo đó, các cơ sở giáo dục
đại học được trao quyền tự chủ ở một số nội dung như: xây dựng chương trình, giáo
trình, kế hoạch giảng dạy, học tập; tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo; tổ
chức bộ máy nhà trường; hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa. Như vậy,
về mặt pháp lý, các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta được trao quyền tự chủ khá cao.
Đây là bước tiến lớn trong chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự chủ lại phải tuân theo quy định của pháp
luật và theo Điều lệ nhà trường. Cụ thể là đến năm 2002 mới có Nghị định về chế độ
tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, hướng dẫn quyền tự chủ tài chính của
các đơn vị này trong đó có cơ sở giáo dục đại học (Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày
16/01/2002). Năm 2003, Điều lệ trường đại học được ban hành. Do việc chậm ban
hành các văn bản hướng dẫn luật và nhiều lý do khác nên chủ trương về tự chủ đại học
đã không được triển khai trong nhiều năm ở nước ta. Bước chuyển trong quản lý giáo
dục đại học từ quản lý tập trung thời bao cấp sang mô hình tự chủ đại học diễn ra hết
sức chậm chạp.
Luật Giáo dục năm 2005 đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong việc thực
hiện quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Do những chồng chéo về pháp lý,
những quy định cụ thể hay còn gọi là những “giấy phép con” khiến kéo dài cơ chế xin
cho nên cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục đại học còn chưa
được thực hiện đầy đủ và thiếu đồng bộ.

Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã
hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao. Đây văn bản quan trọng
trong việc định hướng phát triển giáo dục đại học ngồi cơng lập từ năm 2005 đến nay.
Năm 2006, nước ta là thành viên của WTO, cam kết mở cửa cho giáo dục như là một
ngành dịch vụ. Điều này thể hiện rõ quan điểm phát triển giáo dục của Nhà nước ta mà
không phải nước nào cũng làm được. Năm 2009, Việt Nam cho phép thành lập cơ sở
giáo dục đại học 100% vốn nước ngoài.
Luật Giáo dục đại học năm 2012 ra đời đã đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ về đổi
mới trong phát triển giáo dục đại học. Theo đó, nhà nước chỉ quản lý vĩ mơ, xây dựng
và hồn thiện hệ thống chính sách phát triển giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại
học được được tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức, nhân
sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế và bảo đảm
chất lượng giáo dục đại học. Luật này hướng tới thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học,
ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, khuyến
khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước
ngồi hoạt động khơng vì lợi nhuận.
Điều 32 của Luật Giáo dục đại học năm 2012 nêu rõ cơ sở giáo dục đại học tự
chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài
293


sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại
học. Trường đại học được tự quyết định chương trình, tuyển sinh, in và cấp bằng. Tuy
nhiên, nhà nước vẫn giữ vai trị kiểm sốt về sứ mạng, vị trí, phân tầng, xếp hạng các
trường đại học. Cơ quan chủ quản (Bộ, Ủy ban…) của các trường đại học vẫn giữ vai
trò quyết định việc thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể trường, bổ hiệm hiệu
trưởng, quyết định biên chế, lương. Trên thực tế, số trường đại học cơng lập có Hội
đồng Trường chỉ chiếm tỷ lệ nhất định và đóng vai trị hình thức, hoạt động khơng
thường xun.
Ngày 09/8/2012 Chính phủ ra nghị quyết về Chương trình hành động của Chính

phủ thực hiện thơng báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại dịch vụ sự
nghiệp cơng” (Nghị quyết số 40/NQ-CP). Cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết số 40
vào lĩnh vực giáo dục đại học, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày
24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học
công lập giai đoạn 2014-2017. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học cơng lập khi cam
kết tự bảo đảm tồn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực
hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện ở các lĩnh vực về đào tạo và nghiên cứu
khoa học; tổ chức bộ máy, nhân sự; tài chính; chính sách học bổng, học phí đối với các
đối tượng chính sách và đầu tư mua sắm. Tính đến năm 2017, cả nước có 23 trường
đại học cơng lập tham gia thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 77.
Cụ thể, các trường đại học được tự chủ trên các lĩnh vực như sau:
Về tổ chức bộ máy: (1) Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ
nhiệm hoặc công nhận theo các tiêu chuẩn được quy định tại Luật Giáo dục đại học và
miễn nhiệm cũng theo quy định của Luật này; Nhiệm kỳ của hiệu trưởng là 05 năm;
Hiệu trưởng được bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại theo nhiệm kỳ và không quá hai nhiệm
kỳ liên tiếp. (2) Việc thành lập, giải thể các đơn vị thuộc trường đại học; cơ cấu tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị được thực hiện theo quy định của pháp
luật, của Điều lệ trường đại học và được cụ thể hóa trong quy chế tổ chức và hoạt động
của nhà trường. (3) Bộ GD&ĐT, Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước QĐ tiêu chí và
quy trình bổ nhiệm/miễn nhiệm giáo sư, phó giáo sư.
Về nhân sự: (1)Trường đại học tuyển dụng giảng viên theo nhu cầu của đơn vị
và định biên nhân lực. (2) Tiêu chuẩn và quy trình tuyển dụng, sa thải giảng viên theo
quy định tại Luật Giáo dục ĐH, các văn bản quy định của Bộ GD&ĐT, Bộ Nội vụ và
của cơ quan quản lý trực tiếp. (3) Quyết định mức lương theo thang bậc và theo mức
độ hoàn thành hoặc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo quy định của Bộ Nội vụ. (4)
Nhà nước quy định mức lương và thời gian nâng lương cho giảng viên theo ngạch, bậc
cố định. Các cơ sở giáo dục không được quyết định. (5) Các tiêu chuẩn bổ nhiệm các
chức vụ bằng hoặc cao hơn theo quy định Điều lệ trường đại học tại Quyết định số
70/2014/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Về tài chính: (1) Các trường quyết định mức học phí theo NĐ số 43/2006/NĐCP ngày 25/04/2006 của Chính phủ được thay bằng NĐ số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/02/2015. (2) Quyết định chi trả lương theo lương, ngạch, bậc; chức vụ và các khoản
phụ cấp do nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. (3) Quyết định các
khoản chi thường xuyên được giao tự chủ theo quy định. (4) Quyết định việc phân bổ
ngân sách chi hoạt động thường xuyên. (5) Tự chủ trong giao dịch tài chính.
Về học thuật: (1) Bộ chủ quản quy định chỉ tiêu tuyển sinh cho từng trường. (2)
Bộ GD&ĐT quy định như sau: Đại học Quốc gia, đại học vùng và một số trường (đạt
294


chuẩn quốc gia hoặc được giao quyền tự chủ mở ngành đào tạo) được tự chủ mở
ngành mới. Các cơ sở đào tạo còn lại phải được sự cho phép của Bộ GD&ĐT.(3) Các
cơ sở đào tạo được quyền quyết định về ngôn ngữ giảng dạy. (4) Các cơ sở đào tạo
được được quyền lựa chọn cơ quan kiểm định. (5) Bộ GD&ĐT quy định tổng số tín
chỉ tối thiểu, quy định một số môn học bắt buộc.
Chủ trương đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công
lập theo hướng tự chủ, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế là hết sức đúng đắn, nhằm
khuyến khích các trường chủ động khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực
để nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
Tự chủ đại học luôn đi đôi với trách nhiệm giải trình. Thuật ngữ “trách nhiệm
giải trình” được đề cập trong Điều lệ trường đại học năm 2014. Trách nhiệm giải trình
của trường đại học thể hiện qua các hoạt động như: (1) Báo cáo, công khai và giải
trình với cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan về các hoạt động của nhà
trường theo quy định của pháp luật; (2) Cam kết với cơ quan quản lý nhà nước và chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động để đạt được các cam kết.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của các trường đại học công lập nói chung,
các trường thí điểm tự chủ và các trường đại học ngồi cơng lập vẫn khơng đạt được
những mục tiêu như chủ trương đổi mới. Tiến độ thực hiện tự chủ của các trường đại
học công lập diễn ra rất chậm, bức tranh giáo dục đại học ở nước ta thời gian qua cho

thấy sự lúng túng trong quản lý nhà nước.
Nhằm đẩy mạnh đổi mới giáo dục đại học một cách mạnh mẽ hơn nữa để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 có
hiệu lực từ ngày 01/7/2019 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn.
Một số kết quả đạt được của việc thực hiện chủ trương, chính sách về tự chủ
đại ở Việt Nam
Từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã có sự điều chỉnh cơ cấu
nhân lực theo hướng gia tăng lực lượng lao động trực tiếp (giảng viên), giảm đội ngũ
lao động gián tiếp (chuyên viên và nhân viên). Tính đến tháng 7/2017, số lượng giảng
viên chiếm 63,12% tổng số lực lượng lao động của các trường, lao động gián tiếp
chiếm 29,78% . Tỷ lệ giảng viên có học hàm giáo sư và phó giáo sư chiếm khoảng 8,4%
tổng số giảng viên của các trường đại học đã tự chủ so với mức 6% trong toàn bộ hệ thống
giáo dục đại học. Số lượng cán bộ/giảng viên có học hàm giáo sư, phó giáo sư và học
vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể, số lượng cử nhân giảm
xuống so với giai đoạn trước tự chủ. Số lượng các bài báo khoa học, bằng sáng chế, đề
tài các cấp gia tăng đáng kể so với thời điểm trước khi tự chủ [2].
Tự chủ cho phép các trường đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp
cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy, thúc đẩy
các trường liên kết với thị trường lao động, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Liên kết phát triển các chương trình quốc tế đã giúp các trường tự chủ tiệm
cận với chất lượng đào tạo quốc tế thu hút người học theo định hướng cơng dân tồn
cầu. Từ đó làm tăng tính cạnh tranh trong hệ thống giáo dục đại học, mang lại những
kết quả nhất định trong những năm học tiếp theo.

295


Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến năm 2019 cả nước có 237
trường đại học, trong đó có 172 trường cơng lập (chiếm khoảng 72,5%) và 65 trường

ngồi cơng lập (chiếm khoảng 27,5%). Trong đó có 5 trường 100% vốn đầu tư nước
ngồi. Năm học 2018 – 2019 trên cả nước, tỷ lệ về quy mô người học thuộc khu vực
đại học công lập: sinh viên đại học chiếm 82,7%, học viên cao học chiếm 87,2%,
nghiên cứu sinh chiếm 97,8%. Số còn lại thuộc khu vực ngồi cơng lập. (Theo tính
tốn từ Bảng 1).
Tỷ lệ số sinh viên đại học ngồi cơng lập tăng so với thời kỳ đầu đổi mới, năm
học 2018-2019 chiếm 17,3%. Tuy nhiên, nếu so sánh trong tổng số sinh viên cả nước,
đây là tỷ lệ khá khiêm tốn. Trên thế giới, thường tỷ lệ sinh viên ngồi cơng lập thấp
thuộc về đa số các nước đang hoặc kém phát triển hoặc ở một số nước rất phát triển
mà ngân sách nhà nước tài trợ hầu như tồn bộ chi phí giáo dục các cấp học. Việt Nam
đạt ngưỡng thu nhập trung bình, là nền kinh tế mở, năng động, năm 2006 đã gia nhập
WTO, cam kết mở cửa cho lĩnh vực giáo dục như là một ngành dịch vụ. Tuy nhiên đến
nay hệ thống giáo dục đại học Việt Nam vẫn nặng về công lập với những số liệu
khiêm tốn của khu vực ngồi cơng lập như trên.
Bảng 1: Số liệu chung Giáo dục Đại học ở Việt Nam
Năm học 2017-2018
Ngồi
Tổng số Cơng lập
cơng lập

Năm học 2018-2019
Ngồi
Tổng số Cơng lập
cơng lập

Số trường
236
171
65
237

172
Quy mô sinh viên 1.707.025 1.439.495 267.530 1.526.111 1.261.529
đại học

65
264.582

Quy mô đào tạo
thạc sĩ, tiến sĩ
-Học viên cao học
-Nghiên cứu sinh

121.253

106.983

14.270

108.134

95.464

12.670

106.567
14.686

92.586
14.397


13.981
289

97.134
11.000

84.706
10.758

12.428
242

Giảng viên cơ hữu
-Giáo sư
-Phó giáo sư

74.991
729
4.538

59.232
529
3.796

15.759
200
742

73.312
519

4.139

56.985
379
3.525

16.327
140
614

Chia theo trình độ:
-Tiến sỹ
-Thạc sỹ
-Đại học
-Trình độ khác

20.198
45.266
9.495
32

17.003
36.224
5.989
16

3.195
9.042
3.506
16


21.106
44.705
7.489
12

17.336
35.123
4.516
10

3.770
9.582
2.973
2

Ghi chú: Số liệu khơng bao gồm các trường đại học, học viện thuộc khối An
ninh, Quốc phòng.
Nguồn: Bộ Giáo dục đào tạo; />
296


Một số bất cập và những vấn đề đặt ra đối với vấn đề tự chủ đại học và trách
nhiệm giải trình ở nước ta trong bối cảnh mới.
Đến thời điểm tháng 7/2017, khi mà thời hạn thí điểm tự chủ đại học theo tinh
thần Nghị quyết 77/NQ-CP sắp kết thúc, cơ quan quản lý Nhà nước vẫn chưa có
hướng dẫn cụ thể về việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn chính thức
thực hiện hoặc tiếp tục kéo dài thời gian thí điểm. Điều này gây khó khăn cho các
trường trong việc lập kế hoạch phát triển dài hạn, đầu tư vào cơ sở vật chất và con
người. [2]

Việc thực hiện thí điểm tự chủ chưa có tác động đến hệ thống giáo dục đại học
như mong muốn vì cịn một số hạn chế, khó khăn. Những hạn chế, bất cập một phần
do các yếu tố bên ngồi như cơ chế, chính sách, một phần do thời gian thực hiện thí
điểm tự chủ ngắn, các trường tham gia thí điểm chưa phát huy hết các các quyền tự
chủ của mình. Một phần quan trọng xuất phát từ chính các yếu tố nội tại bên trong của
các trường đại học thực hiện thí điểm cơ chế tự chủ như năng lực của nhà trường, tư
duy quản trị đại học của lãnh đạo, trình độ của cán bộ, giảng viên, tâm lý cầu an, thụ
động của các trường cũng như trách nhiệm giải trình thấp.
Một số trường tỏ ra miễn cưỡng, hình thức trong việc minh bạch hố các thơng
tin về tài chính, đào tạo, việc làm, kiểm định chất lượng giáo dục. Q trình kiểm tốn,
giám sát tài chính nội bộ chưa được thực hiện.
Vấn đề học phí thấp đang là khó khăn lớn của các trường đại học cơng lập.
Điều này có liên quan đến việc các trường cơng lập khó khăn trong giữ chân nhân lực
chất lượng cao và đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động giảng
dạy, nghiên cứu.
Mặc dù Luật Giáo dục Đại học sửa đổi và Nghị định 99 trao quyền tự chủ cho
các trường, nhưng các thủ tục đầu tư, mua sắm cơ sở vật chất vẫn còn nhiều vướng
mắc bởi các Luật khác ( Luật đấu thầu, Luật quản lý tài sản công, Luật Xây dựng...)
không theo kịp.
Một vấn đề khác là cơ chế “cơ quan chủ quản” với sự can thiệp vào các vấn đề
tự chủ đặc biệt là bộ máy quản lý và nhân sự và đầu tư của nhà trường. Ở chiều ngược
lại, văn bản hướng dẫn về tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học khơng có cơ
quan chủ quản vẫn chưa được ban hành. Điều này làm cho quyền tự chủ của các
trường đại học bị lu mờ. Tự chủ đại học là chìa khóa để thực hiện đổi mới giáo dục ở
nước ta nhưng thực tế diễn ra vẫn chưa được thực thi toàn diện mà có phần đang chậm lại.
Giáo dục đại học ở nước ta đã có những đổi mới nhất định, nhưng vẫn còn quá
nhiều bất cập, cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong bối cảnh đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó cốt lõi của sự đổi mới là ở khâu quản
lý nhà nước, đó là luật, cơ chế, chính sách từ Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
Nhiều thách thức đặt ra trong bối cảnh mới, cần có sự đổi mới trong tư duy quản lý để

thúc đẩy sự phát triển giáo dục đại học.
Theo tinh thần của Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018, các cơ sở giáo dục
đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn. Tuy nhiên, trong Luật này vẫn cịn
mục quy định trường đại học cơng lập và trường đại học tư thục, có nghĩa là vẫn có sự
phân biệt đối xử giữa các trường đại học.

297


4. Một số khuyến nghị chính sách phát triển giáo dục đại học trong điều
kiện đổi mới giáo dục
Để thực hiện đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học cần phải đổi mới từ tư duy.
Trước hết, cần đột phá đổi mới tư duy quản lý Nhà nước về giáo dục đại học, đẩy
mạnh thực hiện tự chủ đại học. Đổi mới công tác quản lý nhà nước trong điều kiện
thực hiện tự chủ đại học, đảm bảo chất lượng và quản lý có hiệu quả giáo dục đại học,
phù hợp với yêu cầu thực tế quản lý giáo dục đại học theo hướng giảm dần sự can
thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục đại học. Nhà
nước quản lý ở tầm vĩ mơ để điều tiết trong tồn hệ thống, các cơ sở giáo dục đại học
tự chủ hoạt động theo các điều kiện, tiêu chuẩn chất lượng do pháp luật quy định.
Cơ chế, chính sách, luật pháp, các văn bản pháp quy cần được sửa đổi
nhanh nhất. Mặc dù Luật giáo dục đại học đã được sửa đổi nhưng các văn bản hướng
dẫn cần được chỉnh sửa nhằm tạo hành lang pháp lý tốt cho các trường phát triển theo
chủ trương lớn của Đảng.
Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong hệ thống giáo dục đại
học. Để tạo mơi trường tự do cạnh tranh, bình đẳng giữa các trường nhằm phát triển
cung ứng dịch giáo dục đại học theo hướng nâng cao chất lượng.
Với mức độ tự chủ cao hơn của các trường đại học, Nhà nước chuyển từ mơ
hình kiểm sốt sang giám sát. Đổi mới tư duy, cơ chế quản lý, giám sát của các cơ
quan quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học. Chức năng cơ bản trong quản lý nhà
nước là định hướng phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý, thực hiện việc kiểm tra,

thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong lĩnh vực giáo dục đại học.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của việc trao quyền tự chủ cho các trường đại
học. Quyền tự chủ đại học không trao cho một cá nhân nào mà là trao cho tòan bộ nhà
trường bao gồm giảng viên, cán bộ, sinh viên mà Hội đồng trường là đại diện. Nhà
nước không can thiệp q sâu vào các cơng việc mang tính chun mơn của các
trường đại học. Cần đẩy nhanh q trình giao quyền tự chủ cho các trường đại học.
Nhà nước chỉ nên tập trug vào một số khâu, lĩnh vực như kiểm duyệt chất lượng về
chương trình, giảng viên, cơ sở vật chất và chất lượng đầu ra của người học. Muốn
vậy, cần nâng cao năng lực về thế chế, bộ máy và nhân sự ở khu vực nhà nước. Mở
rộng quyền tự chủ cần có sự đổi mới đồng bộ ở các khâu, tạo điều kiện để các trường
cạnh tranh bình đẳng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Cải cách các cơ chế tài chính cho hệ thống các trường đại học cần tập trung đẩy
mạnh thực hiện hóa xã hội hóa để thu hút đầu tư toàn xã hội đồng thời đổi mới cơ chế
phân bổ ngân sách đối với từng trường, nhóm sinh viên. Chuyển dần từ kênh hỗ trợ
trực tiếp cho các trường sang hỗ trợ học bổng, tín dụng sinh viên và tài trợ nghiên cứu
khoa học. Cần xây dựng tiêu chí cơ bản để phân bổ trên cơ sở khuyến khích các
trường có động cơ nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu mà không phân biệt
trường công, trường tư. Căn cứ vào mức độ các tiêu chí về chất lượng đào tạo, nghiên
cứu mà các trường đạt được để phâ bổ ngân sách.
Nhà nước cần xây dựng cơ chế tài chính sao cho việc cung cấp kinh phí cho các
trường đại học theo hình thức cạnh tranh, theo năng lực để đạt hiệu quả cao nhất. Trừ
một số trường, một số ngành đặc biệt đáp ứng yêu cầu về lâu dài cho xã hội mà nhà
nước cần cung cấp kinh phí theo cơ chế đặc biệt (đây là vai trị của nhà nước cần thiệp
298


để giảm thiểu những khiếm khuyết của thị trường như chỉ tập trung đào tạo theo nhu
cầu ngắn hạn của thị trường, xem nhẹ những ngành có lợi ích lâu dài cho xã hội). Cịn
lại, việc hỗ trợ chính sách đầu tư nghiên cứu, cho hạ tầng cơ sở phục vụ nghiên cứu

kinh phí nên căn cứ vào hiệu quả hoạt động thực tế, trường nào làm tốt sẽ được cấp
kinh phí nhiều hơn.
Chính sách hỗ trợ kinh phí nghiên cứu gắn với đào tạo sau đại học, chính sách
học bổng cho nghiên cứu sinh. Chính sách về tự chủ nhiều hơn trong chi kinh phí đề
tài cũng như các chương trình nghiên cứu.
Nhà nước cần tạo cơ chế thuận lợi để các trường đại học trong nước hợp tác với
các trường đại học lớn ở các nước về chương trình đào tạo liên kết hoặc theo các
phương thức hợp tác khác. Qua đó, giúp cho các trường đại học ở nước ta tiếp cận các
chương trình đào tạo, giáo trình, kỹ năng quản trị tiên tiến. Đồng thời, sinh viên có cơ
hội tiếp cận với các phương pháp học tập hiệu quả, với chương trình và kiến thức học
tập mang tính quốc tế.
Nhà nước cần trao quyền tự chủ để các trường tự xây dựng cơ chế tuyển dụng
và trả lương, thưởng cho giảng viên. Nên bãi bỏ chế độ biên chế suốt đời trong các
trường đại học công lập.
Quan điểm rõ ràng về vị trí của sinh viên trong lĩnh vực dịch vụ giáo dục đại
học. Mở rộng quyền chọn và nâng cao hiệu quả hỗ trợ tài chính cho sinh viên. Mở
rộng quyền chọn cho sinh viên về chuyển đổi trường, ngành. Nhà nước hỗ trợ, cấp học
bổng, tín dụng cho sinh viên mà khơng phân biệt trường công hay tư.
Tạo cơ chế thuận tiện cho sinh viên đánh giá chất lượng giảng viên, giáo trình
và chương trình học và coi đây như là một bên độc lập trong việc đánh giá.
Nhà nước cần có cơ chế để các trường tham gia kiểm định chất lượng và xếp
hạng bởi cơ quan xếp hạng độc lập. Cần có các quy định nhằm đảm bảo việc đánh giá
kiểm định thực sự khách quan và công bằng.Việc mở rộng quyền tự chủ cần đi kèm
với hệ thống đánh giá và xếp hạng chất lượng các trường đại học.
Kết luận
Vấn đề tự chủ đại học ở nước ta đã và đang có những chuyển biến nhất định.
Từ 20 năm trước, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như một trường đại học lớn,
chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước (thông qua Bộ GD&ĐT) về mọi mặt, đến nay
các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ nhiều hơn. Mặc dù nhà nước đã có
chính sách, tạo hành lang pháp lý cho tự chủ đại học nhưng do nhiều lý do như sự

thiếu nhất quán, chưa triệt trong các văn bản pháp quy và do sự e ngại, ỷ lại, chưa đủ
năng lực, chưa sẵn sàng của các trường nên thực tế các trường đại học vẫn chưa thực
sự phát huy quyền tự chủ. Trong bối cảnh mới, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tự chủ
đại học gắn với trách nhiệm giải trình của các trường đại học nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục đào tạo; />
2.

Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm
đổi mới cơ chế hoạt động giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014- 2017.

3.

Luật Giáo dục các năm 1998, 2005, 2009
299


4.

Luật Giáo dục Đại học năm 2012

5.

Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14)

5.

Điều lệ trường Đại học năm 2014


2.

Nghị quyết số 05/2005/Q-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.

3.

Nghị quyết số 77/NQ-CP gày 24/10/2014 về Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động
đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017.

4.

Phạm Thị Thanh Hải (2018), Tự chủ đại học trong bối cảnh đổi mới giáo dụcnghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia HN.

6.

Lâm Quang Thiệp (2020), Tự chủ đại học, Hội đồng trường và cơ quan chủ quản,
web: giaoduc.net.vn

300



×