Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin và sự thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.28 KB, 21 trang )

Tiểu luận mơn Triết học

LỜI MỞ ĐẦU

Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được đề
cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn đề
về lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với nhau. Có
như vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt được hiệu
quả cao. Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm ngun tắc này thì kết quả thu
được sẽ không được như mong muốn.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để bảo
vệ nền độc lập của đất nước.Sau khi đất nước hồn tồn giải phóng, nhân dân ta
bắt tay vào khôi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình
này, chúng ta gặp vơ vàn khó khăn những cũng có những điều kiện thuận lợi
nhất định. Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có những đường
lối chiến lược phát triển đất nước khác nhau. Trải qua nhiều thay đổi về đường
lối quản lý, hiện nay nền kinh tế nước ta đã tìm được hướng đi đúng mặc dù vẫn
cịn khơng ít sai lầm cần phải sửa đổi. Đạt được những thành tựu như vậy là do
Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hoàn cảnh đất nước mà có được những lý
luận đúng đắn để đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội phù hợp.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực
tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác
động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH



Trang 1


Tiểu luận môn Triết học

lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa
chúng vì thế cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong
mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công
công cuộc đổi mới, đưa nước ta bước đầu thốt khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Trong công
cuộc đổi mới này, Đảng xác định trước hết phải đổi mới về tư duy, trong đó lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm
Chính vì thế, tơi đã chọn “Ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin và sự thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh” làm tên đề cho bài tiểu luận kết thúc mơn học của mình.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 2


Tiểu luận môn Triết học

PHẦN NỘI DUNG
1. Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong chủ nghĩa Mác – Lênin
– cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về biện chứng trong mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn.
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong

triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ: “Quan
điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
về nhận thức”. Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ
nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: “Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành
động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của đảng”. Chính
vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là cần
thiết.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của
chân lý; sự hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển
trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở,
động lực và mục đích của nhận thức. Chính trong q trình cải tạo thế giới mà
nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Thực tế lịch
sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ, phương tiện
tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và
tính qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách
quan. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm,
sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa... để
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 3


Tiểu luận môn Triết học


xây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho
nhận thức, cho lý luận. Khơng có thực tiễn thì khơng có nhận thức, khơng có lý
luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hơm nay hoặc trực tiếp, hoặc
gián tiếp đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là q trình
hồn thiện bản thân con người. Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng
lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay,
khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường ảnh hưởng của hoạt động
con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác
chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ
yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã
phát triển song song với việc người ta người đã học cải biến tự nhiên”.
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát
triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý
luận khơng có mục đích tự thân. Lý luận khoa học ra đời vì chúng cần thiết cho
hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách khác, thực tiễn là mục
đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực
tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần
chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn,
đáp ứng được những địi hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, cơng cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu
nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế thị trường, về
hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới,... Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề
trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực
tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH


Trang 4


Tiểu luận mơn Triết học

người có thể đạt tới chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn
đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý”.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là
đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân
lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện
chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối
là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý,
thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn
thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn khơng đứng im một chỗ mà biến đổi và
phát triển; thực tiễn là một qúa trình và được thực hiện bởi con người nên khơng
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến
những tri thức của con người trở thành những chân vĩnh viễn, tuyệt đích cuối
cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt
được trước kia và hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo.
Vì vậy, những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất
định phải tiếp tục được bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện
hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi
những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ
quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng
ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học
đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo

điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục
tiêu, phương hướng, biện pháp cho thực tiễn
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 5


Tiểu luận mơn Triết học

Coi trọng thực tiễn khơng có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò
của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể
dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng
lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm.
Lý luận có vai trị rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần
làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ
nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý
nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng
khơng thể có phong trào cách mạng”.
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật
chất". Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra
phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả
nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của
con ngươi nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mị mậm, tự phát. Sức mạnh
của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái quát thực tiễn cách mạng,
lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những
khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai
cấp cơng nhân có thể vạch ra đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp
hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi nước
một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví "khơng có lý luận thì lúng túng như

nhắm mắt mà đi".
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong
sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ khơng khoa học
nên lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Trong
khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận, V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý
luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động
cách mạng; và lý luậnkhông lại là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý
luậnln cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn
sinh động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 6


Tiểu luận mơn Triết học

cách học tập khơng đúng thì sẽ khơng có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý
luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận sng.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu
cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luậnvà thực tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái
quát thực tiễn cách mạng, lịch sự xã hội để xây dựng nên hệ thống lý luận của
mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát triển chủ nghĩa Mác
trong điều kiện thực tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc đó,
V.I.Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và Người nhận xét: “toàn bộ
quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”.
Như vậy, sức mạnh của lý luận là ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn,
được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.

2. Biện chứng trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, "lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội tích lũy lại trong quá
trình lịch sử". Và lý luận Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân thế giới. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ
Chí Minh nói một cách cụ thể: "lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh
nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm
thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế". Lý luận được khái quát
từ những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý luận là trình độ cao hơn về chất so với
kinh nghiệm.
Tri thức lý luận thể hiện trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó,
nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính qui luật của các
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 7


Tiểu luận môn Triết học

sự vật, hiện tượng khách quan. Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính
xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi
ứng dụng của nó cũng phổ biến hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen cũng từng chỉ rõ: “Sự quan sát theo kinh nghiệm
tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu và nhiệm vụ
của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện
tượng về sự vận động bên trong thực sự”.
Lý luận có vai trị rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp
phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận một khi

thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". V.I.Lênin khẳng
định: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách
mạng”1. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra
phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả
nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của
con người nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mị mẫm, tự phát. Đánh giá
vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận đối với thực tiễn, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
"Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mặt mà đi" 2 "Làm mà
khơng có lý luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay
vấp váp"3.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập từ tay Thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh đã cảnh báo rằng, do "kém về lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận
suông "mà nhiều cán bộ, đảng viên của ta mắc phải bệnh chủ quan. Cũng vì kém
lý luận mà cán bộ ta "gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho
đúng, xử trí cho khéo. Khơng biết nhận rõ điều kiện hồn cảnh khách quan, ý
mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại"4.
1

V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.30.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.233-234.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.47.
4
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.47.
2

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 8



Tiểu luận mơn Triết học

Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với
thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn
luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế” 1. Dù nói “đi đôi”, “gắn
liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý
luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận sng” 2. Như vậy, thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực
tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không
mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh
thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo
điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn,
bổ sung cho nhau. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập
không đúng thì sẽ khơng có kết quả” 3. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta
cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế. Nhấn mạnh vai trò của lý luận
trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người mở đầu một câu theo ý của Lê nin
“Không có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động…Chỉ có theo
lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới mới làm nổi trách nhiệm
cách mệnh tiên phong”. Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều
ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người ln phê phán kiểu
học học thuộc lịng chủ nghĩa Mác- Lênin, “học sách vở Mác – Lênin nhưng
không học tinh thần Mác – Lênin”4. Đó là học theo kiểu “mượn những lời của
Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn” 5. Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ
nghĩa Mác – Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề

1

Hồ Chí Minh (2011),
Hồ Chí Minh (2011),
3
Hồ Chí Minh (2011),
4
Hồ Chí Minh (2011),
5
Hồ Chí Minh (2011),
2

Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.292.
Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.496.
Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.496.
Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.292.
Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.247.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 9


Tiểu luận môn Triết học

thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” 6. “Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”1.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của nhận

thức luận macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Theo quan điểm của C.Mác: Ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực
hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy. Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
của mỗi dân tộc. Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong
lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ
lượng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là
lý luận chân chính". Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh ln ln lấy thực tiễn,
lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành
động, lấy mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý
luận, để lựa chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà
tránh được giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng
tránh để không rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vơ sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết
cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước
mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam: từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức
là từ độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong
sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độ không khoa học
nên lý luận có nguy cơ xa rời cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Vì vậy,
6
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.497.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.292.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH


Trang 10


Tiểu luận mơn Triết học

trong khi nhấn mạnh vai trị quan trọng của lý luận, Hồ Chí Minh cũng đồng
thời nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ: lý luận cách mạng khơng phải là
giáo điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động cách mạng; và "…lý luận khơng
phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ
sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động" 1. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ: "Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không
đúng thì sẽ khơng có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần
nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông"2. Lý luận mà xa rời thực tiễn, tách khỏi thực tiễn thì
sớm muộn sẽ trở nên giáo điều, sách vở, là lý luận suông. Đồng thời, thực tiễn
mà không được hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng bởi lý luận thì dễ trở thành "mảnh
đất màu mỡ" cho bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nảy sinh và phát triển.
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi
thường, hạ thấp vai trò lý luận lý luận khoa học. Chúng ta đi lên từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ dân trí thấp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho bệnh kinh nghiệm
nảy sinh. Hồ Chí Minh nhận xét rằng, trong Đảng ta cịn "có những cán bộ,
những đảng viên cũ, được làm việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó
rất qúi báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh coi khinh lý luận. Họ
quên rằng: kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận
mà thơi, chỉ thiên về một mặt mà thơi. Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận thì
cũng như một mắt sáng, một mắt mờ" 3. Bởi vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải ra sức học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận cũng như chun
mơn, nghiệp vụ.


1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.496.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.496.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.234.
2

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 11


Tiểu luận môn Triết học

Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa vai trị của lý
luận, tách lý luận với thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Biểu hiện của
bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo kiểu “tầm
chương trích cú”, hiểu lý luận một cách trừu tượng mà khơng thâu tóm được
thực chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về diễn giải những gì đã có sách
vở mà khơng bám sát thực tiễn, thoát ly đời sống hiện thực; tiếp nhận những
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học một cách đơn giản, phiến diện mang
tính chất cảm tính, từ đó, biến chúng trở thành những tín điều. Hồ Chí Minh phê
phán kiểu học thuộc lòng sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin mà không học tinh
thần Mác - Lênin. Theo Hồ Chí Minh, học tập lý luận Mác - Lênin là "phải học
tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học lập trường, quan điểm, phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng
của chúng ta". Như vậy, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin để nắm được linh

hồn sống, bản chất khoa học và cách mạng của nó chứ khơng phải đơn thuần là
học thuộc lịng, học vẹt. Đồng thời, "chúng ta phải ln ln nhấn mạnh nguyên
tắc lý luận phải liên hệ với thực tế" để chống chủ nghĩa giáo điều.
Một biểu hiện khác của bệnh giáo điều là áp dụng một cách rập khn,
máy móc kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước khác; là áp dụng
kinh nghiệm tiến hành chiến tranh cách mạng vào quá trình xây dựng kinh tế
trong thời kỳ hịa bình; áp dụng máy móc kinh nghiệm của địa phương này vào
địa phương khác,... ở đây, bệnh giáo điều thể hiện thành "giáo điều kinh
nghiệm". Hồ Chí Minh lưu ý rằng, "không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc
mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm
trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều".
Khắc phục bệnh giáo điều là công việc khó khăn, phức tạp, thường xun,
liên tục vì căn bệnh này ln có nguy cơ tái phát dưới những hình thức mới.
Hiện nay khơng ít người có lối tư duy bắt chước, sao chép, rập khuôn những
"cái mới" từ nước ngoài, bất chấp thực tế lịch sử, truyền thống, văn hóa và hồn
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 12


Tiểu luận môn Triết học

cảnh cụ thể của dân tộc ta. Sao chép cái mới như vậy không phải là đổi mới tư
duy, mà là "bệnh giáo điều mới" và nó cũng tai hại khơng kém các biểu hiện của
chủ nghĩa giáo điều từ trước đến nay.
Sự yếu kém và coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông là nguyên nhân làm
cho con người mắc cả bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Vì vậy,
theo Hồ Chí Minh phải chấm dứt được "bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý
luận, bệnh lý luận suông" trong cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc
rằng, biện pháp cơ bản để khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm và bệnh

giáo điều là phải thường xuyên quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn.
3. Vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng đã thu được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, tính chất khó khăn và phức tạp
của sự nghiệp đổi mới cũng như chiều sâu và tầm cỡ của nó đang đặt ra rất
nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn, địi hỏi phải được giải quyết. Có thể
nói, chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà thực tiễn đang đặt ra rất nhiều vấn
đề đòi hỏi lý luận luận phải lí giải một cách thấu đáo, có căn cứ khoa học; hơn
nữa lý luận phải mở đường cho thực tiễn phát triển. Chưa bao giờ lý luận lại cần
thiết và có tầm quan trọng lớn lao như hiện nay.
Lý luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp đổi mới nói riêng, đối với
tồn bộ vận mệnh của chủ nghĩa xã hội nói chung. Giai đoạn hiện nay của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi “Đảng phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo và góp phần phát triển lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
khơng ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để
đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của lý luận, trong những năm
qua, cơng tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta hết sức chú trọng. Chúng ta coi đổi
mới tư duy lý luận là khâu đột phá, là điều kiện và tiền đề cho những đổi mới
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 13


Tiểu luận môn Triết học

trong hoạt động thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đặt
ra vấn đề phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, coi đó là điểm khởi
đầu để đi đến xác định đường lối đổi mới của Đảng. Nhiệm vụ đổi mới tư duy

đòi hỏi chúng ta phải không ngừng bồi dưỡng tư duy lý luận để khắc phục tư
duy giáo điều, tư duy kinh nghiệm, những căn bệnh làm cho chúng ta không
nhận thức được đúng những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay, các Đại hội đại biểu tồn quốc của
Đảng và các Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương đều đặt ra nhiều yêu cầu
mới đối với cơng tác lý luận. Đảng ta đã có hai nghị quyết riêng về công tác tư
tưởng, lý luận: Nghị quyết 01 - NQ/TW ngày 28 tháng 3 năm 1992 của Bộ
Chính trị khóa VII "Về cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện nay" và Nghị quyết
16 - NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX (Hội nghị Trung ương 5) "Về nhiệm vụ chủ yếu của cơng tác tư tưởng, lý
luận trong tình hìmh mới".
Đánh giá về tình hình tư tưởng, lý luận, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ ra rằng: từ Đại hội lần thứ VI của
Đảng đến nay, trình độ lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt. Đảng đã
không ngừng đổi mới phương pháp tư duy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mở ra bước chuyển biến quan
trọng trong trong tư duy lý luận. "Tuy nhiên, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái qt chung,
cịn khơng ít vấn đề cụ thể được đặt ra từ thực tiễn cha có lời giải đáp hoặc giải
đáp chưa có sức thuyết phục; nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cịn giản đơn, hiểu biết về chủ nghĩa tư
bản hiện đại chưa sâu sắc, có mặt cịn lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn
tới tầm biện chứng, cịn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm
hoặc thực dụng". "Cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong hơn 15 năm qua đã
đạt được thành tựu quan trọng: những kết quả nghiên cứu lý luận gắn với tổng
kết thực tiễn đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 14



Tiểu luận môn Triết học

phát triển đường lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống nhất trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội"1. Tuy vậy, công tác tư tưởng, lý luận, cơng
tác tổ chức, cán bộ nhìn chung vẫn có nhiều yếu kém, bất cập. "Cơng tác lý luận
chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng"(16), chưa
làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc
hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí
về chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập nêu trên là do "Đảng ta chưa
đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý
luận trong giai đoạn mới. Chưa xây dựng được quy chế bảo đảm dân chủ, phát
huy tự do tư tưởng trong hoạt động lý luận và công tác tư tưởng. Chậm tăng
cường, đổi mới công tác xây dựng đội ngũ làm công tác tư tưởng, lý luận. Cơ sở
vật chất kỹ thuật, điều kiện làm việc ở nhiều cơ quan, đơn vị làm công tác tư
tưởng, lý luận cịn nhiều thiếu thốn, lạc hậu"(28).
Vì vậy, Hội nghị chỉ ra rằng, để đẩy nhanh quá trình đổi mới đất nước,
chúng ta cần phải tăng cường công tác lý luận. Công tác lý luận phải theo kịp sự
phát triển và yêu cầu của cách mạng; góp phần khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực
trong xã hội, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên của công tác lý luận trong thời kỳ đổi mới.
Qua ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, nhiều vấn đề nóng hổi, quan trọng nảy sinh từ thực
tiễn đã được quan tâm nghiên cứu và đã có những kết luận kịp thời như: phát

1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.133.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 15


Tiểu luận môn Triết học

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hồn thiện hệ
thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới, phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực,... Có những vấn đề được tổ chức nghiên cứu
và thảo luận sổi trong mọi tầng lớp nhân dân như vấn đề đảng viên làm kinh tế
tư bản tư nhân.
Để việc tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận có hiệu quả, cần phải bảo
đảm được các yêu cầu cơ bản sau:
- Tính khách quan. Trong tổng kết thực tiễn và nghiên cứ lý luận địi phải
có thái độ trung thực, tránh tổng kết thực tiễn theo kiểu "tô hồng" hoặc "bôi
đen"; không được lấy ý đồ sắn có để áp đặt cho việc tổng kết thực tiễn; không
được lấy việc tổng kết thực tiễn để chứng minh cho suy nghĩ chủ quan cá nhân.
- Tính khái quát cao. Khi phân tích, đánh giá, khái quát thục tiễn phải rút
ra được những kết luận có tính quy luật, chỉ ra được các mối liên hệ có tính bản
chất. Đó là những kết luận có tính phổ biến, tính điển hình và phải có giá trị thực
tiễn cao.
- Tính mục đích đúng đắn. Cơng tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận cần phải đạt những yêu cầu như: phát triển lý luận, sớm làm rõ và kết luận

những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể, bổ sung,
phát triển đường lối, chính sách của Đảng. Nói một cách khác, tổng kết thực tiễn
và nghiên cứu lý luận phải hướng tới mục đích xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới.
Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng, việc nâng cao vai trò của lý luận
cần tập trung vào mấy nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, lý luận phải thật sự làm cơ sở khoa học cho sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Lý luận phải cung cấp được những căn cứ khoa
học đáng tin cậy cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 16


Tiểu luận môn Triết học

sách của Nhà nước. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước cần coi trọng lý luận, coi
trọng đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ khoa học, biết sử dụng họ vào công tác
nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, đường lối, chính sách.
Thứ hai, lý luận phải làm cơ sở khoa học cho việc định hướng xã hội chủ
nghĩa của công cuộc đổi mới đất nước. Đổi mới là tất yếu, nhưng đổi mới không
phải là từ bỏ con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, mà ngược lại phải khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi, hình thức, biện pháp
phù hợp. Lý luận cần làm sáng tỏ, giải đáp đúng đắn những vấn đề quan trọng
hiện nay như: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội; đổi mới và
hồn thiện hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới;
kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, lý luận phải dự báo xu hướng vận động của sự nghiệp đổi mới. Sự
nghiệp đổi mới của chúng ta diễn ra trong điều kiện khó khăn, phức tạp, trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường. Lý luận phải biết dự kiến nhiều
khả năng có thể xảy ra để có những biện pháp tác động, các phương án giải
quyết chủ động, thích hợp nhất.
Thứ tư, lý luận phải định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng
viên. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, làm "kim chỉ nam" cho hoạt
động của cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện hiện nay, nếu khơng có sự định
hướng đúng đắn của lý luận khoa học thì hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng
viên sẽ trở nên mò mẫm, mất phương hướng.
Để lý luận phát huy vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán
bộ, đảng viên, chúng ta phải thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận; kết hợp
nghiên cứu lý luận với tuyên truyền, giáo dục, học tập lý luận; vận dụng lý luận
để giải đáp những vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 17


Tiểu luận môn Triết học

KẾT LUẬN
Con đường đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay có
những đặc điểm những vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh
điểm xuất phát kinh tế của nước ta thấp lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa và khơng cịn các nước xã hội chủ nghĩa đi trước
giúp đỡ do điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách căn bản; phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đang lâm vào thoái trào tạm thời. Mặc dù vậy,
sau cơn biến động lớn về chính trị trên thế giới, các đảng cộng sản cầm quyền ở

Trung Quốc, Cuba... vẫn tiếp tục lãnh đạo cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội,
song mỗi nước lại có hồn cảnh rất khác nhau, những bước đi và cách làm khác
nhau. Việc học tập và vận dụng kinh nghiệm tốt, những mơ hình hiệu quả trong
cơng cuộc xây dựng đất nước của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới giúp
chúng ta đỡ mò mẫm, đỡ phạm những sai lầm của người đi trước. Nói cách
khác, những tìm kiếm, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường và các
giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước có thể là kinh nghiệm tham
khảo chứ khơng thể áp dụng máy móc, rập khn.
Trong ngun tắc lý luận liên hệ với thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
nhấn mạnh rằng “phải có sự kết hợp biện chứng giữa việc chú trọng đặc điểm
riêng của dân tộc với giá trị phổ biến trong kinh nghiệm các nước”. Đồng thời,
việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội là cơng việc rất khó khăn. Mơ hình xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử, càng chưa có khi chúng ta xây dựng một
nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Đây là một vấn đề rất mới mẻ.
Xuất phát từ đặc điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta đã nêu: chúng ta phải tiếp tục nâng
cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc
đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tịi bước đi, hình thức và biện
pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 18


Tiểu luận môn Triết học

nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới. Các đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng.
Tóm lại, trước những thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập, trước
thực trạng trình độ lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, cần thấm
nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học lý luận, gắn lý luận với thực
tiễn, học “để làm việc, làm người, làm cán bộ” (9/1949). Bởi vậy, mỗi cán bộ,
đảng viên, mỗi người phải coi trọng và quán triệt nguyên tắc “học đi đôi với
hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Đồng thời, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động;
và hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ thấm nhuần
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cịn phải dám nghĩ, dám
làm, để lãnh đạo quần chúng, biến đường lối của Đảng thành kết quả và thành
công trong cuộc sống./.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 19


Tiểu luận môn Triết học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS, TS. Lê Văn Yên, “Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên đường
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2009.
2. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2009.


3. C.Mác và Ph.Ăngnghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội,
1994, t. 20, tr. 270
4. C.Mác và Ph.Ăngnghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội,
1995, t.3, tr. 9-10.
5. V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxxcơva. 1978, tr 30.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.
234
7. V.I.Lênin: Toàn tập, T 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1978, t.45, tr 428.
8. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
9. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà
xuất bản CTQG, H, 2002, tr.132.
10. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nhà
xuất bản CTQG, H, 2002, tr.132.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI,
Nhà xuất bản CTQG, H, 2001, 2006, 2011.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 20


Tiểu luận môn Triết học

MỤC LỤC

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Lớp: K30-CTXH

Trang 21




×