Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Bài viết
Huỳnh Thế Du 1
LIỆU GDP BÌNH QUÂN NGƯỜI
CỦA VIỆT NAM CÓ THỂ ĐUỔI
KỊP GDP BÌNH QUÂN NGƯỜI
CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN?
*
Huỳnh Thế Du
Tính đến cuối năm 2004, GDP bình quân
người của Việt Nam khoảng 500 USD
1
,
của Hoa Kỳ là 38.000 USD, Nhật Bản là
33.000 USD. Điều này có nghĩa là GDP
bình quân người của Việt Nam chỉ bằng
1/76 lần của Hoa Kỳ và 1/66 lần Nhật Bản.
Giả sử trong vòng 50 tới, GDP bình quân
người của Việt Nam tăng trưởng là 6%
năm, của Hoa Kỳ và Nhật Bản là 1,5%, thì
vào năm 2050, GDP bình quân người của
Việt Nam sẽ khoảng 10.000 USD, trong
khi của Hoa Kỳ và Nhật Bản lần lượt là
80.000 USD và 70.000 USD. Nếu tốc độ
tăng trưởng trong vòng 100 năm tới, của
Việt Nam là 4%, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn
giữ mức tăng nêu trên thì vào năm 2100,
các con số nêu trên lần lượt là 25.000
USD, 170.000 USD, 150.000 USD, gấp
gần 7 và 6 lần Việt Nam. Một khoảng cách
khá xa về tương đối, nhưng vô cùng lớn về
tuyệt đối. Theo cách tính này, để có được
GDP bình quân người bằng Hoa Kỳ trong
vòng 100 năm tới (trong điều kiện Hoa Kỳ
duy trì được mứ
c tăng trưởng 1,5% năm)
thì mức tăng trưởng GDP bình quân người
của Việt Nam phải là 6%. Điều này gần
như không tưởng vì một quốc gia rất khó
có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao như
vậy trong suốt một thế kỷ. Nói như vậy thì
dù có cố gắng đến đâu, Việt Nam cũng
không bao giờ có thể có mức GDP bình
quân người bằng Hoa Kỳ hay Nhật Bản?
Để có th
ể trả lời câu hỏi này, chúng ta
cùng xem xét điều gì đã xảy ra đối với
Nhật Bản và điều gì sắp xảy ra đối với
Trung Quốc?
*
Các số liệu của bài viết này chủ yếu lấy từ cơ sở
dữ liệu World Development Indicators 2004 của
WB và Niên giám thống kế năm 2004 của Tổng
cục Thống kế Việt Nam và một số nguồn khác.
1
Để đơn giản, các số liệu trong bài viết được làm
tròn đến mức chính xác cần thiết.
Trường hợp Nhật Bản
Vào năm 1960, GDP bình quân người của
Nhật Bản chỉ là 480 USD (tương đương
Việt Nam bây giờ), trong khi của Hoa Kỳ
là 2.879 USD, gấp 6 lần Nhật Bản. Nhưng
chỉ sau hơn 4 thập kỷ, GDP bình quân
người của Nhật Bản đã là 33.000 USD,
bằng 87% GDP bình quân người của Hoa
Kỳ, có nghĩa là Nhật Bản hầu như đã đuổi
kịp Hoa Kỳ. Nếu sử dụng các con số này
để tính toán thì tốc độc tăng GDP bình
quân danh nghĩa (kể cả lạm phát) trong
vòng 44 năm qua của hai quốc gia này lần
lượt là 10,5% và 6,3% năm. Thực tế, tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân người của
Nhật Bản trong thời gian kể trên chỉ là
4,1% và 2,1%. Nếu cộng với mức tăng chỉ
số khử lạm phát (GDP deflator) bình quân
trong thời gian qua của Nhật Bản và Hoa
Kỳ lần lượt là 3,5% và 4% thì GDP bình
quân người tính theo giá hiện tại của Nhật
Bản và Hoa Kỳ USD lần lượt là 11.000
USD và 38.000 USD.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân và
GDP bình quân thực tế của Nhật Bản và
Hoa Kỳ giai đoạn 1960-2002 được minh
hoạ theo đồ thị dưới đây.
0
10,000
20,000
30,000
40,000
1960 1970 1980 1990 2000 2002
0%
2%
4%
6%
8%
10%
United States Japan
United States Japan
Như vậy điều gì đã xảy ra, phải chăng là
do thống kế sai số liệu. Việc thống kê sai
là điều hoàn toàn không xảy ra. Có chăng
chỉ là một sai số chấp nhận được và có ý
nghĩa về mặt thống kê. Yếu tố làm cho
GDP bình quân người của Nhật Bản tính
bằng USD tăng lên gần 3 lần là do tỷ giá
giữa đồng Yên Nhật và đồng Đô la Mỹ. Ở
thời điểm năm 1960, 1 Đô la Mỹ đổi được
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Bài viết
Huỳnh Thế Du 2
360 Yên Nhật, nhưng đến cuối năm 2004,
một Đô la Mỹ chỉ đổi được khoảng 125
Yên Nhật. Điều này có nghĩa là giá trị
đồng tiền của Nhật Bản so với đồng Đô la
Mỹ đã tăng lên gần 3 lần và nếu nhân với
11.000 USD thì ta được con số khớp đúng
với số liệu thống kê.
Trường hợp Trung Quốc
Vào năm 1960, GDP bình quân người của
Trung Quốc là 97 USD. Sau 44 năm, nếu
căn cứ vào tốc độ tăng trưởng bình quân là
5,64% và chỉ số khử lạm phát bình quân
3,1% thì GDP của Trung Quốc tính theo
Đô la Mỹ phải là 3.871 USD. Nhưng số
liệu thực tế chỉ vào khoảng 1.200 USD.
Như vậy, ngược với đồng Yên Nhật, đồng
Nhân dân tệ so với đồng Đô la Mỹ bị mất
giá hơn 3 lần. Số liệu thống kê cũng cho
chúng ta con số này. Năm 1960, 1 Đô la
Mỹ chỉ đổi được 2,46 Nhân dân tệ, nhưng
đến cuối năm 2004, 1 Đô la Mỹ đổi được
tới 8,28 Nhân dân tệ.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân và
GDP bình quân thực tế của Trung Quốc
giai đoạn 1960-2002 được minh hoạ theo
đồ thị dưới đây.
0
500
1,000
1,500
1960 1970 1980 1990 2000 2002
-2%
0%
2%
4%
6%
GDP binh quan nguoi
Toc đo tang truong GDP BQ nguoi
Đó là qua khứ, hiện nay, đồng Nhân dân tệ
đang lấy lại giá trị của nó so với những
đồng tiền mạnh khác, nhất là đồng Đô la
Mỹ
2
. Giả sử trong vòng 20 năm tới, Trung
Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
2
Đồng Nhân dân tệ đang có giá thấp hơn thực tế là
điều đang xảy ra. Các nước phát triển đang gây áp
lực để Trung Quốc nâng giá trị đồng tiền của họ
là 7% (trong khi nền kinh tế Hoa Kỳ tăng
trưởng bình quân 2% năm) và đồng Nhân
dân tệ tăng giá gấp đôi, nghĩa là vào năm
2025, một Đô la Mỹ chỉ đổi được 4 Nhân
dân tệ, thì lúc đó, GDP và GDP bình quân
người của Trung Quốc sẽ là 11.000 tỷ
USD và 8.000 USD, trong khi của Hoa Kỳ
là 16.000 tỷ USD và 55.000 USD. Khoảng
cách GDP bình quân người còn khá xa,
nhưng tổng sản phẩm quốc gia đã được rút
ngắn rất nhiều.
Nếu trong 50 năm tới, Trung quốc và Hoa
Kỳ cùng duy trì được tố độ tăng trưởng
bình quân như hơn 4 thập kỷ qua và đồng
Nhân dân tệ trở về với giá trị của nó vào
năm 1960 thì vào năm 2050, GDP và GDP
bình quân người của Trung quốc lần lượt
là 57.000 tỷ USD và 47.000 USD, trong
khi hai con số này của Hoa Kỳ lần lượt sẽ
là 30.000 tỷ USD và 97.000 USD. Điều
này có nghĩa là GDP của Trung Quốc gấp
hai lần của Hoa Kỳ, trong khi GDP bình
quân người của Hoa Kỳ gấp hai lần của
Trung Quốc. Khi đó Trung Quốc sẽ là nền
kinh tế hàng đầu thế giới về quy mô
3
.
Từ hai nền kinh tế Nhật Bản và Trung
Quốc cho thấy, nếu tính GDP bình quân
người theo đồng Đô la Mỹ, thì nó không
chỉ đơn thuần phụ thuộc vào tốc độ tăng
trưởng hàng năm mà còn phụ thuộc vào tỷ
giá đồng tiền nước đó so với đồng Đô la
Mỹ. Nói cách khác, nó phụ thuộc vào
tương quan sức mạnh kinh tế của nước đó
so với Hoa Kỳ.
Bây giờ chúng ta có thể trở lại trường hợp
Việt Nam.
Trường hợp Việt Nam
Đối với Việt Nam, vào năm 1985, GDP
bình quân người tính theo đồng Đô la Mỹ
là 240 USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong 20 năm qua xấp xỉ 5%. Sau 20 năm,
GDP bình quân người của Việt Nam chỉ
3
Giáo sư Dwight Perkins Đại học Harvard Hoa Kỳ
đã chia xẻ vấn đề này trong nội dung giảng tại
Trường Fulbright về nền kinh tế Trung Quốc.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Bài viết
Huỳnh Thế Du 3
vào khoảng 500 USD (tăng 2,1 lần). Trong
khi GDP bình quân người của Việt Nam
tính bằng VNĐ năm 1985 chỉ xấp xỉ 2.000
VNĐ, nhưng đến cuối năm 2004, con số
này xấp xỉ 8.000.000 VNĐ, tăng 800 lần.
Nhưng nếu tính theo giá cố định năm 1994
thì GDP bình quân người năm 1985 xấp xỉ
1.800.000 VNĐ, năm 2004 tương đương
4.400.000 VNĐ, tăng 2,45 lần. Nguyên
nhân có sự khác biệt lớn như vậy là do chỉ
số khử lạm phát của Việt Nam bình quân
trong thời gian qua năm qua là rất cao, lên
đến19,1%, sau 20 năm, chỉ số khử lạm
phát ở Việt Nam tăng 1527 lần - một con
số khổng lồ. Chính điều này đã làm cho tỷ
giá giữa đồng Việt Nam và đồng Đô la Mỹ
thay đổi rất lớn. Năm 1985, 8,3 đồng Việt
Nam đổi được 1 Đô la Mỹ. Nhưng vào
năm 2004, 15.750 đồng Việt Nam mới đổi
được 1 Đô la Mỹ. Đồng Việt Nam mất giá
so với đồng Đô la Mỹ 1.898 lần. Nếu bỏ
qua cú sốc trong những năm 1985, chỉ tính
từ năm 1990 đến nay, thì tốc độ tăng chỉ số
khử lạm phát khoảng 12% (tăng 5,5 lần),
đồng Việt Nam chỉ giảm giá gần 2,5 lần so
với đồng USD.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân và
GDP bình quân thực tế của Việt Nam giai
đoạn 1985-2002 được minh hoạ theo đồ
thị dưới đây.
0
100
200
300
400
500
1985 1990 1995 2000 2002
0%
1%
2%
3%
4%
5%
GDP binh quan nguoi
Toc đo tang truong GDP BQ nguoi
Những con số nêu trên chỉ là vấn đề quá
khứ ở Việt Nam. Chúng ta quay trở lại chủ
đề chính của bài viết là xem xét liệu Việt
Nam có thể đuổi kịp các nước giàu?
Qua trường hợp của Nhật Bản và Trung
Quốc, cho chúng ta có một cái nhìn lạc
quan rằng, trong vòng 50-100 năm nữa,
nếu có chính sách tốt thì Việt Nam hoàn
toàn có thể đuổi kịp các nước giàu với tốc
độ tăng trưởng vào khoảng 4%-5% năm.
Khi đó sức mạnh của nền kinh tế Việt
Nam gia tăng, giả sử giá trị của đồng Việt
Nam tăng 5 lần so với đồng Đô la Mỹ thì
sau 100 năm nữa, GDP bình quân người
của Việt Nam vào khoảng 125.000 USD
so với gần 170.000 USD của Hoa Kỳ.
Như vậy, khoảng cách giữa nước phát
triển và nước đang phát triển là rất lớn,
nhưng nếu có chính sách hợp lý thì trong
vòng 50-100 năm thì nước đang phát triển
có thể thu hẹp khoảng cách cách với các
nước phát triển. Ngược lại, nếu không có
chính sách hợp lý (làm cho tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhỏ hơn các nước phát
triển) thì khoảng cách này sẽ là một sự gia
tăng theo cấp số nhân, tạo ra khoảng cách
ngày càng lớn.
Cùng quan điểm này, giáo sư Ari Kokko
của đại học Stockhom Thuỵ Điển cho
rằng, để trở thành một nước giàu, một
quốc gia không nhất thiết phải có tốc độ
tăng trưởng cao mà phải đạt được sự phát
triển bền vững trong dài hạn. Như trường
hợp của Thuỵ Điển, trong thời kỳ 1870-
1970, kinh tế nước này tăng trưởng bình
quân chỉ ở mức chưa đến 2%. Nhưng sau
100 năm, Thuỵ Điển đã trở thành một
trong những nước giàu, có mức GDP bình
quân người cao nhất thế giới. So sánh con
đường của Thuỵ Điển và con đường của
một số nước Đông Á, cho thấy có vẻ như
Thuỵ Điển đã có một bước đi hợp lý hơn
vì họ không phải dừng lại để sửa sai.
Để kết thúc bài viết này, quan điểm của
người viết cho rằng, Việt nam hoàn toàn
có thể đuổi kịp các nướ
c giàu với điều kiện
phải có sự phát triển bền vững trong dài
mà không phải là một sự tăng trưởng
nhanh, nóng trong ngắn hạn với những
trục trặc có thể xảy ra trong dài hạn.
22/02/2005