Tải bản đầy đủ (.pdf) (569 trang)

Niên giám thống kê tỉnh nghệ an 2017 nghe an statistical yearbook 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.22 MB, 569 trang )

....


2


3


Chỉ đạo biên soạn:
NGUYỄN HỮU VĨNH
Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Nghệ An
Tham gia biên soạn:
PHÒNG THỐNG KÊ TỔNG HỢP
VÀ CÁC PHÒNG THỐNG KÊ NGHIỆP VỤ
Cục Thống kê tỉnh Nghệ An

4


LỜI NÓI ĐẦU
Niên giám thống kê là ấn phẩm được Cục Thống kê tỉnh Nghệ An biên
soạn và xuất bản hàng năm. Nội dung bao gồm những số liệu cơ bản phản
ánh thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.
Cuốn "Niên giám Thống kê tỉnh Nghệ An năm 2017" được biên soạn
lần này bao gồm hệ thống số liệu chính thức các năm 2010, 2014, 2015,
2016 và số sơ bộ 2017. Ngoài ra, số liệu của một số chỉ tiêu cũng được
chỉnh lý và chuẩn hoá trên cơ sở sử dụng kết quả các cuộc điều tra tiến
hành trong những năm qua. Các chỉ tiêu trong Niên giám được in bằng 2
thứ tiếng Việt - Anh.
Sử dụng Niên giám, các ký hiệu sau đây cần lưu ý:


(-): Khơng có hiện tượng phát sinh;
(…): Có phát sinh nhưng khơng thu thập được.
Trong q trình biên soạn khơng tránh khỏi những thiếu sót, Cục
Thống kê tỉnh Nghệ An chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp của bạn
đọc và mong tiếp tục nhận được nhiều ý kiến xây dựng để Niên giám Thống
kê tỉnh Nghệ An ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các đối tượng
sử dụng thông tin thống kê.
Trong khi sử dụng, nếu có vấn đề cần trao đổi xin vui lịng liên hệ
điện thoại số 02383 834 047 - Phòng Thống kê Tổng hợp - Cục Thống kê
tỉnh Nghệ An.
CỤC THỐNG KÊ TỈNH NGHỆ AN

5


FOREWORD
The Statistical Yearbook is a publication that are compiled and
published annually by Nghe An Statistics Office. Its contents include basic
data reflecting socio - economic situation of Nghe An province.
In this "Nghe An Statistical Yearbook 2017", the data system includes
the official data of year 2010, 2014, 2015, 2016 and preliminary data of
2017. Moreover, the data of some indicators are revised and standardized
based on the results of surveys in the last few years. All indicators in the
yearbook are written in bilingual by Vietnamese - English.
Special symbols uses in the book:
(-): No facts occurred;
(…): Facts occurred but no information.
It is impossible to avoid mistakes in the process of compilation.
Nghe An Statistics Office would like to express its sincere thank to all
readers for their suggestions and criticisms and hope to receive more

comments to improve Nghe An Statistics Yearbook in the next release and
better satisfy the demands of data users.
In the process of use, for further information, readers are welcome to
contact the telephone number 02383 834 047 - General division of Nghe An
Statistics Office.
NGHE AN STATISTICS OFFICE

6


MỤC LỤC - CONTENTS
Trang
Page

I.

Lời nói đầu
Foreword

5
6

Tổng quan kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An năm 2017
Overview on the economic and social situation of Nghe An province in 2017

9
16

Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu
Administrative unit, Land and Climate


23

II. Dân số và Lao động - Population and Employment

39

III. Tài khoản quốc gia, Ngân sách Nhà nước và Bảo hiểm
National accounts, State Budget and Insurance

81

IV. Đầu tư và Xây dựng - Investment and Construction

111

V. Doanh nghiệp, Hợp tác xã và Cơ sở SXKD cá thể
Enterprise, cooperative and Individual business establishment

143

VI. Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thuỷ sản
Agriculture, Forestry and Fishery

293

VII. Công nghiệp - Industry

403


VIII. Thương mại và Du lịch - Trade and Tourism

435

IX. Chỉ số giá - Price index

453

X. Vận tải, Bưu chính và Viễn thơng
Transport, Postal services and Telecommunications

477

XI. Giáo dục, đào tạo và Khoa học, công nghệ
Education, Training and science, technology

493

XII. Y tế, thể thao, mức sống dân cư, trật tự, an toàn xã hội, tư pháp
và môi trường
Health, sport, living standards, social order, safety and environment

535

7


8



TỔNG QUAN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH NGHỆ AN
NĂM 2017
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2017 theo giá so sánh 2010 ước
đạt 75.813,8 tỷ đồng, tăng 8,25% so với năm 2016, trong đó khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản ước đạt 15.954,6 tỷ đồng, tăng 4,33%; khu vực công nghiệp
- xây dựng 21.870,6 tỷ đồng, tăng 13,5%; khu vực dịch vụ 33.956,6 tỷ đồng,
tăng 7,14% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4.032 tỷ đồng, tăng 6,56%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm nay cao hơn tốc độ tăng của năm 2016 (6,98%).
Cả 3 khu vực của nền kinh tế đều có mức tăng cao hơn so với năm 2016.
Trong 8,25% mức tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản
đã đóng góp 0,95 điểm phần trăm; khu vực cơng nghiệp - xây dựng đóng góp
3,71 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 3,23 điểm phần trăm và thuế
sản phẩm đóng góp 0,36 điểm phần trăm.
Khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản với mức tăng 4,33%, trong đó,
ngành nơng nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 80% của tồn khu vực, tăng 2,78% do
sản phẩm nông nghiệp được mùa, hầu hết sản lượng của các cây trồng chủ yếu
đều tăng hơn cùng kỳ năm trước, thóc tăng 0,77%, rau tăng 3,12%, cam tăng
27,98%, chè búp tăng 9,50%... và ngành chăn nuôi phát triển mạnh, sản lượng
xuất chuồng tăng (trâu xuất chuồng tăng 6,22%, bò xuất chuồng tăng 7,03%, gà
xuất chuồng tăng 11,28%) và sản lượng sữa tươi tăng 9,51%, do đó giá trị tăng
thêm của ngành nơng nghiệp tăng khá. Ngành lâm nghiệp và thủy sản cũng có
mức tăng khá cao, trong đó, ngành lâm nghiệp tăng 6,91% do trong kỳ sản
lượng lâm sản khai thác tăng khá (sản lượng gỗ tăng 22,20%) so với năm trước
và ngành thủy sản tăng 14,44% do sản lượng khai thác tăng mạnh (sản lượng
thủy sản tăng 11,97%).
Khu vực công nghiệp - xây dựng giá trị tăng thêm tăng 13,5% so với cùng
kỳ năm trước, cao hơn mức tăng của năm 2016 (10,93%), trong đó ngành cơng
nghiệp tăng 15,89% cao hơn năm 2016 (10,96%) do trong kỳ có một số sản
phẩm mới như Tôn Hoa sen Đông Hồi, Xi măng Đô Lương nên giá trị tăng

thêm của ngành công nghiệp đạt khá. Cùng với ngành xây dựng phát triển khá
do trong kỳ đã đẩy nhanh tiến độ và khánh thành được nhiều dự án có quy mơ
lớn nên giá trị tăng thêm của ngành này đã tăng 10,12%.
9


Khu vực dịch vụ vẫn phát triển khá so với cùng kỳ năm trước do tổng mức
bán lẻ hàng hóa, luân chuyển hành khách, dịch vụ lưu trú và ăn uống đều tăng
khá, ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn, nợ xấu giảm, những người làm công
ăn lương được tăng lương cơ sở từ 01/7/2017. Do đó mức tăng của khu vực này
ước đạt 7,14% (năm 2016 tăng 5,62%). Trong đó giá trị tăng thêm của ngành
bán bn, bán lẻ tăng 8,26%; vận tải kho bãi tăng 8,36%; dịch vụ lưu trú và ăn
uống tăng 19,33%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,72%; hoạt động đảng,
quản lý nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội tăng 7,03%...
2. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh ước năm 2017 đạt 42.339 tỷ đồng,
tăng 2.536 tỷ đồng (tăng 6,37%) so với năm 2016, trong đó, thu nội địa đạt
11.056 tỷ đồng (chiếm 26,11% tổng thu), tăng 12,01%; Nhiều khoản thu đạt dự
toán và so với năm trước tăng khá như: thu từ doanh nghiệp, cá nhân sản xuất
kinh doanh hàng hóa và dịch vụ đạt 5.275 tỷ đồng (chiếm 12,46%), tăng 4,98%;
Các khoản thu về nhà đất đạt 3.124 tỷ đồng (chiếm 7,38%), tăng 23,04% so với
cùng kỳ năm trước.
Thu cân đối ngân sách đạt 12.592 tỷ đồng (chiếm 29,74%), tăng 14,59%; thu
bổ sung từ ngân sách cấp trên đạt 27.594 tỷ đồng (chiếm 65,17%), tăng 4,77%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2017 ước tính đạt 39.351
tỷ đồng, tăng 3,03% so với năm 2016, trong đó, chi đầu tư phát triển đạt 7.389
tỷ đồng (chiếm 18,7% tổng chi); chi thường xuyên đạt 16.400 tỷ đồng (chiếm
41,66%), tăng 8,3%. Chi thường xuyên chủ yếu tập trung chi lương và các
khoản có tính chất lương, đảm bảo hoạt động có tính chất thường xuyên của các
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và thực hiện chính sách an sinh xã hội cũng

như phát triển kinh tế. Các khoản chi quan trọng trong chi thường xuyên đều
bảo đảm như: Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo 6.830 tỷ đồng, tăng 10,15%; Chi
sự nghiệp kinh tế 1.548,0 tỷ đồng, tăng 17,7%; chi đảm bảo xã hội 1.245 tỷ
đồng, tăng 11,07% so với năm 2016.
3. Đầu tư
Ước tính tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2017 đạt 55.381 tỷ
đồng, tăng 14,85% (+7.160 tỷ đồng) so với năm trước. Trong đó, vốn nhà nước
ước đạt 14.219 tỷ đồng, giảm 7,84% (Trung ương quản lý giảm 13,15%); vốn
ngoài nhà nước 40.247 tỷ đồng, tăng 25,66%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
915 tỷ đồng, tăng 19,92%. Nếu phân theo khoản mục đầu tư thì vốn đầu tư xây
10


dựng cơ bản năm 2017 ước đạt 49.137 tỷ đồng, chiếm 88,73% tổng vốn, tăng
14,91% so với năm trước; vốn mua sắm tài sản cố định 2.436 tỷ đồng, tăng
55,45%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ 1.530 tỷ đồng. Nguyên nhân vốn
nhà nước giảm chủ yếu do nguồn vốn từ trái phiếu chính phủ đạt thấp.
Trong năm Tập đồn TKV - Hàn Quốc đã động thổ Dự án nhà máy sản
xuất container với tổng số vốn đầu tư 550 tỷ đồng, dự kiến mỗi năm cung cấp
6000 sản phẩm container, dự kiến hoàn thành tháng 6/2018. Tập đoàn Cienco4
phối hợp với Thị xã Thái Hòa tổ chức lễ khởi công Dự án Đầu tư xây dựng Cầu
Hiếu 2 và đường hai đầu cầu; Cầu Hiếu 2 có chiều dài 333,5 m, rộng 18 m,
được thiết kế vĩnh cửu; đường dẫn dài 664 m. Tổng vốn đầu tư 210,3 tỷ đồng,
thời gian hoàn thành sau 18 tháng.
Trong năm đã khánh thành một số cơng trình như Trạm nghiền xi măng
Nghi Thiết thuộc Công ty CP xi măng Sông Lam; tuyến đường N5, D4 Khu
kinh tế Đông Nam từ Quốc Lộ 7 đi Nghi Thiết; Tổ hợp khách sạn vui chơi giải
trí, biệt thự nghỉ dưỡng Vinpearl Cửa Hội; Cảng The Vissai.
Một số dự án lớn được cấp mới trong năm như: Dự án đầu tư KCN WHA
Hemaraj (2.056 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất gỗ ván sợi MDF (1.754 tỷ đồng);

Khu du lịch, dịch vụ hỗn hợp và nghỉ dưỡng Cầu Cau (1.532 tỷ đồng);...
4. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân CPI năm 2017 tăng 4,60% so với năm
2016. Một số nhóm tăng khá như: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 76,77% do
áp dụng thông tư 37/2015-TTLT-BYT-BTC về quy định thống nhất giá dịch vụ
khám, chữa bệnh; nhóm giáo dục tăng 5,16%; nhóm giao thơng tăng 6,48%;
hàng ăn uống ngồi gia đình tăng 2,58%...
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2017 tăng 1,18% so với cùng kỳ
năm trước. Trong 11 nhóm hàng và dịch vụ có 8 nhóm hàng có chỉ số tăng so
với cùng kỳ: may mặc, giày dép, mũ nón tăng 3,69%; giao thơng tăng 6,85%;
hàng hóa dịch vụ khác tăng 3,27%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,94%; thiết bị và
đồ dùng gia đình tăng 1,67%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,68%; thuốc và
dịch vụ y tế tăng 1,13%; giáo dục tăng 10,44%. Có 3 nhóm hàng có chỉ số
giảm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,74%; văn hóa, thể thao, giải trí giảm
1,71%; bưu chính viễn thơng giảm 0,49%.

11


5. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong năm 2017 đã cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho
1.777 doanh nghiệp, tăng 14,13% so với cùng kỳ, tổng số vốn các doanh nghiệp
đăng ký 9.920,9 tỷ đồng, tăng 35,86% so với cùng kỳ, bình quân khoảng 5,6 tỷ
đồng/doanh nghiệp. Năm 2017 có 603 doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất kinh
doanh; 277 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ giải thể; số doanh nghiệp trở lại
hoạt động 411 doanh nghiệp.
Số doanh nghiệp thực tế hoạt động tại thời điểm 31/12/2017 là 9.239 doanh
nghiệp, tăng 10,77% so với năm 2016, trong đó doanh nghiệp ngoài Nhà nước
tăng 10,95%; Riêng doanh nghiệp Nhà nước giảm 4,05% do cổ phần hóa các
doanh nghiệp khu vực này; Lao động trong các doanh nghiệp năm 2016 là

196.607 người, trong đó: doanh nghiệp nhà nước 20.471 người; doanh nghiệp
ngồi nhà nước 155.508 người; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
20.628 người.
6. Kết quả sản xuất, kinh doanh một số ngành, lĩnh vực
- Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Năm 2017, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện không được thuận
lợi, nhất là ảnh hưởng của cơn bão số 2, bão số 10 nhưng có sự chỉ đạo điều
hành tích cực của các cấp, các ngành, sự chủ động linh hoạt của người dân nên
sản xuất nông nghiệp vẫn đạt kết quả khá, nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch đề ra.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 2017 đạt 369.323 ha, giảm 0,21%
(-776 ha) so với năm 2016; cây lương thực gieo trồng ước đạt 244.658 ha, giảm
0,05% (-119 ha) bao gồm: Cây lúa diện tích gieo cấy đạt 188.654 ha, tăng
1,40% (+2.603 ha) so với năm 2016 (lúa đông xuân 92.128 ha, lúa hè thu
59.546 ha, lúa mùa 36.980 ha); Vụ đông xuân năng suất đạt 65,85 tạ/ha, tăng
0,16 tạ/ha so với cùng vụ năm ngoái; Vụ hè thu năng suất đạt 48,67 tạ/ha, giảm
0,77 tạ/ha; Vụ mùa năng suất đạt 32,08 tạ/ha, giảm 2,02 tạ/ha. Sản lượng thóc
năm 2017 đạt 1.015.096 tấn, tăng 0,77% (+7.709 tấn) so với năm trước.
Tổng đàn trâu có 282.942 con, giảm 2,72% (-7.921 con) so với cùng kỳ
năm trước, tổng đàn bị có 454.658 con, tăng 1,84% (+8.236 con), trong đó bị
sữa 64.420 con, tăng 3,25% (+2.027 con). Sản lượng xuất chuồng tăng khá, sản
lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 10.330 tấn, tăng 6,22% (+604 tấn) so với năm
trước; sản lượng bò xuất chuồng 16.370 tấn, tăng 7,03% (+1.076 tấn). Nguyên
nhân sản lượng xuất chuồng tăng khá do nhu cầu tiêu thụ thịt trâu, thịt bò tăng,
12


được giá, mặt khác sức kéo của trâu bò dần được thay thế bằng máy cày, bừa
nên chăn nuôi trâu, bị chủ yếu là chăn ni vỗ béo lấy thịt.
Cũng theo kết quả điều tra tổng đàn lợn đạt 889.332 con, giảm 0,67%
(-6.037 con) so với cùng kỳ năm trước. Đàn lợn năm nay giảm chủ yếu ở vùng

đồng bằng (-5,01%) do dịch bệnh trên đàn lợn thường hay xảy ra nên ảnh
hưởng đến tâm lý không muốn nuôi, giá con giống, thức ăn chăn nuôi tăng cao,
giá thịt lợn hơi không ổn định, dẫn đến lợi nhuận thấp hoặc lỗ, mặt khác nuôi
lợn ảnh hưởng đến môi trường nên tỷ lệ hộ ni ít hơn. Số lợn xuất chuồng đạt
2.133,62 nghìn con, giảm 0,78% so với năm 2016, tương đương sản lượng thịt
hơi xuất chuồng đạt 128.712 tấn, tăng 0,16%. Tổng đàn gia cầm (gà, vịt, ngan,
ngỗng) đạt 22.002 nghìn con, tăng 3,14% (+669 nghìn con) so với cùng kỳ năm
trước. Chăn nuôi gia cầm tăng khá do là loại dễ ni, chi phí thấp, bán được giá
và nhu cầu tiêu dùng nhiều.
Diện tích trồng rừng tập trung năm 2017 đạt 18.112 ha, giảm 7,2% so với
năm trước, diện tích trồng rừng giảm, do chịu ảnh hưởng của cơn bão số 2 và số
10 đã làm thiệt hại diện tích rừng trồng nguyên liệu, một số diện tích chuyển
đổi mục đích sử dụng (làm thủy điện, khu cơng nghiệp).
Sản lượng khai thác lâm sản năm 2017 đạt khá, gỗ các loại khai thác
516.315 m3, tăng 22,20% (+93.645 m3) so với năm trước, trong đó khai thác gỗ
nguyên liệu 262.943 m3, tăng 44,47%; sản lượng gỗ khai thác tăng mạnh chủ
yếu từ rừng trồng đã đến kỳ cho thu hoạch để làm ván ép, dăm gỗ, nguyên liệu
giấy và phục vụ nhu cầu xây dựng.
Ni trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2017 đạt 21.393 ha,
tăng 3,30% (+684 ha) so với năm trước. Trong đó diện tích ni trồng tơm
2.125 ha, tăng 192 ha; diện tích ni cá 19.051 ha, tăng 611 ha và thủy sản khác
217 ha.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2017 đạt 50.253 tấn, tăng 4,8% (+2.302
tấn) so với năm trước, trong đó cá đạt 39.789 tấn, tăng 3,31%; tôm 6.582 tấn,
tăng 8,31% (+505 tấn) và thủy sản khác 3.882 tấn, tăng 15,6%. Sản lượng thủy
sản khai thác ước đạt 132.474 tấn, tăng 14,96%, trong đó khai thác từ biển
126.425 tấn, tăng 15,66%. Tính chung tổng sản lượng ni trồng và khai thác
thủy sản năm 2017 đạt 182.727 tấn, tăng 11,97% (+19.537 tấn) so với năm 2016.
- Công nghiệp
Năm 2017 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 15,88% so với năm trước, bao

gồm cơng nghiệp khai khống tăng 7,10%; cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng
13


15,93%; cơng nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hịa khơng khí tăng 18,60%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý
rác thải, nước thải tăng 11,39%. Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2017 tăng
khá, vượt kế hoạch đề ra.
- Thương mại, vận tải và du lịch
Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước
tính đạt 69.388,4 tỷ đồng, tăng 12,4% so với năm trước. Xét theo ngành kinh
doanh, bán lẻ hàng hóa đạt 47.565,3 tỷ đồng, chiếm 68,55% tổng mức và tăng
11,4% so với năm 2016; dịch vụ lưu trú ăn uống đạt 6.845,6 tỷ đồng, chiếm
9,87% và tăng 23,3%; dịch vụ và du lịch đạt 14.977,5 tỷ đồng, chiếm 21,58%
và tăng 11,2%.
Vận tải hành khách năm 2017 đạt 76.366 nghìn lượt khách, tăng 11,01%
so với năm trước và 6.182.521 nghìn lượt khách.km, tăng 11,25%. Vận tải hàng
hóa năm 2017 đạt 64.753 nghìn tấn, tăng 13,46% so với năm trước và
2.783.284 nghìn tấn.km, tăng 9,46%.
7. Một số vấn đề xã hội
- Dân số, lao động và việc làm
Dân số trung bình năm 2017 của tỉnh đạt 3.131.292 người, tăng 25.775
người, tương đương tăng 0,83% so với năm 2016, bao gồm dân số thành thị
472.334 người, chiếm 15,08%, dân số nông thôn 2.658.958 người, chiếm
84,92%; dân số nam 1.562.534 người, chiếm 49,9%; dân số nữ 1.568.758 người,
chiếm 50,1%.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh năm 2017 là 1.879.010
người, tăng 175 người so với năm 2016. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong ngành kinh tế năm 2017 có 1.861.059 người, giảm 2.573 người so với
năm 2016, trong đó: Lao động trong nghề nơng, lâm nghiệp và thủy sản có

960,1 nghìn người, chiếm 51,59% tổng số lao động đang làm việc của cả tỉnh;
lao động làm việc trong nghề cơng nghiệp, xây dựng 416,2 nghìn người, chiếm
22,36%; lao động làm trong ngành dịch vụ 484,8 nghìn người, chiếm 26,05%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2017 là 1,1%,
trong đó khu vực thành thị 2,88%; khu vực nông thôn 0,83%. Tỷ lệ thiếu việc
làm của lực lượng lao động trong độ tuổi là 1,75%, trong đó khu vực thành thị
1,41%; khu vực nơng thôn 1,80%.
14


- Đời sống dân cư
Năm 2017, thu nhập bình quân đầu người một tháng của tỉnh đạt 2.035,2
nghìn đồng, tăng 11,12% so với năm 2016. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều
năm 2017: 8,81%.
Trong năm 2017, thiên tai làm 12 người chết và mất tích; 15 người bị
thương; 162 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 10.223 ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc
mái; 6.689,4 ha lúa, 12.542 ha hoa màu bị hư hỏng; Tổng giá trị thiệt hại do
thiên tai gây ra, ước tính 1.099,08 tỷ đồng.
Năm 2017, kinh tế - xã hội tỉnh nhà mặc dù vẫn cịn gặp nhiều khó khăn
nhưng vẫn có bước phát triển và giá cả của hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ
tăng vừa phải, nên nhìn chung đời sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện
hơn tuy vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là những người làm công ăn lương và
những người thu nhập thấp.
- Trật tự và an toàn xã hội
Trong năm 2017 đã xảy ra 380 vụ tai nạn giao thông, làm chết 178 người,
bị thương 385 người, ước giá trị thiệt hại 8.120 triệu đồng. So với năm 2016 tai
nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí, số vụ tai nạn giao thơng giảm 26,64% (-138
vụ), số người chết giảm 17,97% (-39 người), số người bị thương giảm 28,31%
(-152 người).
Cả năm xảy ra 39 vụ cháy, 1 vụ nổ làm 1 người chết, 2 người bị thương,

ước giá trị thiệt hại 14,36 tỷ đồng; 198 vụ vi phạm môi trường, đã xử phạt 4,3
tỷ đồng, chủ yếu khơng đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm, kinh doanh vận
chuyển hàng hóa khơng rõ nguồn gốc.
Khái quát lại: Năm 2017, tình hình nền kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An cịn
gặp nhiều khó khăn như kinh tế chưa phục hồi ổn định, thị trường tiêu thụ sản
phẩm chưa được mở rộng, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, lãi suất ổn định
nhưng sự hấp thu vốn của các doanh nghiệp còn hạn chế, mưa bão, dịch bệnh
xảy ra trên cây trồng, vật nuôi. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự điều
hành tích cực của Ủy ban nhân dân tỉnh cùng với sự cố gắng của cộng đồng
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà vẫn ổn định và
phát triển: tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 8,25%, chỉ số sản xuất công
nghiệp tăng 15,88%, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 11,38%, chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2017 tăng 4,60% so với năm 2016, tổng thu ngân sách nhà
nước trên địa bàn tăng 6,37% (trong đó thu nội địa tăng 12,01%), văn hóa xã
hội có chuyển biến tích cực, trật tự an toàn xã hội được giữ vững./.
15


OVERVIEW ON THE ECONOMIC AND SOCIAL SITUATION
OF NGHE AN PROVINCE IN 2017
1. Economic growth
The gross regional domestic product (GRDP) of the province in 2017
according to the constant 2010 prices is estimated at 75,813.8 billion VND,
increasing by 8.25% compared to 2016, in which the agriculture, forestry and
fisheries sector are estimated at 15,954.6 billion VND, increasing by 4.33%; the
industry and construction sector gained 21,870.6 billion VND, increasing by
13.5%; service sector gained 33,956.6 billion VND, increasing by 7.14% and
products taxes less subsidies on product was 4.032 billion VND, increasing by
6.56%. This year's economic growth rate is higher than that of 2016 (6.98%).
All three regions of the economy are higher growth than in 2016.

In the 8.25% growth rate, the agriculture, forestry and fishery sectors
contributed 0.95 percentage points; the industry - construction contributed 3.71
percentage points; the service sector contributed 3.23 percentage points and the
product tax contributed 0.36 percentage points.
The agriculture, forestry and fishery increased by 4.33%, in which, the
agriculture sector accounted for more than 80% of the whole region by 2,78%
due to the agricultural products are seasonally, most of the production of crops
mainly increased by 0.77% over the same period of last year, vegetable
increased by 3.12%, oranges increased by 27.98%, tea buds increased by 9.50%...
and the livestock sector thrived, the production of selling (buffalos increased by
6.22%, cows increased by 7.03%, chicken increased by 11.28%) and the
production of fresh milk increased by 9.51%, so that the added value of the
agricultural sector increased significantly. The forestry sector and fishery sector
also had a high growth rate, in which the forestry sector increased by 6.91% as
a result of the increase in forest product exploitation (wood production
increased by 22.20%) compared to previous year and fishery increased by
14.44% due to the exploitation output increased sharply (seafood production
increased by 11.97%).
The added value of the industry - construction sector has increased by
13.5% over the same period of last year, higher than the increase of 2016
(10.93%), in which the industry increased by 15.89% higher than 2016
(10.96%) due to some new products in the period such as Hoa Sen Corrugated
plate of Dong Hoi, Do Luong Cement, so the added value of the industry was
quite good. Together with the development of the construction industry, due to
it has accelerated the progress and inaugurated many large-scale projects, the
added value of this industry has increased 10.12%.
16


The service sector is still growing well over the same period of last year, as

the total retail sales, passenger traffic, accommodation and catering services
have increased significantly, banks are operating more efficiently, bad debts are
declining, the salaried employees are increased their basic salary from July 1,
2017. Therefore, the growth rate of this sector is estimated at 7.14% (it increased
by 5.62% in 2016). In which, the added value of wholesale and retail trade
increased by 8.26%; yard and transportation increased by 8.36%;
accommodation and food services increased by 19.33%; finance, banking,
insurance increased by 7.72%; activity of the Party, State management, sociopolitical organizations increased by 7.03%...
2. State budget revenues and expenditures
Total state budget revenue in 2017 was estimated at 42.339 billion VND,
increasing by 2,536 billion VND (increasing 6.37%) compared to 2016, of
which domestic revenue was 11,056 billion VND (accounted for 26.11% total
revenue), increased by 12.01%; Income from enterprises and individuals
engaged in production and trading of goods and services reached 5,275 billion
VND (accounted for 12.46%), increased by 4.98%; The revenue of housing and
land reached 3,124 billion VND (accounting for 7.38%), increased by 23.04%
over the same period of last year.
Revenues to balance the budget reached 12,592 billion VND (accounting
for 29.74%), increased by 14.59%; The additional revenue from the budget of
higher level reached 27.594 billion VND (accounting for 65.17%), increased
by 4.77%.
Total state budget expenditure in 2017 was estimated at 39,351 billion
VND, increased by 3.03% against 2016, of which development investment
expenditure was 7,389 billion VND (accounting for 18.7% of total
expenditure). Regular expenditures were 16,400 billion VND (+41.68%),
increased by 8.3%. The regular expenditures mainly focus on wages and
salaries, ensuring the regular operation of state agencies and public service
administrative units and the implementation of social security andeconomic
development policies. The significant expenses belonging to the regular
expenditures are as sure as: expenditure for education and training:

6,830 billion VND, increased by 10.15%; Economic service: 1,548.0 billion
VND, increased by 17.7%; Social security expenditure is 1,245 billion VND,
increased by 11.07% compared to 2016.
3. Investment
Total investment capital for development of the whole society in 2017 at
current prices reached 55,381 billion VND, increased by 14.85% (+7,160
billion VND) against 2016, including state sector reached 14,219 billion VND,
17


decreased by 7.84% (central decreased 13.15%); Non-state sector reached
40,247 billion VND, increased by 25.66%; Foreign invested sector reached 915
billion VND, increased by 19.92%. If divided by investment item, the capital
construction investment in 2017 was estimated at 49,137 billion VND,
accounting for 88.73% of total capital, increased by 14.91% over the previous
year; the costs for fixed capital procurement is 2,436 billion VND, increased by
55.45%; costs for major repair and upgrade of the fixed assets is 1,530 billion
VND. The decline in state capital was mainly due to the low level of
government bonds.
During the year, TKV Group - South Korea has commenced and broken
ground on the project of container factory with total investment capital of 550
billion VND, which is expected to supply 6,000 container products each year
and is expected to be completed in June 2018. Cienco4 has cooperated with
Thai Hoa town to commence the construction of Hieu 2 Bridge and two-way
bridge; Hieu 2 bridge has a length of 333.5 m, width 18m, designed eternally; a
track with 664m length. Total investment is 210.3 billion VND, completion
time is after 18 months.
In the year, some projects such as Nghi Thiet Cement Grinding Station of
Song Lam Cement JSC; Road N5, D4 South East Economic Zone from
Highway 7 to Nghi Thiet; Complex of hotels, entertainment resort, Vinpearl

Cua Hoi; Vissai Port were inaugurated.
Some new projects were granted in the year such as WHA Hemaraj
Industrial Park Investment Project (2,056 billion VND); MDF fiber board
production factory (1,754 billion VND); Cau Cau resort and mixed tourist,
service zone (1,532 billion VND);
4. Price index
The average consumer price index (CPI) in 2017 is 4.60% higher than in
2016. Some groups increased quite well, such as medicine and health services
increased by 76.77% due to the application of Circular 37/2015-TTLT-BYTBTC on regulations on uniform pricing of medical examination and treatment
services; the education group increased by 5.16%; transport increased by 6.48%;
Group of meals and drinking out increased 2.58%...
The consumer price index (CPI) in December 2017 up 1.18% over the
same period of last year. Within 11 commodity groups and services, there are 8
commodity groups with index increasing over the same period: garment,
footwear, hats increased 3.69%; transportation increased 6.85%; other goods
and services increased 3.27%; beverages and cigarettes increased 1.94%;
household appliances and equipment increased 1.67%; housing and construction
materials increased by 0.68%; medicine and medical services had an increase
of 1.13%; education increased by 10.44%. There are 3 commodity groups
18


with index decreased: Group of food and catering services decreased 1.74%;
culture, sports, entertainment decreased 1.71%; Posts and telecommunication
fell by 0.49%.
5. Business registration
1,777 new business registration certificates were issued for Enterprises and
Companies in 2017, increased by 14.13% against the same period of last year,
the capital registered by enterprises was 9,920.9 billion VND, increasing
35.86% over the same period, average of about 5.6 billion VND per enterprise.

There was 603 enterprises stopped operation in 2017; 277 enterprises stopped
operation for waiting for dissolution; 411 enterprises returned their operation.
There were 9,239 enterprises and Companies actually operating at the
periof of 31 December 2017, increasing 10.77% compared to 2016, in which
non-state enterprises increased by 10.95%; State owned enterprises decreased
by 4.05% due to equitization of enterprises in this area. The number of
employees in enterprises in 2016 is 196,607 persons, in which 20,471 persons
worked in the State enterprises; 155,508 persons in non-state enterprises;
20,628 persons in foreign-invested enterprises.
6. Results of production and business in some sectors
- The agriculture, forestry and fisheries
In 2017, although the agricultural production was facing many difficulties
due to the impact of severe weather, such as the impact of the storm No. 2 and
No. 10. However, with the active management of all levels, branches, active
mobilization of people so the results were still quite good.
Total planted area of annual crops in 2017 reached 369,323 hectares, down
0.21% (-776 hectares) compared to 2016; Food crop cultivation is estimated at
244,658 hectares, down 0.05% (-119 hectares), including: area of rice cultivation
of 188,654 hectares, increased by 1.40% (+2,603 hectares) compared with 2016
(92,128 hectares of winter-spring rice, 59,546 hectares of summer-autumn rice,
36,980 hectares of seasonal rice); Winter spring crop yields reached 65.85
quintals per hectare, increased by 0.16 quintals per hectare compared with the
same crop of last year; Summer-autumn crop yield reached by 48.67 quintals
per hectare, decreased 0.77 quintals per hectare; seasonal yield was 32.08
quintals/ha, decreased 2.02 quintals/ha. The paddy output in 2017 reached
1,015,096 tons, increased by 0.77% (+7,709 tons) over the previous year.
The total number of buffaloes was 282,942 heads, down by 2.72%
(-7,921 heads) over the same period of last year. The total number of cow was
454,658 heads, increased by 1.84% (+8,236 heads), in which 64,420 dairy
cows, increased by 3,25% (+2,027 heads). Sale quantity increased relatively

well, output of buffalo meat is 10,330 tons, increased by 6.22% (+604 tons)
over the previous year; Output of cows sold out 16,370 tons, increased by 7.03%
19


(+1,076 tons). The reason for relatively increase is because the demand for
buffalo meat and beef increased and had a good price, on the other hand the pull
of cattle gradually replaced with agrimotor, harrow so the cattle breeding
mainly fattened livestock for meat.
According to the survey results, there is total of pigs 889,332 heads,
decreased by 0.67% (-6,037 heads) over the same period of last year. This year,
the number of pigs decreased mainly in the delta (-5.01%) due to the disease in
pigs often occur. Therefore, it affects the psychology that they do not want to
raise livestock, the price of breeding animals, feeds is high. The price of hog is
unstable, resulting in low profit or loss, on the other hand, pig farming affects
the environment, so the rate of farming is less. The sales volume reached
2,133.62 thousand heads, decreasing 0.78% compared to 2016 equivalent to the
output of meat to reach 128,712 tons, increasing 0.16%. Total poultry (chicken,
duck, goose) reached 22,002 thousand heads, increasing 3.14% (+669 thousand
heads) over the same period of last year. Poultry raising is quite good as it is
easy to raise, low cost, high selling price and high demand.
Total area of afforestation in 2017 was 18,112 ha, decreasing by 7.2% as
compared to the previous year. The area of afforestation decreased due to the
impact of the storm No. 2 and No.10 had damaged the area of material
plantation, some areas used for conversion (hydropower, industrial zones).
Timber harvested in 2017 was 516,315 m3, increasing by 22.16%
(+93,645 m3) compared to last year, of which timber exploitation was 262,943 m3,
increasing by 44.47%; Timber production increased sharply from planted forest
to harvested for plywood, wood chips, pulp and paper materials for construction.
Aquaculture: The area for aquaculture in 2017 was 21,393 hectares,

increasing by 3.30% (+684 hectares) compared to the previous year. Of which
shrimp farming area was 2,125 ha, increasing by 192 ha; the area of fish raising
was 19,051 ha, increasing by 611 ha and other fishery was 217 ha.
Aquaculture production in 2017 reached 50,253 tons, up 4.8% (+2.302 tons)
over the previous year, of which fish reached 39,789 tons, up 3.31%; Shrimp
was 6,582 tons, increasing by 8.31% (+505 tons) and other seafood products
were 3,882 tons, increasing by 15.6%. Aquaculture production was estimated at
132,474 tons, increasing by 14.96%, in which extraction from the sea was
126,425 tons, increasing by 15.66%. Overall total of aquaculture production
and fishery exploitation in 2017 reached 182,727 tons, increasing by 11.97%
(+19,537 tons) compared to 2016.
- Industry
In 2017, the industrial production index increased 15.88% over the
previous year, including mining industry increased by 7.1%; processing and
20


manufacturing increased by 15.93%; manufacturing and distribution of electricity,
gas, hot water, steam and air conditioning rose by 18.6%; water supply,
management and treatment for waste, wastewater was 11.39%. The industrial
production index in 2017 increased quite well, exceeding the planned target.
- Trade, transport and tourism
The total retail sales of goods and services in 2017 were estimated at
69,388.4 billion VND, increased by 12.4% over the previous year. Considering
the sectors including business, retail sales of goods reached 47,565.3 billion
VND, accounting for 68.55% of the total level and an increase of 11.4%
compared to 2016; catering services reached 6,846 billion VND, accounting for
9.87% and an increase of 23.3%; services and tourism reached 14,977.5 billion
VND, accounting for 21.58% and increased by 11.2%.
Passenger transport in 2017 reached 76,366 thousand passengers,

increasing by 11.01% over the previous year and 6,182.5 thousand
passengers.km, increasing by 11.25%. Cargo transport in 2017 reached 64,753
thousand tons, increasing by 13.46% over the previous year and 2,783.3
thousand tons.km, increasing by 9.46%.
7. Some social issues
- Population, labor and employment
Average population in 2017 in Nghe An province reached 3,131,292
persons, increased by 25,775 persons, equivalent to 0.83% over 2016, including
urban population 472,334 persons, accounting for 15.08%; The rural population
was 2,658,958 persons, accounting for 84.92%; Male population was 1,562,534
persons, accounting for 49.9%; The female population was 1,568,758 persons,
accounting for 50.1%.
The number of laborers aged 15 or above in the province in 2017 is
1,879,010 persons, increasing by 175 persons compared to 2016. The number
of laborers aged 15 and over working in the economic sectors in 2017 was
1,861,059 persons, decreasing 2,573 persons compared to 2016, of which:
workers in agriculture, forestry and fisheries had 960.1 thousand persons
accounting for 51.59% of total working population of the whole province;
416.2 thousand persons employed in industry and construction, accounting for
22.36%; Employment in service sector was 484.8 thousand persons, accounting
for 26.05%.
The unemployment rate of the labor force in the age group in 2017 was
1.1%, of which the urban area was 2.88%; rural area 0.83%. The rate of
underemployment of the labor force in the age group was 1.75%, in which
urban areas 1.41%; rural area 1.80%.
21


- Residential life
In 2017, the monthly per capita income of the province reached 2,035.2

thousand VND, increasing by 11.12% compared to 2016. The rate of poor
households in multi-dimensional approach in 2017 was 8.81%.
There was 12 people killed and disappeared; 15 wounded; 162 collapsed,
washed-away houses; 10.223 flooded, landslided, unroofed, damaged houses;
6,689.4 ha of damaged rice and 12,542 ha of damaged crops in the natural
disasters in 2017. The total value of losses caused by natural disasters in 2017
was estimated at 1,099.08 billion VND.
In 2017, the socio-economic situation in the province was still facing many
difficulties. However, the development and price of almost all kinds of goods
and services have been increasing. In general, the living standards of all strata
of the population were improved, although they still faced many difficulties,
especially for wage earners and low income earners.
- Social order and safety
There were 380 traffic accidents in the province in 2017, killed 178
persons and injured 385 persons. Compared to 2016, traffic accidents reduced
all three criteria: the number of traffic accidents in 2017 decreased by 26.64%
(-138 cases); the number of dead was reduced by 17.97% (-39 persons), the
number of injured people decreased by 28.31% (-152 persons).
During the year, there were 39 fires, killed one person and injured two
people, estimated damage worth of 14.36 billion VND, 198 cases of
environmental violations, sanctioned 4.3 billion VND, mainly reason without
ensure the food hygiene and safety, business transportation of goods of
unknown origin.
Summary: The socio-economic situation in Nghe An province in 2017 was
still facing many difficulties as the economy had not recovered stably, the
market for consumption of products had not been expanded, the
competitiveness of commodities was low, the interest rates were stable but the
capital absorption of enterprises was limited, storms and epidemics occured on
plants and animals. However, under the leadership of the provincial Party
Committee, the active management of the provincial People's Committee,

together with the efforts of Enterprise community and the entire people, the
provincial socio-economy remained stable and developed: the economic growth
was estimated at 8.25%, industrial production index increased by 15.88%, total
retail sales increased by 11.38%, the average consumer price index in 2017
increased by 4.60% compared to 2016, total state budget revenue increased by
6.37% (of which domestic revenue increased by 12.01%), social culture
Positive changes, social order and security are maintained. The sociocultural
had positive changes, social order and safety was maintained./.
22


ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH, ĐẤT ĐAI VÀ KHÍ HẬU
ADMINISTRATIVE UNIT, LAND AND CLIMATE
Biểu
Table
1
2
3

4

5

6
7
8
9
10

Trang

Page
Số đơn vị hành chính có đến 31/12/2017 phân theo huyện/thị xã/thành phố
Number of administrative units as of 31 December 2017 by district

29

Hiện trạng sử dụng đất năm 2016 (Tính đến 01/01/2017)
Land use 2016 (As of 01/01/2017)

30

Hiện trạng sử dụng đất phân theo loại đất và phân theo huyện/thị xã/thành phố
(Tính đến 01/01/2017)
Land use by types of land and by district (As of 01/01/2017)

31

Cơ cấu đất sử dụng phân theo loại đất và phân theo huyện/thị xã/thành phố (Tính
đến 01/01/2017)
Structure of used land use by types of land and by district (As of 01/01/2017)

32

Chỉ số biến động diện tích đất năm 2016 so với năm 2015 phân theo loại đất
và phân theo huyện/thị xã/thành phố (Tính đến 01/01/2017)
Change in natural land area index in 2016 compared to 2015
by types of land and by district (As of 01/01/2017)

33


Nhiệt độ khơng khí trung bình tại trạm quan trắc năm 2017
Mean air temperature at stations in 2017

34

Số giờ nắng các tháng tại các trạm quan trắc năm 2017
Monthly sunshine duration at stations in 2017

35

Lượng mưa các tháng tại các trạm quan trắc năm 2017
Monthly rainfall at stations in 2017

36

Độ ẩm không khí trung bình các tháng tại các trạm quan trắc năm 2017
Monthly mean humidity at stations in 2017

37

Mực nước và lưu lượng một số sơng chính tại các trạm quan trắc
Water level and flow of some main rivers at the stations

38

Đơn vị hành chính, đất đai và khí hậu - Administrative unit, land and climate 23


24 Đơn vị hành chính, đất đai và khí hậu - Administrative unit, land and climate



GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
MỘT SỐ CHỈ TIÊU THỐNG KÊ ĐẤT ĐAI VÀ KHÍ HẬU
ĐẤT ĐAI
Tổng diện tích đất của đơn vị hành chính được xác định gồm tồn bộ
diện tích các loại đất trong phạm vi đường địa giới của từng đơn vị hành chính
đã được xác định theo quy định của pháp luật.
Đất sản xuất nông nghiệp là đất đang dùng vào sản xuất nông nghiệp, bao
gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.
Đất lâm nghiệp là đất đang có rừng (gồm rừng tự nhiên và rừng trồng) đạt
tiêu chuẩn rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và đất
mới được trồng rừng hoặc trồng kết hợp khoanh nuôi tự nhiên.
Đất chuyên dùng bao gồm đất trụ sở cơ quan nhà nước; đất xây dựng
cơng trình sự nghiệp; đất quốc phịng; đất an ninh; đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp; đất sử dụng vào mục đích cơng cộng.
Đất ở là đất để xây dựng nhà ở, xây dựng các cơng trình phục vụ cho đời
sống; đất vườn, ao gắn liền với nhà ở trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư
(kể cả trường hợp vườn, ao gắn liền với nhà ở riêng lẻ) đã được công nhận là
đất ở. Đất ở bao gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đơ thị.
Nhóm đất chưa sử dụng gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử
dụng, bao gồm đất bằng chưa sử dụng; đất đồi núi chưa sử dụng; núi đá khơng
có rừng cây.
KHÍ HẬU
Nhiệt độ khơng khí trung bình các tháng là số bình qn của nhiệt độ
khơng khí trung bình của các ngày trong tháng.
Nhiệt độ khơng khí trung bình năm là số bình quân của nhiệt độ khơng
khí trung bình các ngày trong năm.
• Nhiệt độ khơng khí được đo bằng nhiệt kế thường, nhiệt kế tối cao (thủy
ngân), nhiệt kế tối thấp (rượu) và nhiệt ký (bộ phận cảm ứng là một tấm lưỡng
kim) đặt trong lều khí tượng ở độ cao 2m cách mặt đất nơi khơng có trực xạ của

bức xạ mặt trời.
Đơn vị hành chính, đất đai và khí hậu - Administrative unit, land and climate

25


×