Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.38 KB, 81 trang )







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt
động du lịch ở Việt Nam giai đoạn
2001 – 2010








1
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu

1
CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM
3
I. Quá trình hình thành và phát triển Du lịch Việt Nam
3


1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của ngành du lịch Việt Nam 3
2. Vị trí và vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 4
II. Tiềm năng du lịch Việt Nam
6
1. Tài nguyên du lịch về mặt thiên nhiên 7
2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn 10
3. Các di sản thế giới tại Việt Nam 16

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH DU L
ỊCH VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
19
I. Sản phẩm du lịch và chiến lược về du lịch
19
1. Sản phẩm du lịch 19
2. Những chủ trương phát triển du lịch và kết quả thu được trong
giai đoạn 1990 đến nay 28
II. Thực trạng của ngành du lịch
34
1. Hiện trạng các cơ sở lưu trú 34
2. Nhân lực phục vụ phát triển ngành du lịch 35
3. Kết cấu hạ tầng phục vụ du l
ịch 36
4. Một số thành tựu cơ bản của ngành du lịch 39
5. Những yếu kém tồn tại và nguyên nhân 42

2
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
48

I. Triển vọng phát triển du lịch Việt Nam
48
1. Triển vọng phát triển du lịch trên thế giới và khu vực 48
2. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển du lịch Việt
Nam
49
3. Chiến lược phát triển Du lịch đến năm 2010 51
II. Các giải pháp phát triển du lịch đế
n năm 2010
57
1. Các giải pháp cấp nhà nước 58
2. Các giải pháp của ngành du lịch 69

Kết luận
73
Tài liệu tham khảo










3
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch đã trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, góp phần quan trọng cho thu nhập kinh tế quốc dân, giải quyết nạn

thất nghiệp đang có chiều hướng gia tăng. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch
thế giới (WTO), trong những năm tới, viễn cảnh của ngành Du lịch toàn cầu
nhìn chung rất khả quan. WTO đã dự báo, đến năm 2010, lượng khách du lịch
quốc tế trên thế giới sẽ đạt gần một tỷ lượt người, thu nhập xã hội từ du lịch đạt
khoảng 900 tỷ USD và sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc trực tiếp, chủ
yếu ở Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á (ASEAN) có
vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% du lịch của toàn khu
vực.
Trong những năm qua, hoạt động Du lịch Việt Nam đ
ã có nhiều khởi sắc
và đạt được những tiến bộ vững chắc. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm
2002, đã có khoảng 2,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam, tăng hơn 11% so với
năm 2001. Lượng khách nội địa cũng tăng đáng kể với 11.180.000 lượt khách,
tăng 4,7% so với 2001. Tổng doanh thu từ du lịch trong năm 2002 của Việt Nam
đạt 21.630 tỷ đồng, tăng 5%. Việt Nam v
ẫn được nhiều báo chí quốc tế bình
chọn là "Điểm đến an toàn và thân thiện nhất".
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, ngành du lịch của
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế trước những yêu cầu mới khi hội nhập du lịch
thế giới và khu vực là: trình độ phát triển còn thấp so với các ngành du lịch của
nhiều nước trên thế giới và khu vực, trong khi tiềm năng về du l
ịch ở nước ta lại
rất lớn và phong phú hơn so với một số nước khác.
Trước sự cạnh tranh khốc liệt của một số nước trong khu vực có ngành du
lịch hình thành lâu đời hơn và phát triển ở mức độ cao hơn, cùng với những diễn
biến không ngừng của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, vấn đề đặt ra cho
ngành du lịch là phải xác định những điều ki
ện và những giải pháp chủ yếu để
tập trung mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài nước phục vụ cho yêu cầu phát


4
triển ngành này thành một ngành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, việc nghiên
cứu những vấn đề thực tiễn phát triển du lịch là điều có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn "Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh
hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010" làm đề tài khoá luận tốt
nghiệp của mình.
Mục đích của luận vă
n này là tập hợp một cách có hệ thống những thông
tin về điều kiện phát triển du lịch của nước ta, thực trạng của ngành du lịch
trong những năm gần đây, những chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm thúc
đẩy sự phát triển của ngành kinh tế quan trọng này trong những năm tới, nhằm
làm nổi bật hai vấn đề cơ bản là triển vọng và giải pháp đẩ
y mạnh hoạt động du
lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
Kết cấu của luận văn gồm ba phần chính như sau:
Chương I: Đôi nét khái quát về du lịch Việt Nam
Chương II: Thực trạng ngành du lịch Việt Nam thời gian qua
Chương III: Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt
Nam đến năm 2010.

5
CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM
1. Sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam
Ngành du lịch Việt Nam đã có quá trình hoạt động từ những năm 1960.
Nghị định số 26/CP ngày 9/7/1960 của Chính Phủ về “Thành lập Công ty du
lịch Việt Nam” là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Ngày
27/6/ 1978, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 282/NQ-QHK6
phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam. Căn cứ vào nghị
quyết

trên, ngày 23/1/1979, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 32/CP
qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan này, trong đó
nêu rõ: “Tổng cục Du lịch Việt Nam là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ,
có trách nhiệm thống nhất quản lý Du lịch trong cả nước”. Năm 1990, cơ quan
Tổng cục Du lịch Việt Nam được sát nhập vào Bộ Văn hoá, nă
m 1991 được
chuyển sang Bộ Thương mại và được tách ra độc lập tháng 10/1992.
Từ một tổ chức duy nhất là Tổng cục Du lịch quản lý và tham gia tổ chức
hoạt động du lịch ngày đầu thành lập, cho đến nay, toàn bộ 61 tỉnh thành đều có
Sở du lịch hoặc Sở Thương mại - Du lịch làm công tác quản lý du lịch. Nhằm
ưu tiên cho phát triển du lịch, năm 1999 Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo về
phát triển du lịch do một phó thủ tướng đứng đầu.
Từ ngày đầu thành lập, Công ty Du lịch Việt Nam với cơ sở vật chất là
một vài khách sạn qui mô 20 phòng, đội ngũ cán bộ và nhân viên là 112 người
chưa bao giờ được đào tạo về quản lý và kinh doanh du lịch. Đến nay, trên phạm
vi toàn quốc hiện nay có khoảng 1.000 doanh nghiệp du lịch kinh doanh lữ
hành, khách sạn, vận chuyển với khoảng 3.050 cơ sở lưu trú và 72,5 nghìn
phòng. S
ố lao động trực tiếp trong ngành du lịch hiện nay lên đến 150 nghìn
người.

6
Trong thời kỳ 1960 - 1975, hoạt động du lịch chủ yếu phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Nhà nước, hoạt động kinh doanh du lịch chiếm một tỷ lệ
không đáng kể.
Sau năm 1975 cho đến cuối những năm 1980, về cơ bản, hoạt động kinh
doanh du lịch vẫn chưa phát triển. Đối tượng phục vụ chính của ngành vẫn là
cán bộ của Đảng và Nhà nước, một bộ
phận công nhân, viên chức và các đoàn
khách từ các nước Đông Âu và Liên Xô cũ.

Kể từ những năm đầu của thập kỷ 90, do nền kinh tế đất nước có những
chuyển biến nhất định và đời sống nhân dân được cải thiện nên nhu cầu về du
lịch trong nước tăng lên. Cùng với những chính sách mở cửa, lượng khách du
lịch quốc tế đến Việt Nam ngày một tăng, nhiều dự
án phát triển du lịch được
đầu tư bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Đặc biệt trong những năm gần
đây, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng không ngừng đã mang lại cho ngân
sách nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Đối tượng khách quốc tế đến từ
khắp các châu lục, nhiều quốc gia khác nhau với mục đích cũng hết sức đa dạng.
2. Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam
2.1. Vị trí
Ở nhiều nước trên thế giới, du lịch ngày càng có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới đưa ra dự đoán: Thế kỷ 21
là thế kỷ của ngành dịch vụ trong đó du lịch có vai trò hết sức to lớn. Thế giới
ngày nay đang diễn ra hai xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lớn.
Xu hướng chuyển từ khu vực sản xuất vật ch
ất sang khu vực dịch vụ diễn
ra chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến nhất. Trong nền kinh tế của những
nước này, tỷ trọng khu vực dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã
vượt hơn so với tỷ trọng khu vực sản xuất vật chất, thu hút phần lớn số lao động
xã hội. Xu hướng này gắn liền với những đ
iều kiện của một nền kinh tế phát

7
triển cao nhất là do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ
phát triển như vũ bão trên toàn cầu.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá diễn ra
ở các nước đang phát triển. Trọng tâm của sự chuyển dịch ở đây chủ yếu là
trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, theo hướng tăng sản xuất công nghiệp so

với nông nghiệp. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên thế giới hiện nay là: giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao
trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của
đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành
kinh tế khác, du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầ
u tư vào du lịch tương
đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải... thu hồi vốn lại nhanh,
kỹ thuật cũng không quá phức tạp.
Trong thời đại hiện nay, ngành du lịch nhìn chung có sự phát triển nhanh
hơn việc xuất khẩu, về giá trị ngành du lịch thế giới chỉ sau xuất khẩu dầu lửa và
ôtô.
2.2. Vai trò của ngành du lịch
a. Về kinh tế
Du lịch phát triển làm tăng thu ngân sách Nhà nước, góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho xã hội, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế có liên quan phát
triển theo. Ở nhiều nước trên thế giới, ngành du lịch phát triển (du lịch quốc tế)
đem lại cho ngân sách nguồn thu ngoại tệ lớn. Du lịch là một trong những nguồn
thu quan trọng hàng đầu ở nhiều nước.
Du lịch không những góp phần tích cực giải quyết việ
c làm cho người lao
động, theo ước tính của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) trung bình một phòng
khách sạn (1-5 sao) tạo ra 1,3 chỗ làm trực tiếp và 5 chỗ làm gián tiếp, mà còn
là nhân tố thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như giao thông, xây dựng,
bưu điện, hàng không, nông nghiệp, ngân hàng... Ngoài ra, du lịch còn giúp cho

8
du khách biết được tiềm năng kinh tế của các nước, từ đó xây dựng kế hoạch
phát triển các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước.
b. Về chính trị
Du lịch (du lịch quốc tế) giúp cho du khách hiểu biết về đất nước, con

người, lịch sử truyền thống dân tộc cũng như nền kinh tế, văn hoá - xã hội của
các nước mà họ đến thăm. Trên cơ
sở đó, du lịch đã tăng cường tình đoàn kết
giữa các dân tộc vì hoà bình và sự phồn vinh của nhân loại.
c. Về văn hoá - xã hội
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trên thế giới có nền văn hoá truyền thống
riêng, được tích tụ từ lâu đời. Du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc
giao lưu nền văn hoá với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hoá nhân
lo
ại càng kích thích phát triển những nét độc đáo của văn hoá dân tộc và văn hoá
dân tộc phát triển góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá nhân loại.
Trong nền kinh tế thị trường, du lịch đóng vai trò quan trọng. Nhiều nước
đã đạt được kết quả to lớn về kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, khi đánh giá vai trò
của một ngành kinh tế trong nền kinh tế thị trường của một đất nước nhất là một
ngành có tính dị
ch vụ như du lịch, thì cần phải xem xét trên mặt kinh tế và xã
hội, bởi vì du lịch có mặt "tích cực" và mặt "không tích cực". Đó là, việc kinh
doanh du lịch (đặc biệt là du lịch quốc tế) nếu phát triển không đúng hướng có
thể gây ra "ô nhiễm" môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội, do yếu tố "tiêu cực"
từ bên ngoài thâm nhập vào. Do vậy, cần phải có chiến lược phát triển du lịch
đúng hướng, vừa phát triển kinh t
ế, vừa giữ gìn cảnh quan môi trường, lành mạnh
quan hệ xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
II. TIỀM NĂNG DU LỊCH VIỆT NAM
Tiềm năng du lịch của nước ta phong phú, da dạng có sức thu hút khách
cao. Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc tế, Việt Nam có đủ điều kiện phát triển
giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không nối

9
liền Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Tiềm năng của các nguồn tài

nguyên du lịch Việt Nam đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang
động, nước nóng, suối nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thế giới động vật
quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo điển hình ...) lẫn nhân văn (các di
tích lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tậ
p quán, các làng nghề và truyền
thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc ...) đã tạo điều kiện cho chúng ta phát
triển được du lịch biển lẫn du lịch núi, du lịch dài ngày và ngắn ngày với nhiều
loại hình du lịch khác nhau như tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu
khoa học, hội chợ, hội nghị, festival...
Tài nguyên du lịch nước ta được phân bố thành từng cụm hình thành các
môi trường du lịch điển hình trong toàn quốc. Môi trường du l
ịch có một sắc
thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa vùng này
và vùng khác làm nhàm chán khách du lịch. Mặt khác những tài nguyên du lịch
này lại nằm gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng tạo thuận lợi
cho du khách. Nhiều môi trường du lịch của Việt Nam nếu được qui hoạch và
đầu tư thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh
tranh với các n
ước khác trong vùng và trên thế giới.
1. Tài nguyên du lịch về mặt tự nhiên
1.1. Biển
Việt Nam là đất nước của biển cả. Biển Việt Nam cũng là nguồn cung cấp
muối cho sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu. Với 3.260 km bờ biển, Việt Nam
có 125 bãi biển trải suốt chiều dài đất nước, trong đó có tới 20 bãi tắm đẹp nổi
tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn
(Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà
Nẵ
ng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)...
Ngoài ra, vùng biển Việt Nam có khoảng 4 nghìn hòn đảo, trong đó riêng
vịnh Bắc Bộ đã có 3 nghìn đảo lớn nhỏ. Gần bờ biển Trung Bộ có hàng trăm

đảo lớn như Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Tre,
Phú Quý... Xa hơn là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách Vũng Tàu vài

10
chục hải lý có 12 đảo lớn nhỏ lập nên huyện Côn Đảo (thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phú Quốc, xa hơn là quần đảo Thổ
Chu...
1.2. Hang động
Địa hình hang động thường tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn. Kiểu địa
hình này chiếm khoảng 50.000 km
2
tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ, Bắc trung Bộ
và một phần nhỏ ở Kiên Giang gồm:
- Loại hang động ngập nước: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà với trên
3.000 hòn đảo, thu hút nhiều khách du lịch.
- Loại hang động đồng bằng: Tam Cốc-Bích Động được coi như Hạ Long trên
cạn ở Ninh Bình, và các hang động ở Hà Tây, Hoà Bình.
- Loại hang động núi: là các khối đá vôi ở Cao Bằng, Bắc Sơn, Kẻ Bàng. .
Có hơ
n 200 hang động rất đa dạng và có độ hang động hoá khác nhau cần được
quan tâm khai thác cho ngành du lịch. Hang động trung bình dài 20 - 25m
(44,6%), hang dài trên 100 m chiếm 10,7%.
1.3. Núi và rừng
Vị trí địa lý cùng với lịch sử phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã tạo
cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích đất
liền là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Độ cao địa hình dưới 1.000 m (so
với mực nước biển) chiếm tới 85%. Núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm khoảng
1%. Căn cứ vào lịch sử phát triển của lãnh thổ thì các núi của Vi
ệt Nam đều là
những núi già được trẻ lại. Trong số những đỉnh núi cao của Việt Nam có đỉnh

Phanxipăng (Lào Cai) cao nhất, 3.143 m.
Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều
hang động, ghềnh thác, hồ đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng
cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà
Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá),
độ
ng Phong Nha (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc

11
Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ
thuỷ điện Yaly (Kon Tum), hồ Thác Bà (Yên Bái)...
Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai,
gụ, trắc, pơ mu... Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây
dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, mộc nhĩ, mật ong...
Về động vật, ước tính ở Việ
t Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò
sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường
gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ... còn có những loài quý hiếm như tê
giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ...
Việt Nam có những khu rừng quốc gia nổi tiếng với những bộ sưu tập
phong phú về động thực vật nhiệt đới những vùng tràm chim và sân chim nổi
tiếng thu hút hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi miền
đất nước như:
rừng quốc gia Cúc Phương, rừng quốc gia Cát Bà, rừng quốc gia Côn Đảo ...
Sân chim Minh Hải có tới hơn 80 loài chim, vùng tràm chim Tam Nông (Đồng
Tháp), nơi có chim Sếu đầu đỏ sinh sống, tại đây đã hình thành một trung tâm
thông tin về chim Sếu do ngân quỹ bảo vệ chim quốc tế ở Bơ Rêm (Đức) tài
trợ.
1.4. Khoáng sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: Than (trữ lượng dự

báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3 - 4 tỷ thùng
và khí đốt khoảng 50-70 tỷ m
3
); U-a-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200 - 300
nghìn tấn, hàm lượng U
3
O
8
trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan,
titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì...); khoáng sản phi kim loại
(apatit, pyrit...). Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước
dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm,
kênh rạch, biển... chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện;
cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống...
Hệ thống suối n
ước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú
và phân bố khá đều trong cả nước: Suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh),

12
suối khoáng Hải Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối
khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình). Những vùng
nước khoáng này đã trở thành những nơi nghỉ ngơi và phục hồi sức khoẻ được
nhiều khách du lịch ưa chuộng.
1.5. Thuỷ hải sản
Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài
nguyên phong phú về tôm, cá... trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính
riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua,
300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển... Nhiều loài cá thịt
ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực... Có những loài thân
mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc...

Ngoài việc cung cấp một khối lượng lớn cho ngành công nghiệp và xuất
khẩu, thì thuỷ hải sản nước ta cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch.
Đó được coi là những món ăn đặc sản nổi tiếng và hết sức hấp dẫn đối với biết
bao thực khách nước ngoài khi đặt chân đến Việt Nam.
1.6. Khí hậu
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của
gió mùa. Việt Nam có một mùa nóng, mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh.
Hàng năm có khoảng 100 ngày mưa cới lượng mưa từ 1.500 đến 2.000mm. Độ
ẩm không khí trên dưới 80%. Trên nền chung đó, khí hậu của các tỉnh ở phía
Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo 4 mùa là xuân, hạ, thu, đông.
Do ảnh hưởng của gió mùa h
ơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu
Việt Nam luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này
với nơi khác từ Bắc xuống Nam, từ thấp lên cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22
đến 27
o
C (Hà Nội: 23
o
C, Huế: 25
o
C, Thành phố Hồ Chí Minh: 26
o
C). Thời tiết
khí hậu thích hợp nhất cho du lịch ở Việt Nam là vào mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4. Theo con số thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam thì lượng du

13
khách đến Việt Nam đông nhất là thời điểm này, mặt khác đây cũng là mùa diễn
ra các lễ hội truyền thống ở Việt Nam.
2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn

Việt Nam có lịch sử hơn 4.000 năm văn hiến với nền văn minh lúa nước
truyền thống, cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo nên những
công trình văn hoá, kiến trúc, những di tích lị
ch sử, nghệ thuật, những phong tục
tập quán, nhiều thể loại văn hoá nghệ thuật dân gian, tôn giáo, lễ hội, nghề thủ
công đặc sắc... phong phú, đa dạng. Tất cả những di sản đó đều là tài nguyên du
lịch nhân văn, đang được nhiều du khách nước ngoài ưa thích.

14
2.1. Di tích - Danh thắng
Các di tích, danh thắng, các công trình lịch sử, văn hoá là tài nguyên quan
trọng hàng đầu của du lịch Việt Nam. Đến nay, trên toàn quốc có khoảng 4.000
di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 2.250 di tích được Nhà nước xếp hạng. Đặc
biệt có 4 điểm du lịch nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá
Thế giới, đó là: khu di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Phố cố Hội An, Thánh
địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Vịnh H
ạ Long (Quảng Ninh). Ngoài ra, còn một
số di tích khác đang được đề nghị UNESCO xếp hạng như di tích Hương Sơn
(Hà Tây) và Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình).
Phân bổ rải rác ở khắp 61 tỉnh, thành phố còn có khoảng 7.300 di tích
khác. Bình quân mỗi tỉnh từ 200 - 400 di tích, mật độ trung bình 2,2 di tích
/100km
2
. Riêng Hà Nội mật độ lên tới 42,8 di tích/100km
2
.
Hàng ngàn di tích lịch sử gắn với những chiến công oanh liệt trong các
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, như:
Điện Biên Phủ, Thành cổ Quảng Trị, Địa đạo Củ Chi, các nhà tù...rồi các đền
chùa, nhà thờ, các công trình văn hoá, các tác phẩm nghệ thuật đều là những

điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch, các nhà nghiên
cứu về lịch sử, nhân ch
ủng học, xã hội học, chính trị trong và ngoài nước.
2.2. Văn hoá - nghệ thuật
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một truyền thống văn hoá
riêng. Kho tàng văn hóa truyền thống của Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn
hình muôn vẻ của các dân tộc cùng sống trên dải đất này.
a. Mỹ thuật
Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều thể
loại, sản phẩm lại phong phú, đa dạng và được sáng tạo ở nhiều thời đại khác
nhau. Những sản phẩm đó tồn tại dưới nhiều thể loại khác nhau: gốm sứ, hội
hoạ, tranh thêu, tranh vẽ... bằng nhiều chất liệu khác nhau: đất, đá, đồng, sắt, gỗ,
gi
ấy...

15
Hiện vật còn lưu giữ đến nay cho ta thấy từ xa xưa, người Việt Nam đã
sớm có một nền mỹ thuật truyền thống: Các hình chạm trong một hang ở Hoà
Bình cách ngày nay khoảng 10.000 năm; chiếc muôi đồng được tìm thấy ở Hải
Phòng, lưỡi mác bằng đồng tìm thấy ở Thanh Hoá có từ thế kỷ 4 trước Công
nguyên; các hình chạm trên mặt các trống đồng v.v.. đều là những sản phẩm với
nhữ
ng đường nét, hình khối hàm chứa những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật cổ
truyền Việt Nam.

b. Điêu khắc
Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển
liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới
dạng thần linh hay con người thế tục. Tính chất cát cứ từng xuất hiện trong lịch
sử của một đất nước hình thành lâu dài, sự đa dân tộc, bên cạnh khối dân tộc

Việt chiếm đại đa số khi
ến cho hình ảnh của nền điêu khắc rất đa dạng có thể
thấy các bộ phận điêu khắc như sau: 1. Điêu khắc vương quốc Phù Nam và
Chân Lạp ở Nam Bộ; 2. Điêu khắc Champa ở Trung Nam Bộ; 3. Điêu khắc Đại
Việt ở Bắc Bộ; 4. Điêu khắc nhà mồ ở Tây Nguyên.
Nghệ thuật điêu khắc được duy trì và phát triển cùng với các triều đại
phong kiến, tiêu bi
ểu là điêu khắc thời Lý (1010 - 1225). Các trung tâm Phật
giáo ở Quảng Ninh, Nam Định và đặc biệt ở Bắc Ninh được xây dựng đồ sộ
theo kiểu kiến trúc Đông Nam Á. Các kiến trúc tiêu biểu của thời này kéo theo
một nền điêu khắc Phật giáo có thể thấy ở Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm
năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ, các
tượng Kim Cương chùa Long
Đọi, tượng đầu người mình chim, chạm khắc chùa
Bà Tấm, chùa Chương Sơn…
Bên cạnh mảng điêu khắc đó, còn có kho tàng khổng lồ các tác phẩm điêu
khắc dân gian có mặt ở khắp đó đây trên đất nước. Đó là sản phẩm điêu khắc
của những người thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ...



16
c. Kiến trúc
Cũng như nhiều ngành văn hoá nghệ thuật khác, kiến trúc Việt Nam đã
sớm ra đời, có thể xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước (cách nay khoảng
4.000 năm). Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm, những nét kiến
trúc khác nhau. Kiến trúc xưa từ thế kỷ 1 - thế kỷ 12 bao gồm các loại hình
thành quách, mộ táng, dinh lũy, cung điện, lâu đài, đình, chùa, tháp và
đền thờ
bên cạnh kiến trúc nhà ở dân gian. Một số công trình nổi bật như tháp Bình Sơn

(Vĩnh Phúc), chùa và tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên)…
Hình thức kiến trúc, trang trí và điêu khắc thời kỳ này đều nói lên bàn tay khéo
léo và kỳ công trong lao động nghệ thuật và sự gần gũi với các chủ đề thuộc về
con người. Kiến trúc cuối thế kỷ 19 bị ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây.
Mỗi công trình kiế
n trúc thời kỳ này đều hàm chứa sự chuyển hoá, hoà trộn giữa
hai trường phái kiến trúc Pháp và kiến trúc truyền thống Á Đông. Nhiều công
trình đã được pha lẫn với bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền
thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm và các nhà thờ đạo
Thiên Chúa ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội. Từ sau 1975 đến nay kiến trúc Việt Nam
phát triển khá mạnh mẽ. Nhiều công trình kiến trúc bề thế, hiện đạ
i, có giá trị
cao về nghệ thuật lần lượt mọc lên. Khi đất nước mở cửa về kinh tế, bạn bè bốn
phương cũng mang đến cho bức tranh kiến trúc nước nhà sự đa dạng bởi văn
hoá nhiều màu sắc.
c. Nghệ thuật biểu diễn
Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ nhiều loại
nhạc khí như đàn đá, cồng chiêng, các loại khèn, sáo ở Tây Nguyên, các loại đàn
khác như đàn đáy, đàn bầu, đàn nguyệt…. Ngoài ra, các loại hình nghệ thuật
biểu diễn như chèo, tuồng, cải lương, các thể loại ca nhạc như hát quan họ, hát
văn, các làn điệu dân ca, các điệu hò, điệu lý, v.v…, và những điệu múa truy
ền
thống mang đặc trưng văn hoá tộc người, văn hóa vùng, miền, thể hiện tư tưởng,
tình cảm của con người bằng ngôn ngữ biểu cảm riêng mang tính thẩm mỹ và
chức năng giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người

17
Việt Nam và đều có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ đối với nhiều du khách quốc tế.
Đặc biêt, nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là một loại hình sân khấu dân
tộc cổ truyền được ưa chuộng trong nước và được giới thiệu ở rất nhiều nước

trên thế giới.
d. Nghề thủ công truyền thống
Việt Nam có hàng trăm các làng nghề truyền thống với những sản phẩm
độc đáo, đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, mang tính nghệ thuật
cao. Nhiều mặt hàng thủ công truyền thống của nước ta đã trở nên không thể
thiếu trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn như nghề gốm sứ cổ
truyền có ở nhiều nơi trên đất nướ
c: Bắc Giang có Thổ Hà, Phù Lãng; Vĩnh
Phúc có Hương Canh; Quảng Ninh có Đông Triều; Thanh Hoá có Lò Chum;
Hội An có Thanh Hà; Đồng Nai có Biên Hoà v.v.. Nhưng có lịch sử lâu đời nhất
thì phải là Bát Tràng ở Hà Nội. Gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng không chỉ trong
nước mà cả ở nước ngoài. Rồi nghề dệt lụa Vạn Phúc ở Hà Tây, Phương Thành
- Trực Ninh ở Nam Định. Lụa Việt Nam đã theo chân các thương gia lên tàu
biển đi tới bè bạn xa gần bốn phương.
Đặc biệt là nghề mây tre đan và sơn mài
xuất hiện từ hàng ngàn năm nay, cha truyền con nối có ở Hà Tây (Ninh Sở, Nhị
Khê), Thanh Hoá (Quảng Xương, Quảng Phong). Và ngoài ra còn rất nhiều các
nghề thủ công nổi tiếng khác như đúc đồng Phước Kiều ở Quảng Nam, chạm
khắc đá ở Đà Nẵng, nghề làm nón ở Hà Tây, ở Huế, tranh Đông Hồ ở Hà Nội,
chạm gỗ La Xuyên ở Nam Định v.v…
Đó còn là những điểm dừng chân hấp dẫn cho những du khách muốn
khám phá, tìm hiểu về đất nước con người Việt Nam. Hàng năm, các làng nghề
truyền thống đó thu hút hàng trăm, hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi nơi
trên thế giới.
d. Nghệ thuật ẩm thực
Ai đã có dịp đến thăm Việt Nam, đi dọc chiều dài đất nước, hẵn sẽ không
thể quên những món ăn bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức độc đáo, tinh tế. Mỗi

18
món ăn lại có hương vị đặc biệt riêng của nó. Đó là các món ăn cổ truyền của

dân tộc Việt Nam như báng chưng, bánh dày, giò lụa, nem rán, bánh cuốn, bún,
phở… Ngoài ra, mỗi vùng, mỗi địa phương lại có những món ăn, đặc sản ngon,
thu hút biết bao thực khách trong và ngoài nước như tôm chua, cơm hến Huế,
cao lầu Faifo, bò tái Cầu Mống (Quảng Nam - Đà Nẵng), hủ tiếu Mỹ Tho, yến
sào (Khánh Hoà)…
2.3. Lễ hội truyền thống
Việt Nam là một dân tộc đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều
quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hoá mang bản sắc riêng.
Chính những nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc
Việt Nam.
Trong kho tàng văn hoá của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là loại
hình văn hoá rất đặc trưng ở Việt Nam. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian có
mặt h
ầu như ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách ngày nay hàng
nghìn năm nhưng vẫn được gìn giữ và duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng
hướng tới một đối tượng thiêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Xét
đến cùng cội rễ thì đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất
của con người. Giúp con người nhớ về nguồn c
ội, hướng thiện và nhằm tạo
dựng cho mỗi con người một cuộc sống tốt lành, yên vui.
Lễ hội truyền thống của Việt Nam chính là dịp để con người giao lưu
cộng cảm, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao đẹp. Nó
mang lại cho con người sự thanh thản nơi tâm linh, gạt bỏ hay quên đi những lo
toan thường nhật để về với cội nguồn, v
ới thiên nhiên mà thêm yêu đất nước.
Hầu hết lễ hội ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa xuân và mùa thu là hai
mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhàn rỗi.
Trong số các lễ hội lớn ở Việt Nam phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết
các gia đình trên mọi miền đất nước, đến mọi dân tộc, tôn giáo, đó là Tết
Nguyên Đán, rằm tháng bảy và tết Trung thu. Còn nh

ững lễ hội khác diễn ra ở
từng địa phương, từng vùng sẽ được giới thiệu ở phần các tỉnh.

19
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt
Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch
của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắ
p năm châu ngày
càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt
Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch
của mình, ngành Du lị
ch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày
càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
3. Các di sản thế giới tại Việt Nam
Từ bao lâu nay, hình ảnh Việt Nam được tô đậm như một đất nước anh
dũng, kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Nay xứ sở này lại
thêm quyến rũ bao du khách bốn phương bởi những di sản thiên nhiên và vă
n
hoá quí giá được thiên nhiên ban tặng và được tạo dựng bởi hàng ngàn năm lịch
sử: nào vịnh Hạ Long, nào quần thể di tích văn hoá Huế, Mỹ Sơn và Hội An...
3.1. Vịnh Hạ Long
Đến vịnh Hạ Long, ta không khỏi ngây ngất bởi vẻ đẹp thần tiên của non
nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức
tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động với hàng ngàn đảo đá. Chỗ thì
quây quần, tụ lại xúm xít chen chân; chỗ lại tách rời riêng biệt tạo nên những nét

chấm phá cực kỳ tài nghệ.
Dưới bàn tay khéo léo, tài hoa của tạo hoá, các đả
o đá vô tri, tĩnh lặng trở
thành những nhân vật sống động, thân thuộc với con người. Đảo thì giống như
đôi gà chọi nhau chờn vờn trên sóng nước, đảo lại giống một chú rùa khổng lồ
lim dim ngủ hay như một vị sư già đang chắp tay hướng ra mặt biển tụng kinh

20
niệm Phật... và còn nhiều, nhiều đảo khác chúng ta còn chưa khám phá hết
những bí mật thần kỳ.
Vẻ đẹp của Hạ Long không chỉ phơi bày ở dáng núi, sắc nước mây trời
mà còn ẩn chứa trong lòng các đảo đá, với một hệ thống hang động vô cùng
phong phú, mỗi hang động đều là một lâu đài kiến trúc nguy nga, tinh xảo của
tạo hoá và gắn liền với những truyền thuyết dân gian thơ mộng.
3.2. Quần thể di tích văn hoá Huế, Mỹ Sơn và Hội An
Khác với Hạ Long, lịch sử lao động và sáng tạo từ bao đời nay của người
dân đất Việt đã mang lại cho Huế, Hội An và Mỹ Sơn một vẻ đẹp thâm nghiêm
và sâu đậm.
Huế, với những địa danh chỉ nghe tên gọi đã gợi cho ta một vùng đất đầy
hương sắc và nên thơ: Sông Hương, Núi Ngự, Bạch Mã, Lăng Cô, Thuận An...
Dấu ấn xưa được in trên những nếp nhà rêu phong, cổ
kính, những con đường
lát gạch chạy giữa hai hàng rào bằng cây xén tỉa gọn gàng. Con người với thiên
nhiên luôn hoà quyện với nhau. Hình ảnh những nếp nhà mái ngói nép mình
dưới những tán cây trái trĩu cành, những vạt hoa đủ màu khoe sắc và tiếng chim
ríu rít đã nằm lại trong tâm trí bao lữ khách. Những con thuyền trôi lênh đênh
trên dòng Hương Giang man mác giọng hò, những chiều mưa giăng giăng và
hương vị cay nồng từ bát bún bò nóng hổi... Cuộc sống cứ bình dị, êm ả trôi
đi
cùng năm tháng nhưng không bao giờ mất đi nét kiêu sa đài các một thời của

kinh đô Huế.
Đến Huế để có thể hiểu được tại sao những bài thơ, những ca khúc viết cho
Huế lại hay và đẹp đến thế. Thơ và nhạc đã tô đẹp cho cuộc sống của con người
xứ Huế, và chính cuộc sống của những con người nơi đây đã chắp cánh cho
những v
ần thơ, nét nhạc khiến ai đó chẳng một lần ngẩn ngơ khi phải rời xa xứ
này...
Không đồ sộ, kỳ vĩ như đền Angkor ở Cămpuchia, không phong phú, đa
dạng như di tích Pagan ở Myanma... Mỹ Sơn nổi bật với quá trình phát triển lâu

21
dài của mình: Bảy thế kỷ phát triển tại đây đã đem lại cho nghệ thuật Chăm
nhiều kiệt tác có thể so sánh với những tác phẩm đẹp nhất của nghệ thuật thế
giới. Những nghệ nhân người Chăm đã truyền hết tinh lực và tài năng của mình
vào những khối đá, những mảng gạch vô tri tạo nên những tác phẩm tràn đầy
sức sống tr
ường tồn với thời gian, khiến thế hệ hôm nay và mai sau vẫn luôn
rung động, cảm xúc dạt dào mỗi khi được chiêm ngưỡng.
Phố cổ Hội An giữ được gần như nguyên vẹn những di tích kiến trúc cổ của
mình như phố sá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ, mộ
cổ... Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, vừa
th
ể hiện sự giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và phương
Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn
hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống được lưu giữ và bảo tồn
cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Thái độ trân trọng quá khứ của người
Hội An đã giúp cho thế hệ hôm nay và du khách gầ
n xa hiểu thêm được cuộc
sống và văn hoá của vùng khu phố cổ xa xưa này.
Đất nước Việt Nam còn chứa đựng biết bao điều kỳ diệu như thế. Dẫu là

của thiên nhiên ban tặng hay do sức lao động của con người, mỗi nơi mang một
vẻ đẹp khác nhau, tạo nên một bức tranh sinh động, phong phú và đa dạng, tiềm
ẩn bao điều mới lạ mà du lịch Việt Nam hứa hẹ
n mang đến cho du khách bốn
phương.




22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. SẢN PHẨM DU LỊCH VÀ CÁC CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch được xây dựng dựa trên các điều kiện tài nguyên du
lịch, hiện trạng các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động ngành du
lịch của từng vùng đất nước. Mỗi vùng có những đặc điểm riêng và có thể khai
thác những sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng đó. Vì vậy để phát triển du
lịch, phân vùng lãnh thổ du lịch là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong chiến lược phát triển du lịch để đảm bảo sự chỉ đạo, phát triển du lịch
Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đạt hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực và duy
trì môi trường lâu bền, bảo tồn phát triển các di sản văn hoá lịch sử quí giá giàu
bản sắc dân tộc.
1.1. Tiêu chí phân vùng du lịch
Phân vùng du lịch chủ yếu dựa trên các tiêu chí sau đây:
 Loại hình sản phẩm du lịch độc đáo.
 Điều kiện môi trường tự nhiên về du lịch.
 Điều kiện môi trường nhân văn, đặc biệt là các di sản văn hoá, lịch sử, các
lễ hội truyền thống.
 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị hoá và mức thu

nhập.
 Đ
iều kiện kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành, đặc biệt
là hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, tổ chức vui chơi giải trí, đi lại, thông tin
liên lạc.
 Điều kiện an toàn, trật tự an ninh.



23
1.2. Các vùng và sản phẩm du lịch
Căn cứ vào các tiêu chí phân vùng du lịch trên, căn cứ vào tình hình địa lý
và kinh tế xã hội tổng quan của Việt Nam, phân vùng cụ thể như sau:
a. Vùng du lịch Bắc Bộ

Đặc điểm
Bao gồm 23 tỉnh từ Hà Giang đến Hà Tĩnh với thủ đô Hà Nội là trung tâm
của vùng và tam giác động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh. Hiện nay ngành du lịch còn giữ vị trí rất khiêm tốn so với các ngành kinh
tế quan trọng trong vùng. Tuy nhiên, trong những năm tới, du lịch sẽ trở thành
ngành kinh tế quan trọng của vùng do nhu cầu du lịch ngày càng lớn, số lượng
khách đến vùng sẽ tăng lên đáng kể, ngoài ra cơ
sở hạ tầng phục vụ du lịch cũng
như cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành đang được phát triển và tài nguyên du
lịch (cả tự nhiên và nhân văn) cũng rất thuận lợi cho việc thu hút khách nội địa
và khách quốc tế.

Sản phẩm du lịch đặc trưng
Du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan, nghiên cứu.
 Các sản phẩm du lịch cụ thể:


- Giao lưu và phát triển kinh tế - xã hội, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển
lãm…
- Tham quan nghiên cứu nền văn hoá Việt Nam
+
Các di tích lịch sử, văn hoá nghệ thuật : đình, đền, nhà thờ, tháp…
+
Các lễ hội cổ truyền.
+
Các làng nghề truyền thống.
- Tham quan nghỉ dưỡng vui chơi giải trí ở các vùng cảnh quan
+
Vùng biển và hải đảo
+
Vùng sông suối hồ thác

+
Vùng núi, hang động

+
Vùng rừng, cao nguyên

24
+
Vùng đô thị đặc biệt, thủ đô Hà Nội
 Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu:

- Địa bàn các di tích văn hoá lịch sử:
+
Các di tích văn hoá nghệ thuật, lễ hội truyền thống; chủ yếu Hà Nội và

các vùng phụ cận thuộc các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ
trung tâm của nền văn minh lúa nước, văn hoá Đông Sơn.
+
Các địa bàn có nhiều ảnh hưởng văn hoá các dân tộc: Tày - Nùng (Cao
Bằng, Lạng Sơn) Hơ Mông (Hà Giang, Lào Cai), Thái (Lai Châu- Sơn
La), Mường (Hoà Bình).
+
Các di tích giữ nước dựng nước: Cụm Phú Thọ - Vĩnh Phúc: Đền Hùng,
Châu Phong Mê Linh; Cụm Ninh Bình: Hoa Lư, Tam Điệp; Cụm Quảng
Ninh - Hải Phòng: Vân Đồn, Yên Tử, Côn Sơn, Sông Bạch Đằng; Cụm
Lạng Sơn - Cao Bằng: Chi Lăng, Pắc Bó, đường quốc lộ 4 Đông Khê,
Thất Khê…; Cụm Tuyên Quang - Thái Nguyên: các an toàn khu Sơn
Dương, Quan Chu, Chiêm Hoá, Bắc Sơn.
- Các địa bàn cảnh quan, nghỉ dưỡng giải trí:
+
Hệ thống điểm cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển: Cụm Quảng Ninh - Hải
Phòng: Hạ Long, Bái Tử long, Đồ Sơn, Cát Bà, Mũi Ngọc, Trà Cổ; Cụm
Thanh Hoá: Sầm Sơn, Hàm Rồng; Cụm Nghệ An: Cửa Lò.
+
Hệ thống cảnh quan vùng hồ: chủ yếu ở vùng trung du Bắc Bộ: Hoà
Bình, Thác Bà (Yên Bái), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Cấm Sơn (Bắc Giang),
Núi Cốc (Thái Nguyên), Yên Lập (Quảng Ninh), hồ Ba Bể (Bắc Kạn),
Suối Hai, Đồng Mô (Hà Tây).
+
Hệ thống cảnh quan vùng núi: các khu nghỉ dưỡng Sapa, Bắc Hà (Lào
Cai), Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), cao nguyên Mộc Châu
(Sơn La).
- Các khu núi cao: Fansipan (Lào Cai), Yên Tử (Quảng Ninh)…

×