Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.66 KB, 113 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế mở của và hội nhập hiện nay, cùng với sự phát triển và lớn mạnh
không ngừng về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia thì hoạt động kiểm toán ngày càng
phát triển và trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi loại hình doanh nghiệp. Ở
Việt Nam, trong những năm gần đây, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt
động kiểm toán độc lập nói riêng đang ngày càng được nâng cao cả về số lượng và
chất lượng, nhằm đem đến một nền tài chính lành mạnh cho đất nước, góp phần nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) với
đội ngũ nhân viên dạn dày kinh nghiệm cùng sự cố gắng không ngừng của Ban lãnh
đạo đã và đang đóng góp một phần không nhỏ đối với sự phát triển của ngành nghề
kế toán – kiểm toán nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
Góp phần mang lại thành công cho một cuộc kiểm toán là việc lựa chọn và thu
thập được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có hiệu lực. Bằng chứng kiểm toán
là căn cứ để KTV đưa ra những kết luận của mình về BCTC đã được kiểm toán. Do
đó việc hoàn thiện và không ngừng nâng cao các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm
toán nhằm góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán và giảm thiểu chi phí cuộc kiểm
toán là một vấn đề cấp thiết không thể thiếu đối với AASC cũng như bất kỳ Công ty
kiểm toán nào trong quá trình hoạt động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với những kiến thức thu
được trong thời gian học tập tại trường và qua quá trình thực tập tại Công ty TNHH
Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC), Em hoàn thành khóa luận
với đề tài: “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán
Báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm
toán (AASC)”.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, Khóa luận gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về bằng chứng kiểm toán và kỹ thuật thu thập
bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Chương II: Thực trạng về việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng
2


kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty AASC
Chương III: Nhận xét đánh giá và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các kỹ
thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty AASC.
Do trình độ, kinh nghiệm và thời gian hạn chế nên khóa luận khó tránh khỏi sai
sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các anh chị trong
Công ty để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Th.S Đinh Thế Hùng và
sự chỉ bảo, giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong Công ty Kiểm toán AASC nói
chung, phòng đầu tư nước ngoài nói riêng, để em có thể hoàn thành bài viết này.
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN VÀ KỸ THUẬT THU
THU THẬP BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Khái quát chung về bằng chứng kiểm toán
1.1.1 Khái niệm và vai trò của bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
1.1.1.1 Khái niệm về bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200: “Báo cáo tài chính là hệ thống
báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp
nhận) phản ánh các thông tin kinh tế tài chính của đơn vị.”
[1,200/04]
Kiểm toán BCTC hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài
chính của các thực thể kinh tế do các KTV có trình độ, nghiệp vụ và chuyên môn
tương xứng đảm nhận dựa trên hệ thống pháp lý đang có hiệu lực. Kiểm toán BCTC
thực chất là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán về các BCTC
của một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo mức độ phù hợp
của các Báo cáo này với các chuẩn mực đã được thiết lập,
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 500 : “Bằng chứng kiểm toán là tất
cả các tài liệu, thông tin mà KTV thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa
trên các thông tin này KTV hình thành nên ý kiến của mình. Bằng chứng kiểm toán
bao gồm các tài liệu, chứng từ, sổ kế toán, BCTC và các tài liệu, thông tin từ nhừng

nguồn khác.”
[1,500/05]
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 500: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả
những thông tin được sử dụng bởi các KTV trong việc đưa ra các kết luận kiểm toán
dựa trên các ý kiến kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán bao gồm các thông tin chứa
đựng trong hồ sơ kế toán, trong các BCTC và các thông tin khác.”
[8,500/03]
Tóm lại, bằng chứng kiểm toán là tất cả các thông tin nhân chứng và vật
chứng mà KTV thu thập làm cơ sở cho nhận xét của mình về BCTC được kiểm toán.
1.1.1.2 Vai trò của bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Như trên đã nói, thực chất của hoạt động kiểm toán BCTC là thu thập và đánh
giá các bằng chứng kiểm toán về các BCTC của các đơn vị được kiểm toán nhằm đưa
4
ra các kết luận chính xác nhất về BCTC của đơn vị đó. Do đó bằng chứng kiểm toán
có một vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành của ý kiến kết luận kiểm toán. Sự thành
công của toàn bộ quá trình kiểm toán là việc đưa ra các kết luận kiểm toán chính xác,
hợp lý về các BCTC đã được kiểm toán. Điều này đòi hỏi KTV phải thu thập được
một cách đầy đủ và có hiệu lực các bằng chứng kiểm toán cần thiết, đánh giá các
bằng chứng đó làm cơ sở hình thành nên các kết luận của mình. Một khi KTV không
thu thập được đầy đủ và đánh giá đúng về các bằng chứng kiểm toán thích hợp thì
KTV khó có thể đưa ra các kết luận chính xác về đối tượng kiểm toán. Hay nói cách
khác, kết luận kiểm toán khó có thể xác thực với thực trạng của đối tượng kiểm toán
nếu như các bằng chứng kiểm toán thu thập được quá ít hoặc không phù hợp hoặc độ
tin cậy không cao.
Bằng chứng kiểm toán là cơ sở để giám sát, đánh giá chất lượng hoạt động
của KTV trong quá trình kiểm toán. Việc giám sát đánh giá này có thể do nhà quản lý
kiểm toán tiến hành đối với các KTV thực hiện kiểm toán hoặc có thể do cơ quan tư
pháp tiến hành đối với các chủ thể kiểm toán nói chung (trong trường hợp xảy ra kiện
tụng giữa KTV và công ty kiểm toán). Căn cứ vào việc đánh giá tính hiệu lực và đầy
đủ của các bằng chứng kiểm toán mà KTV thu thập được, các nhà quản lý thực hiện

soát xét các BCTC nhằm đánh giá hiệu quả của hoạt động kiểm toán của KTV trong
quá trình thực hiện.
Bằng chứng kiểm toán đầy đủ và hiệu lực còn tăng khả năng cạnh tranh của
các Công ty kiểm toán trên thị trường. Đối tượng của kiểm toán BCTC là các BCTC
– bao gồm các thông tin tài chính tổng hợp liên quan đến toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh trong một năm tài chính được kiểm toán. Đối tượng kiểm toán rộng lớn
như vậy, chi phí kiểm tra và đánh giá tất cả các bằng chứng kiểm toán rất cao. Với
việc thu thập được các bằng chứng kiểm toán một cách đầy đủ và hiệu lực. điều này
góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí của các cuộc kiểm toán mà không làm ảnh
hưởng đến chất lượng cuôc kiểm toán BCTC.
Do vai trò đó mà Chuẩn mực Kiểm toán số 500 quy định: “ Kiểm toán viên và
Công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm
cơ sở đưa ra ý kiên của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”
[1,500/02]
5
1.1.2 Tính chất của bằng chứng kiểm toán và các nhân tố ảnh hưởng tới
thu thập bằng chứng kiểm toán
Nắm bắt được tầm quan trọng của bằng chứng kiểm toán trong một cuộc
kiểm toán, vấn đề đặt ra cho các KTV là thu thập được những bằng chứng kiểm toán
thuyết phục. Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán được quyết định bởi tính
hiệu lực và tính đầy đủ của nó.
Hiệu lực là khái niệm dùng để chỉ độ tin cậy hay chất lượng của bằng chứng
kiểm toán. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán bao
gồm:
Thứ nhất là loại hình hay dạng của bằng chứng. Bằng chứng vật chất ( ví dụ
như “biên bản kiểm kê”, có được sau khi kiểm kê hay quan sát kiểm kê) và hiểu biết
của KTV về các lĩnh vực kiểm toán được xem là có độ tin cậy cao hơn bằng chứng
bằng lời ( ví dụ như bằng chứng thu nhập qua phỏng vấn).
Thứ hai là hệ thống KSNB. Bằng chứng thu được trong hệ thống KSNB hoạt
động tốt có độ tin cậy cao hơn so với bằng chứng kiểm toán thu được trong điều kiện

hệ thống này hoạt động kém hiệu quả. Hệ thống KSNB được thiết kế nhằm ngăn
chặn, phát triển các sai phạm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong môi trường KSNB hoạt động tốt hơn, khả năng tồn tại sai phạm mà hệ thống
KSNB không phát hiện được sẽ thấp hơn.
Thứ ba là nguồn gốc thu nhập bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng có nguồn
gốc càng độc lập với đối tượng được kiểm toán thì càng có hiệu lực. Ví dụ, bằng
chứng thu được từ các từ các nguồn độc lập bên ngoài ( như bảng sao kê ngân hàng,
giấy báo số dư khách hàng do khách hàng gửi đến, xác nhận của ngân hàng về số dư
tiền gửi và các khoản công nợ…) có độ tin cậy cao hơn bằng chứng kiểm toán có
được nhờ khách hàng cung cấp ( như tài liệu kế toán, tài liệu thống kê ban đầu liên
quan đến hoạt động được kiểm toán).
Thứ tư là sự kết hợp các bằng chứng kiểm toán. Nếu nhiều thông tin (bằng
chứng) cùng xác minh cho một vấn đề thì sẽ có giá trị (độ tin cậy cao) hơn so với
thông tin đơn lẻ. Ví dụ, nếu số dư trên tài khoản tiền gửi ngân hàng khớp với số dư
trên “ Giấy báo số dư khách hàng” do ngân hàng gửi đến cho đơn vị được kiểm toán
6
thì số liệu này đáng tin hơn so với khi chỉ có thông tin duy nhất là số dư trên tài
khoản Tiền gửi ngân hàng.
Đầy đủ: là khái niệm chỉ số lượng hay quy mô cần thiết của bằng chứng kiểm
toán để đưa ra ý kiến kết luận cho cuộc kiểm toán. Đây là một vấn đề không có thước
đo chung, mà đòi hỏi rất lớn ở sự xét đoán nghề nghiệp của KTV. Các chuẩn mực
kiểm toán thường chấp nhận KTV thu thập bằng chứng kiểm toán ở tính mức độ “có
tính thuyết phục” hơn là “có tính chất chắc chắn”.
Những yếu tố có ảnh hưởng tới tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán bao
gồm:
Thứ nhất là tính hiệu lực của bằng chứng. Bằng chứng có độ tin cậy càng thấp
thì càng cần thu thập nhiều. Một (một số ít) bằng chứng có độ tin cậy thấp chưa đủ có
thể nhận định một cách xác đáng về đối tượng kiểm toán cụ thể.
Thứ hai là tính trọng yếu. Đối tượng cụ thể được kiểm toán càng trọng yếu thì
số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều để khi đó KTV có thể đưa ra

ý kiến xác đáng về đối tượng kiểm toán. KTV phải xác định mọi sai phạm có ảnh
hưởng trọng yếu đến BCTC. Các sai phạm được xem là trọng yếu thường là sai phạm
có giá trị lớn. Nếu sai sót xảy ra ở các đối tượng này có thể sẽ ảnh hưởng trọng yếu
đến BCTC. Ngược lại, ở các khoản mục có quy mô nhỏ nếu có sai phạm thì khó ảnh
hưởng trọng yếu đến BCTC.
Thứ ba là mức độ rủi ro. Những đối tượng cụ thể (khoản mục, bộ phận,
nghiệp vụ…) được đánh giá là khả năng rủi ro lớn thì lượng bằng chứng kiểm toán
phải thu thập càng nhiều và ngược lại
1.1.3 Phân loại bằng chứng kiểm toán và bằng chứng kiểm toán đặc biệt
1.1.3.1 Phân loại bằng chứng kiểm toán
a) Theo nguồn gốc thu thập bằng chứng
- Bằng chứng do KTV tự khai thác thông qua biên bản kiểm kê tiền tồn
quỹ,biên bản kiểm kê hàng tồn kho, biên bản kiểm kê tài sản, quan sát quá trình thực
hiện các quy định, điều lệ của công ty và tính toán lại số dư trên sổ sách.
7
- Bằng chứng do doanh nghiệp cung cấp như các sổ sách, chứng từ, các tài
hợp đồng, quyết định…
- Bằng chứng do bên thứ ba độc lập cung cấp như các xác nhận tiền gửi của
ngân hàng, xác nhận công nợ…
b) Theo dạng của bằng chứng kiểm toán
- Bằng chứng kiểm toán có dạng vật chất như các chứng từ, sổ sách thu thập
được, các biên bản, hợp đồng…
- Bằng chứng kiểm toán bằng miệng thu thập được thông qua quá trình tiếp
xúc trao đổi với kế toán, cán bộ phụ trách. Bằng chứng kiểm toán bằng miệng không
có độ tin cậy cao bằng bằng chứng kiểm toán vật chất
1.1.3.2 Bằng chứng kiểm toán đặc biệt
Ngoài các bằng chứng kiểm toán thu được thông qua các kỹ thuật trên, trong
một số trường hợp đặc biệt, KTV phải thu thập thêm các bằng chứng kiểm toán.
a) Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là tư liệu của chuyên gia
Bằng chứng này sử dụng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Khi KTV

thu thập thông tin cơ sở về đơn vị được kiểm toán thì cần phải dự kiến nhu cầu sử
dụng chuyên gia nếu thấy cần thiết và đã xem xét, cân nhắc những yếu tố như: tính
chất trọng yếu của khoản mục sẽ được kiểm tra so với toàn bộ thông tin tài chính; nội
dung và mức độ phức tạp của các khoản mục kể cả những rủi ro và sai sót trong đó;
các bằng chứng kiểm toán khách có hiệu lực đối với các khoản mục này. Việc dự
kiến sử dụng ý kiến chuyên gia thường sử dụng trong một số lĩnh vực như: đánh giá
tài sản (đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, các công trình nghệ thuật, đá quý); Xác
định số lượng hoặc chất lượng hiện có của tài sản (trữ lượng quặng, khoáng sản,
nhiên liệu trong lòng đất, thời gian hữu ích còn lại của tài sản máy móc); hoặc trong
trường hợp dùng các phương pháp đặc biệt để xác định tổng giá trị như phương pháp
ước lượng của thống kê; xác định các phần việc sẽ hoàn thành và đã hoàn thành trong
quá trình thực hiện hợp đồng kiểm toán để xác định doanh thu; khi cần các ý kiến của
luật sư về cách diễn giải các hợp đồng và luật pháp.
Việc thu thập và sử dụng tư liệu của chuyên gia được tiến hành như: Đánh giá
kỹ năng, trình độ nghiệp vụ của chuyên gia (thể hiện qua bằng cấp chuyên môn, giấy
8
phép hành nghề, là thành viên của tổ chức chuyên ngành, kinh nghiệm của chuyên
gia); Đánh giá tính khách quan của chuyên gia; Xác định công việc của chuyên gia
(về mục đích, phạm vi công việc nội dung công việc nguồn tư liệu của chuyên gia
làm bằng chứng kiểm toán của KTV có đầy đủ và thích hợp không); phạm vi đánh
giá của các chuyên gia, xác định mối quan hệ giữa chuyên gia với khách hàng, yêu
cầu giữ bí mật thông tin của khách hàng, các phương pháp mà chuyên gia sử dụng.
Với ý kiến các chuyên gia, KTV chỉ nên thu thập khi thực sự cần thiểt, khi
không có bằng chứng nào thay thế và chủ động với những thủ tục kiểm toán cần
thiết. Tuy nhiên, dù KTV có sử dụng ý kiến chuyên gia làm bằng chứng kiểm toán
vẫn đòi hỏi KTV là người chịu trách nhiệm sau cùng về ý kiến nhận xét đối với
BCTC được kiểm toán.
b) Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là giải trình của giám đốc
Theo VSA 580 về “Giải trình của giám đôc” có quy định: “Kiểm toán viên
phải thu thập được các giải trình của giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được

kiểm toán”.
[1,580/02]
Bằng chứng này được sử dụng nhằm mục đích thừa nhận trách
nhiệm của ban giám đốc phải chịu trách nhiệm về sự tin cậy và tính hợp pháp của các
thông tinh trên BCTC qua hệ thống KSNB và hệ thống kế toán. KTV xác minh và
đưa ra ý kiến của mình về sự tin cậy và hợp lý của các thông tin trên BCTC.
 Nội dung giải trình thường có ba loại cam kết chính:
Loại I: Giải trình chung về trách nhiệm của ban giám đốc (tính độc lập, khách
quan, trung thực) trong việc trình bày đúng đắn BCTC.
Loại II: Giải trình từng mặt, yếu tố cấu thành sự trung thực và hợp lý, có 5 loại
; xác nhận về quyền và nghĩa vụ; xác nhận về định giá và phân bổ; xác nhận về phân
loại và trình bày.
Loại III: Giải trình về mối quan hệ của ban giám đốc với KTV.
 Hình thức giải trình bao gồm: Các giải trình bằng văn bản được thể
hiện dưới hình thức: Bản giải trình của giám đốc; Thư của KTV liệt kê
tất cả những hiểu biết của mình về các giải trình của giám đốc xác
nhận là đúng; Biên bản họp hội đồng quản trị hoặc BCTC đã được
giám đốc ký duyệt.
9
 Các yếu tố cơ bản của giải trình bao gồm văn bản giải trình phải được
gửi trực tiếp cho KTV với nội dung gồm các thông tin giải trình, ngày
tháng, họ tên, chữ ký của người lập hoặc xác nhận vào bản giải trình
của giám đốc được ghi trên báo cáo kiểm toán, trong một số trường
hợp đặc biệt, bản giải trình lập trước hoặc sau ngày phát hành báo cáo
kiểm toán; bản giải trình thường do giám đốc các đơn vị ký, trong một
số trường hợp đặc biệt, KTV chấp nhận bản giải trình từ các thành
viên khác trong đơn vị được giám đốc uỷ quyền.
 Đánh giá giải trình của giám đốc: KTV cần phải thu thập bằng chứng
kiểm toán từ các thông tin ở trong đơn vị hay ngoài đơn vị để xác minh
các giải trình của giám đốc có mâu thuẫn với bằng chứng kiểm toán

khác, KTV phải tìm hiểu nguyên nhân và phải xem lại độ tin cậy của
bằng chứng kiểm toán và các giải trình của giám đốc; xác định mức độ
hiểu biết các vấn đề đã được giải trình của người lập giải trình.
 Một số hạn chế của bằng chứng giải trình: Giải trình của giám đốc
không thể thay thế các bằng chứng kiểm toán mà KTV thu thập được;
giải trình của giám đốc có độ tin cậy không cao do bằng chứng loại này
được cung cấp từ phía doanh nghiệp do đó nó phụ thuộc vào mức độ
liêm khiết và trung thực của giám đốc. Theo VSA 580 “Kiểm toán viên
phải đánh giá lại độ tin cậy của tất cả các giải trình khác của giám
đốc trong quá trình kiểm toán và xem xét mức độ ảnh hưởng của nó
đến BCTC và phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc từ
chối.”
[1.17]
Ngoài những nội dung trong chuẩn mực trên, KTV
có thể yêu cầu giám đốc giải trình thêm một số nội dung khác phụ thuộc vào
loại hình kinh doanh, DN, tính chất trọng yếu của từng khoản mục trên BCTC…
c)Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là tư liệu của KTV nội bộ
Bằng chứng này được sử dụng nhằm mục đích giúp cho KTV xác định lịch
trình, nội dung, phạm vi của các thủ tục kểm toán.
10
Theo VSA 610 “Sử dụng tư liệu của KTV nội bộ” quy định: “Đánh giá ban
đầu về hoạt động kiểm toán nội bộ căn cứ vào những tiêu thức chủ yếu sau: vị trí của
kiểm toán nội bộ trong cơ cấu tổ chức của đơn vị ảnh hưởng đến tính khách quan,
độc lập của kiểm toán nội bộ; chức năng của KTV nội bộ; năng lực chuyên mộn của
KTC nội bộ, trính thận trọng nghề nghiệp của KTV nội bộ; hoạt động và hiệu quả
của KTV nội bộ trong năm tài chính trước.”
[1,610/12]
 Thực hiện thu thập tư liệu của kiểm toán nội bộ: Liên hệ và phối hợp
công việc với KTC nội bộ; đánh giá và kiểm tra lại tư liệu kiểm toán
nội bộ: Các bằng chứng đã thu thập được là đầy đủ, thích hợp để làm

căn cứ vững chắc, hợp lý để rút ra các kết luận…
 Sử dụng tư liệu của KTV nội bộ: KTV phải kiểm soát được quá trình
kiểm toán của KTC nội bộ và KTC chỉ sử dụng tư liệu của KTV nội
bộ đối với những đơn vị có tổ chức kiểm toán nội bộ và tổ chức này
hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Khi sử dụng các tư liệu của KTV nội
bộ, KTV nhận thấy KTV nội bộ đã phát hiện ra một số sai sót một
khoản mục nào đó thì với tính hoài nghi và sự xét đoán của mình,
KTV sẽ phải kiểm tra kỹ hơn, thực hiện nhiều thủ tục hơn để thu thập
nhiều bằng chứng hơn về khoản mục này.
d)Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là tư liệu của các KTV khác
Chuẩn mực kiếm toán Việt Nam số 600 “Sử dụng tư liệu của KTV khác” quy
định: “Kiểm toán viên khác phải phối hợp với KTV chính trong trường hợp KTV
chính sử dụng tư liệu kiểm toán của mình”.
[1,600/17]
Mục đích sử dụng của bằng chứng này là khi kiểm toán BCTC một đơn vị
trong đó có gộp cả thông tin tài chính của đơn vị cấp trên với một hay nhiều đơn vị
cấp dưới và đơn vị kinh tế khác thì KTV sử dụng tư liệu kiểm toán của KTV khác (là
KTC chịu trách nhiệm kiểm toán BCTC và ký báo cáo kiểm toán của các đơn vị được
gộp vào BCTC của đơn vị cấp trên) về các thông tin tài chính của các đơn vị đó.
Trường hợp KTV kết luận BCTC của đơn vị cấp dưới và đơn vị kinh tế khác
có ảnh hưởng không trọng yếu thì không cần thu thập loại bằng chứng này.
 Quá trình thu thập và sử dụng tư liệu của KTV khác:
11
+ Thủ tục kiểm toán: Khi lập kế hoạch trong đó có dự kiến sẽ sử dụng tư liệu
của KTV khác, KTV phải xem xét năng lực chuyên môn của KTV khác dựa vào: tổ
chức kiểm toán nơi KTV khác đăng ký hành nghề, những cộng sự của KTV khác,
khách hàng - những người có quan hệ công việc với KTV khác, trao đồi trực tiếp với
KTV khác.
KTV cần thông báo cho KTV khác về: Yêu cầu về tính độc lập liên quan đến
đơn vị cấp trên, đơn vị cấp dưới, đơn vị kinh tế khác và thu thập bản giải trình về

việc tuiân thủ các yêu cầu đó; việc sử dụng tư liệu và báo cáo kiểm toán của KTV
khác và sự phối hợp giữa hai bên ngay từ khi lập kế hoạch kiểm toán; những vấn đề
đặc biệt quan tâm, những thủ tục xác định các nghiệp vụ giao dịch nội bộ cần được
nêu ra trong bản thuyết minh lịch trình kiểm toán; những yêu cầu về kế toán, kiểm
toán, lập báo cáo và thu thập bản giải trình về việc tuân thủ các yêu cầu trên.
+ Kết luận và lập báo cáo kiểm toán: Khi KTV kết luận và tư liệu của KTV
khác là không dùng được và KTV không thể tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán bổ
sung đối với BCTC của đơn vị cấp dưới và đơn vị kinh tế khác được KTV khác kiểm
toán, nếu xét thấy có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC được kiểm toán thì KTV cần
phải đưa ra ý kiến bị giới hạn phạm vi kiểm toán.
Trường hợp KTV khác đưa ra hoặc dựa kiến đưa ra báo cáo kiểm toán sửa đổi
thì KTV cần phải xem xét lại bản chất và mức độ ảnh hưởng của những sửa đổi đó
đối với BCTC do KTV kiểm toán và từ đó có thể phải sửa đổi báo cáo của mình.
KTV cần lưu vào hồ sơ của mình các tài liệu liên quan đến BCTC đã được
KTV khác kiểm toán, các tài liệu về việc thực hiện thủ tục kiểm toán và các kết luận
thu được từ các thủ tục kiểm toán, tên của KTV khác và các kết luận dù không trọng
yếu của KTV khác. Tuy nhiên, KTV vẫn là người phải chịu trách nhiệm cuối cùng về
những rủi ro kiểm toán khi sử dụng tư liệu của KTV khác.
Thực tế, sự phối hợp này rất khó thực hiện và KTV chỉ xem xét báo cáo kiểm
toán của đơn vị kiểm toán khác phát hành vào năm trước, trong đó KTV quan tâm
đến những phát hiện, ý kiến của KTV khác trong kết luận kiểm toán và KTV phải thu
thập thêm bằng chứng về những vấn đề có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC của đơn
vị.
12
Hiện nay, có quy định của Nhà nuớc về kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán
kiểm toán và cơ quan đánh giá chất lượng của các công ty kiểm toán khác nên việc sử
dụng tư liệu của KTV khác còn gặp nhiều hạn chế.
e) Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là bằng chứng về các bên liên quan
Mục đích của việc thu thập bằng chứng về các bên hữu quan để xác định liệu
ban giám đốc đã xác minh và thuyết minh một cách đầy đủ về các bên hữu quan và

nghiệp vụ với các bên hữu quan chưa. Theo yêu cầu của chuẩn mực kế toán sự tồn tại
của các bên hữu quan và nghiệp vụ giữa các bên có thể ảnh hưởng tới BCTC.
 Thu thập bằng chứng về sự tồn tại:KTV cần kiểm tra tính đầy đủ của
những thông tin do ban giám đốc đơn vị cung cấp về việc xác định tên
của các bên hữu quan bằng các thủ tục như: soát lại giấy tờ làm việc
năm trước để kiểm tra tên của các bên hữu quan đã được biết, kiểm tra
thủ tục xác định các bên hữu quan của doanh nghiệp (DN), thẩm tra về
mối liên quan giữa các uỷ viên của ban giám đốc đối với các doanh
nghiệp khác, kiểm tra bản ghi các cổ phần để xác định tên của những
cổ đông chính thức hoặc nếu cần thì phải thu thập danh sách cổ đồng
chính từ bản ghi các cổ phần, xem xét lại biên bản cuộc họp cổ đồng và
họp ban quản trị và những ghi chép theo luật định liên quan như bản
ghi phần thẩm vấn của các uỷ viên quản trị, hỏi các KTV khác hiện
tham gia hoặc KTV tiền nhiệm những thông tin về các bên hữu quan
khác mà họ biết, xem xét tờ khai thuế lợi tức của khách hàng và những
thông tin khác cung cấp bởi các cơ quan chủ quản.
 Thu thập bằng chứng về các nghiệp vụ: Trong giải trình của Giám đốc,
trong báo cáo của đơn vị được kiểm toán luôn đề cập đến các nghiệp
vụ về các bên liên quan. Khi thu thập bằng chứng về các bên liên quan,
KTV phải điều tra, cân nhắc, thu thập các bằng chứng về nghiệp vụ,
giải trình của ban giám đốc về các nghiệp vụ như mua hàng, phải thu
phải trả, kiểm tra các nghiệp vụ đầu tư... với các bên liên quan qua các
phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán, đối chiếu danh sách các
số dư của các bên liên quan để khẳng định số dư của các bên liên quan
13
tại thời điểm cuối năm đã có trong danh sách, xác định các nội dung
kinh tế hỗ trợ cho việc ghi chép số dư các bên liên quan đồng thời
đánh giá sự hợp lý của sự trình bày và khai báo các số dư của các bên
liên quan và có thể đề nghị gửi thư xác nhận đối với các số dư trọng
yếu của các bên liên quan.

Do sự hạn chế về bằng chứng nghiệp vụ với các bên hữu quan, KTV cần phải
tiến hành các thủ tục: Xác nhận điều kiện và giá trị nghiệp vụ với các bên hữu quan;
kiểm tra các bằng chứng do các bên hữu quan nắm giữ; xác nhận hay thảo luận thông
tin với những người có liên quan đến nghiệp vụ như ngân hàng, luật sư, các nhà bảo
lãnh và các nhà môi giới chứng khoán.
Bằng chứng kiểm toán đặc biệt là loại bằng chứng được thu thập và sử dụng
phổ biến trên thế giới. Để đạt được chiến lược kiểm toán phát triển lâu dài cả về
chiều sâu và chiều rộng thì cần đặc biệt coi trọng đến phương pháp kiểm toán trong
đó việc thu thập bằng chứng kiểm toán đặc biệt cũng là một mục đích cơ bản của
việc tăng cường hiệu quả và hoàn thiện phương pháp kiểm toán.
1.2 Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán
Thực chất của giai đoạn thực hành kiểm toán là việc các KTV ưu tiên áp dụng
các phương pháp kỹ thuật kiểm toán để thu thấp các bằng chứng kiểm toán thích hợp
và đầy đủ và tiến hành đánh giá chung. Các phương pháp kỹ thuật thường được vận
dụng trong kiểm toán tài chính bao gồm: kiểm tra vật chất, quan sát, điều tra, lấy xác
nhận, xác minh tài liệu, tính toán và phân tích.
1.2.1Kiểm tra vật chất ( Kiểm kê)
Là quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các loại tài sản của doanh
nghiệp. Kiểm tra vật chất do vậy thường được áp dụng đối với tài sản có dạng vật
chất cụ thể như hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt và các giấy tờ thanh
toán có giá trị.
 Ưu điểm của kỹ thuật kiểm kê là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy
cao nhất vì kiểm kê là quá trình xác minh sự hiện hữu của tài sản,
14
mang tính khách quan. Hơn nữa cách thực hiện kỹ thuật này đơn giản,
phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán.
 Nhược điểm của kỹ thuật kiểm kê:
+ Đối với một tài sản cố định như nhà xưởng, máy móc thiết bị… kỹ thuật
kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản mà không cho biết quyến sở hữu của đơn
vị đối với tài sản đó; hoặc tài sản có thể hiện hữu nhưng lại là tài sản thuê ngoài, hay

đã đem thế chấp….
+ Đối với hàng hoá, nguyên vật liệu tồn kho, kiểm tra vật chất chỉ cho biết sự
tồn tại thực tế về số lượng, còn chất lượng, tình trạng kỹ thuật, tính sở hữu, phương
pháp đánh giá chúng thì chưa thể hiện.
Kiểm tra vật chất đối với vật tư do đó cần đi kèm với bằng chứng khác để
chứng minh quyền sở hữu và giá trị của tài sản đó.
1.2.2 Lấy xác nhận
Là quá trình thu thập thông tin do bên thứ ba độc lập cung cấp để xác minh
tính chính xác của thông tin mà KTV nghi vấn.
Thư xác nhận( sau khi đã có chữ ký và dấu của công ty khách hàng) có thể
được KTV trực tiếp đến bên thứ ba để xác nhập thông tin yêu cầu và sau đó được gửi
trở lại theo địa chỉ của KTV. Thông thường, đơn vị được kiểm toán có thể gửi thư
nhờ xác nhận đến bên thứ ba theo yêu cầu của KTV, nhưng thư phúc đáp vẫn phải
gửi trực tiếp cho KTV và KTV phải kiểm soát được toàn bộ việc gửi và nhận thư xác
nhận. Quy trình nhằm đảm bảo tính độc lập của kỹ thuật xác nhận đối với đơn vị
kiểm toán.
 Ưu nhược điểm của kỹ thuật lấy xác nhận:
+ Ưu điểm của kỹ thuật xác định là bằng chứng thu được có độ tin cậy cao
nếu KTV thực hiện đúng quy trình và đảm bảo các yêu cầu: Thông tin cần phải được
xác nhận theo yêu cầu của KTV; Sự xác nhận phải được thực hiện bằng văn bản; Sự
độc lập của Bên thứ ba; KTV phải kiểm soát được toàn bộ quá trình gửi và nhận thư
xác nhận.
15
+Hạn chế của kỹ thuật này là chi phí khác lớn và do đó phạm vi áp dụng
tương đối giới hạn, nhất là khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn, quan hệ rộng,
đa quốc gia… Hơn nữa KTV cũng cần quan tâm đến khả năng có thể có xác nhận mà
đơn vị được kiểm toán và Bên thứ ba đã có sự dàn xếp.
 Hình thức gửi thư xác nhận: có hai hình thức, hình thức gửi thư xác
nhận phủ định và thư xác nhận khẳng định.
+ Theo hình thức gửi thư xác nhận phủ định, KTV yêu cầu người xác nhận

gửi thư phúc đáp (phản hồi) nếu có sự chênh lệch giữa thực tế với thông tin mà KTV
nhờ xác nhận..
+ Theo hình thức gửi khẳng định, KTV yêu cầu người xác nhận gửi thư phúc
đáp cho tất cả các thư xác nhận cho dù có chênh lệch hay không có chênh lệch giữa
số liệu xác nhận và số liệu của bên thứ ba. Hình thức thứ hai do đó đảm bảo tin cậy
cao hơn cho kỹ thuật xác nhận, nhưng chi phí cũng cao hơn. Vì thế, tuỳ mức độ hệ
trọng của thông tin mà KTV quan tâm, KTV sẽ lựa chọn hình thức phù hợp.
1.2.3 Xác minh tài liệu
Là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu, các chứng từ sổ sách có liên quan
sẵn có trong đơn vị được kiểm toán. Phương pháp này được áp dụng đối với các
chứng từ, tài liệu như hoá đơn bán hàng , hoá đơn mua hàng, phiếu nhập kho, phiếu
xuất kho, sổ sách kế toán…
 Phương pháp này thường được tiến hành theo hai cách:
+ Thứ nhất, từ một kết luận có trước, tức là KTV thu thập tài liệu làm cơ sở
cho kết luận mà cần khẳng định. Ví dụ: KTV kiểm tra các tài liệu, hồ sơ pháp lý về
quyền sở hữu tài sản.
+ Thứ hai,kiểm tra các tài liệu của một nghiệp vụ từ khi phát sinh đến khi vào
sổ sách.
 Quá trình này có thể tiến hành theo hai hướng:
+ Kiểm tra tài liệu từ chứng từ gốc lên sổ sách kế toán. Hướng này được thực
hiện khi KTV muốn khẳng định xem các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã được ghi sổ
đầy đủ hay chưa (nhằm khẳng định tính đầy đủ của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh)
16
+ Kiểm tra từ sổ sách kế toán xuống chứng từ gốc. Hướng này được thực hiện
khi KTV khẳng định xem các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi sổ đầy đủ hay
chưa (nhằm khẳng định tính có thật của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh).
 Ưu nhược điểm của kỹ thật xác minh tài liệu:
+ Ưu điểm của kỹ thuật kiểm tra tài liệu là tương đối thuận tiện do tài liệu
thường là có sẵn, chi phí thu thập bằng chứng cũng ít hơn các kỹ thuật khác.
+ Hạn chế của kỹ thuật kiểm tra tài liệu: Độ tin cậy của tài liệu minh chứng

phụ thuộc vào nguồn gốc của bằng chứng (sự độc lập của tài liệu so với đơn vị được
kiểm toán); các tài liệu cung cấp có thể đã bị sửa chữa, giả mạo làm mất tính khách
quan nên cần có sự kiểm tra, xác minh bằng các phương pháp kỹ thuật khác.
1.2.4 Quan sát
Là phương pháp được sử dụng để đánh giá một thực trạng hay hoạt động của
đơn vị được kiểm toán. Ví dụ, KTV có thể đi thị sát đơn vị được kiểm toán để có ấn
tượng chung về máy móc thiết bị của đơn vị, quan sát tính cũ mới cũng như sự vận
hành của máy móc; hay quan sát các cá nhân thực hiện nhiệm vụ để đánh giá về thực
tế hoạt động của đơn vị…
 Ưu điểm của kỹ thuật này rất hữu ích trong nhiều phần hành của cuộc
kiểm toán, bằng chứng thu được đáng tin cây.
 Hạn chế của kỹ thuật quan sát: bản thân bằng chứng thu được từ kỹ
thuật quan sát chưa thể hiện tính đầy đủ nên cần đi kèm với kỹ thuật
khác . Kỹ thuật này chỉ cung cấp bằng chứng về phương pháp thực thi
công việc ở thời điểm quan sát, không chắc chắn có được thực hiện ở
các thời điểm khác hay không.
1.2.5 Phỏng vấn
Là quá trình KTV thu thập thông tin bằng văn bản hay bằng lời nói qua việc
phỏng vấn những người hiểu biết về vấn đề mà KTV quan tâm. Ví dụ thẩm vấn
khách hàng về các chính sách kiểm toán nội bộ hoặc hỏi nhân viên về sự hoạt động
của các quy chế này.
17
 Quá trình thu thập bằng chứng qua phỏng vấn thường bao gồm ba giai
đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: lập kế hoạch phỏng vấn. KTV phải xác định được
mục đích, đối tượng và nội dung cần phỏng vấn ( có cụ thể hoá ra
thành những trọng điểm cụ thể cần phỏng vấn, thời gian, địa điểm
phỏng vấn…
- Giai đoạn thứ hai: thực hiện phỏng vấn. KTV giới thiệu lý do cuộc
phỏng vấn, trao đổi về những trọng điểm đã xác định. Khi phỏng vấn

KTV có thể dùng hai loại câu hỏi là câu hỏi “đóng” hoặc câu hỏi
“mở”.
+ Câu hỏi “mở” giúp KTV thu được câu trả lời chi tiết và đầy đủ, được sử
dụng khi KTV muốn thu thập thêm thông tin. Loại câu hỏi này thường có các cụm từ
“thế nào” , “cái gì”, “tại sao?”.
+ Câu hỏi ‘đóng’ giới hạn câu trả lời của người được phỏng vấn; được sử
dụng khi KTV muốn xác nhận một vấn đề đã nghe hay đã biết. Loại câu hỏi này
thường có các cụm từ “có hay không”, “tôi( không) biết rằng…”
- Giai đoạn thứ ba: kết thúc phỏng vấn. KTV cần đưa ra kết luận trên
thông tin có được. Tuy nhiên KTV cũng cần lưu tâm đến tính khách
quan và sự hiểu biết của người được phỏng vấn để có kết luận xác
đáng về bằng chứng thu được.
 Ưu nhược điểm của kỹ thuật phỏng vấn:
+ Ưu điểm của kỹ thuật này là giúp KTV thu thập được các bằng chứng chưa
có nhằm thu thập thông tin phản hồi để củng cố luận cứ của KTV.
+ Nhược điểm của kỹ thuật này là độ tin cậy của bằng chứng không cao do
đối tượng được phỏng vấn chủ yếu là người trong đơn vị được kiểm toán nên thiếu
tính khách quan; chất lượng của kiểm toán cũng phụ thuộc vào trình độ và hiểu biết
của người được hỏi. Do đó, bằng chứng thu được nên được dùng để củng cố các
bằng chứng khác, hay để thu thập các thông tin phản hồi.
18
1.2.6 Tính toán
Là quá trình KTV kiểm tra chính xác về mặt số học trong tính toán và ghi sổ.
Ví dụ, đối với kiểm tra việc tính toán KTV xem xét tính chính xác các hoá đơn, phiếu
nhập, xuất kho, chi phí khấu hao, giá thành, các khoản dự phòng, thuế, số tổng cộng
trên sổ chi tiết và sổ cái… đối với kiểm tra tính chính xác của ghi sổ, KTV đối chiếu
các chứng từ có liên quan để xem cùng một thông tin được phản ánh trên chứng từ
khác nhau, ở những nơi khác nhau.
Kỹ thuật này chỉ quan tâm đến tính chính xác thuần tuý về mặt số học, chưa
chú ý đến tính phù hợp của phương pháp tính được sử dụng. Do đó kỹ thuật này

thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp kỹ thuật khác như xác minh tài
liệu, kiểm tra vật chất, phân tích… trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán.
 Ưu điểm của kỹ thuật này là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao,
xét về mặt số học.
 Nhược điểm là các phép tính và phân bổ đôi khi khá phức tạp, tốn thời
gian đặc biệt khi đơn vị được kiểm toán có qui mô lớn, loại hình kinh
doanh đa dạng, luồng tiền ra vào rất lớn… trong trường hợp đó, để
thực hiện kỹ thuật này KTV cần được trang bị máy tính cá nhân nhiều
số, máy tính xách tay…
1.2.7 Phân tích
Là quá trình so sánh, đối chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác định tính hợp
lý của các số dư trên tài khoản. Các mối quan hệ bao gồm mối quan hệ giữa các
thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa các thông tin tài chính và phi tài chính.
 Kỹ thuật phân tích gồm ba nội dung: dự đoán, so sánh, đánh giá.
+ Dự đoán là việc ước đoán vế số dư tài khoản, giá trị của các chi tiêu, tỷ suất
hoạc xu hướng…
+ So sánh là việc đối chiếu số dự đoán trên với số liệu trên báo cáo.
+ Đánh giá là việc sử dụng các phương pháp chuyên môn và kỹ thuật khác
( phỏng vấn, quan sát) để phân tích và kết luận về các chênh lệch khi so sánh
19
 Kỹ thuật phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán có
hiệu lực bao gồm ba loại: kiểm tra tính hợp lỹ, phân tích xu hướng và
phân tích tỷ suất.
- Kiểm tra tính hợp lý: thường bao gồm những so sánh cơ bản như so
sánh giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, dự đoán… từ kết quả so
sánh, tiến hành điều tra các chênh lệch lớn giữa thực tế và kế hoạch sẽ
giúp KTV phát hiện những sai sót trong báo cáo tài chính hoặc các
biến động lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
+ So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị và các chỉ tiêu bình quân của ngành.
+ Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính.

+ So sánh số liệu của khách hàng và số liệu ước tính của kiểm toán viên.
- Phân tích xu hướng ( phân tích ngang): Là sự phân tích những thay
đổi theo thời gian của số dư tài khoản nghiệp vụ. Phân tích xu hướng
thường được KTV sử dụng qua so sánh thông tin tài chính kỳ trước
hay so sánh thông tin tài chính giữa các tháng trong kỳ hoặc so sánh
số dư ( số phát sinh) của các tài khoản cần xem xét giữa kỳ nhằm phát
hiện những biến động bất thường để qua đó kiểm toán tiến hành tập
trung kiểm tra chi tiết.
- Phân tích tỷ suất (phân tích dọc): Là cách thức so sánh các số dư tài
khoản hoặc các loại hình nghiệp vụ. Phân tích tỷ suất cũng giúp so sánh
tính hợp lý về tình hình tài chính của một công ty nào đó với công ty
khác trong cùng một tập đoàn hay với ngành đó. Thông thường khi
phân tích tỉ suất cũng phải xem xét xu hướng của tỷ suất đó.
1.3 Kiểm toán BCTC năm đầu tiên và kiểm toán BCTC thường niên.
1.3.1 Khái niệm chung về số dư đầu năm tài chính và kiểm toán BCTC năm
đầu tiên.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 510: “Năm đầu tiên là năm được
kiểm toán mà BCTC năm trước đó chưa được kiểm toán hoặc được công ty kiểm
toán khác kiểm toán”.
[1, 510/05]
20
Trong quá trình kiểm toán các BCTC năm đầu tiên, vấn đề đặt ra đối với các
KTV không chỉ là kiểm tra tính chính xác của các số dư cuối năm tài chính mà còn
phải kiểm tra lại số dư đầu năm tài chính. Số dư đầu năm tài chính ảnh hưởng không
nhỏ đến BCTC mà khách hàng cung cấp, số dư cuối năm có chính xác một phần phụ
thuộc sự chính xác của số dư đầu năm mang lại. Số dư đầu năm được lập trên cơ sở
số dư cuối năm trước chuyển sang, nó chịu ảnh hưởng của các sự kiện và nghiệp vụ
kinh tế trong năm trước và chế độ kế toán đã áp dụng trong các năm trước. Đây là cơ
sở để người sử dụng so sánh và đánh giá tình hình biến động trong một năm của
doanh nghiệp. Đối với khách hàng kiểm toán năm đầu tiên,các KTV không có căn cứ

để khẳng định tính đúng đắn của các con số này, do đó thu thập các bằng chứng thích
hợp để kiểm tra lại số dư đầu năm tài chính hết sức được trú trọng.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 510: “Số dư đầu năm là số dư trên
tài khoản kế toán vào thời điểm đầu năm tài chính. Số dư đầu năm được lập dựa trên
cơ sở số dư cuối năm tài chính trước”.
[1, 510/04]
Trong quá trình kiểm toán các khách hàng năm đầu, để đưa ra các kết luận
chính xác về các vấn đề được phát hiện trong quá trình kiểm toán, các KTV phải thu
thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm bảo đảm:
+ Số dư đầu năm không có sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu tới BCTC năm
nay;
+ Số dư cuối năm của năm tài chính trước được kết chuyển chính xác, hoặc
được phân loại lại một cách phù hợp trong trường hợp cần thiết;
+ Chế độ kế toán đã được áp dụng nhất quán hoặc các thay đổi về chế độ kế
toán đã được điều chỉnh trong BCTC và trình bày đầy đủ trong phần thuyết minh
BCTC.
1.3.2 Thu thập bằng chứng kiểm toán về số dư đầu năm tài chính
1.3.2.1 Đối với các BCTC năm trước được công ty kiểm toán khác kiểm toán
KTV năm nay có thể thu thập bằng chứng kiểm toán về số dư đầu năm bằng
cách xem xét hồ sơ kiểm toán của KTV năm trước. Trong trường hợp này, KTV năm
nay cần lưu ý đến năng lực chuyên môn và tính độc lập của KTV năm trước. Nếu báo
21
cáo kiểm toán của KTV năm trước không chấp nhận toàn phần thì KTV năm nay
phải lưu ý đến những nguyên nhân không chấp nhận toàn phần của ý kiến kiểm toán
năm trước.
1.3.2.2Đối với các BCTC năm trước chưa được kiểm toán hoặc đã được
kiểm toán nhưng KTV năm nay không thoả mãn.
 Đối với các BCTC này, KTV phải thực hiện các quy định sau:
- Đối với số dư đầu năm về nợ ngắn hạn và tài sản lưu động, KTV có thể
thu thập được bằng chứng kiểm toán khi thực hiện thủ tục kiểm toán

năm nay. Ví dụ: khi xem xét việc thanh toán các khoản phải thu, phải
trả trong năm nay, KTV sẽ thu thập được bằng chứng kiểm toán về số
dư các khoản phải thu, phải trả đầu năm; đối với hàng tồn kho đầu
năm, KTV phải thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung bằng cách
giám sát kiểm kê thực tế trong năm hoặc cuối năm nay, đối chiếu số
lượng, giá trị nhập, xuất từ đầu năm đến thời điểm kiểm kê thực tế và
tính ra hàng tồn kho đầu năm; đối với số dư tiền gửi ngân hàng, các
khoản phải thu, phải trả cũng có thể thực hiện thủ tục xác nhận số dư
đầu năm của người thứ ba…Sự kết hợp các thủ tục kiểm toán này sẽ
cung cấp cho KTV đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
- Đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư và nợ dài hạn, KTV phải
kiểm tra các chứng từ chứng minh cho số dư đầu năm. Trong một số
trường hợp nhất định, đối với các khoản đầu tư và nợ dài hạn, KTV có
thể lấy xác nhận về số dư đầu năm từ bên thứ ba hoặc thực hiện các thủ
tục kiểm toán bổ sung.
1.3.2.3 Kết luận và lập báo cáo kiểm toán
Sau khi tiến hành các thủ tục kiểm toán nêu trên, nếu KTV vẫn không thể thu
thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về số dư đầu năm, thì báo cáo kiểm toán
BCTC năm đầu tiên sẽ được lập theo một trong các loại sau: Báo cáo kiểm toán loại
“ý kiến chấp nhận từng phần” (hoặc “ý kiến ngoại trừ”); Báo cáo kiểm toán loại “ý
kiến từ chối” (hoặc “ý kiến không thể đưa ra ý kiến”)
22
Trường hợp số dư đầu năm có nhiều sai sót ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC
năm nay thì KTV phải thông báo cho Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị và sau
khi được sự đồng ý của Giám đốc, thông báo cho KTV năm trước (nếu có).
Trường hợp số dư đầu năm có những sai sót ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC
năm nay như nói trên, nhưng đơn vị được kiểm toán không xử lý và không trình bày
trong thuyết minh BCTC thì KTV đưa ra “ý kiến chấp nhận từng phần” hoặc “ý kiến
không chấp nhận”.
Trường hợp chế độ kế toán của năm nay thay đổi so với chế độ kế toán năm

trước và sự thay đổi đó đơn vị được kiểm toán không xử lý và không trình bày đầy
đủ trong thuyết minh BCTC thì KTV đưa ra “ý kiến chấp nhận từng phần” hoặc “ý
kiến không chấp nhận”.
Trường hợp báo cáo kiểm toán năm trước không đưa ra “ý kiến chấp nhận
toàn phần”, thì KTV phải xem xét lý do dẫn đến ý kiến đó và ảnh hưởng của nó đến
BCTC năm nay. Ví dụ, do giới hạn phạm vi kiểm toán hoặc không có khả năng xác
định số dư hàng tồn kho đầu năm nhưng điều đó không ảnh hưởng trọng yếu đến
BCTC năm nay thì KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Nếu lý do không
được chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán năm trước vẫn còn và ảnh hưởng
trọng yếu đến BCTC năm nay thì KTV phải đưa ra ý kiến phù hợp trong báo cáo
kiểm toán năm nay.
1.3.3 So sánh giữa kiểm toán BCTC năm đầu tiên và kiểm toán BCTC
thường niên.
Thứ nhất, vấn đề khác biệt cơ bản giữa kiểm toán BCTC năm đầu tiên và kiểm
toán BCTC thường niên đó là BCTC năm trước. Trong quá trình kiểm toán BCTC
năm đầu tiên, BCTC năm trước chưa được kiểm toán hoặc được kiểm toán bởi một
công ty khác, còn đối với kiểm toán BCTC thường niên, BCTC năm trước đã được
KTV của công ty thực hiện kiểm toán.
Thứ hai, vấn đề đặc biệt cần lưu ý trong kiểm toán BCTC năm đầu tiên là số
dư đầu năm. Trong quá trình kiểm toán BCTC năm đầu tiên, số dư đầu năm là căn cứ
để đánh giá số dư cuối năm. KTV phải thu thập bằng chứng liên quan đến số dư đầu
23
năm thông qua các thủ tục bổ sung, xem lại hồ sơ kiểm toán năm trước hoặc liên hệ
với các KTV tiền nhiệm. Vì vậy, khi kiểm toán năm đầu tiên, KTV cần chú ý tới các
chuẩn mực kiểm toán có liên quan đến việc thu thập bằng chứng đối với số dư đầu
năm và liên hệ với KTV tiền nhiệm.
Tóm lại, kiểm toán BCTC đối với khách hàng thường niện thuận lợi hơn so
với kiểm toán BCTC cho những khách hàng năm đầu tiên.
- KTV có thể dễ dàng thu thập các thông tin chung về đơn vị được kiểm
toán như đặc điểm hoạt động kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý, hệ

thống kiểm soát nội bộ…trong hồ sơ kiểm toán chung mà KTV của
công ty đã thu thập được trong kiểm toán BCTC năm trước. Việc liên
hệ với các KTV tiền nhiệm cũng dễ dàng hơn so với liên hệ với các
KTV tiền nhiệm của công ty khác.
- KTV khi thực hiện kiểm toán đối với khách hàng thường niện, thông
qua quá trình thực hiện kiểm toán BCTC năm trước sẽ nắm bắt được
kỹ hơn những vấn đề kiểm toán đã được phát hiện trong các năm kiểm
toán trước, nhờ đó sẽ có kinh nghiệm hơn trong việc thu thập các bằng
chứng kiểm toán liên quan đến vấn đề đó. Do vậy quá trình đánh giá
rủi ro và mức trọng yếu sẽ dễ dàng và gọn nhẹ hơn rất nhiều.
- KTV trong kiểm toán BCTC thường niên có căn cứ tin tưởng về số dư
đầu năm, sẽ không phải thực hiện các thủ tục kiểm toán số dư đầu
năm. Vì vậy sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí.
- Đơn vị được kiểm toán năm trước đã được làm quen với cách thực
thực hiện của KTV, do vậy việc phối hợp cũng như cung cấp tài liệu
như chứng từ, sổ sách, các thông tin qua quá trình phỏng vấn giữa đơn
vị được kiểm toán với các KTV thuận lợi hơn.
Tóm lại, trong quá trình kiểm toán BCTC năm đầu tiên, bao giờ các KTV và
công ty kiểm toán cũng phải thực hiện một khối lượng lớn các công việc và các thủ
tục kiểm toán phức tạp hơn nhiều so với kiểm toán thường niện. Hơn nữa kiểm toán
năm đầu đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng uy tín cho công ty
24
kiểm toán đối với các đơn vị được kiểm toán, do vậy yêu cầu chất lượng kiểm toán
luôn được đặt lên hàng đầu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG CÁC KỸ THUẬT THU THẬP BẰNG
CHỨNG KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI CÔNG TY AASC
2.1 Tổng quan về công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và
Kiểm toán (AASC)
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của AASC

Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán có tên giao
dịch tiếng Anh là Auditing and Accounting Financial Consultancy Service Company
(gọi tắt là AASC) - thành viên của INPACT quốc tế - là một trong hai tổ chức đầu
tiên tại Việt Nam hoạt động độc lập trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và
kiểm toán, thành lập theo Quyết định số164 TC/QĐ/TCCB ngày 13 tháng 5 năm
1991 của Bộ Tài chính.
Khi mới thành lập, Công ty có tên gọi là Công ty Dịch vụ Kế toán (Accounting
Service Company – ASC) chức năng chính là cung cấp dịch vụ kế toán. Ngày 14
tháng 9 năm 1991 Công ty chính thức đi vào hoạt động. Vào tháng 3 năm 1992, Công
ty quyết định thành lập chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm mở rộng và tiếp
cận tốt hơn với thị trường tiềm năng: tư vấn kế toán. Đến tháng 4 năm 1993 Công ty
tiếp tục mở rộng các chi nhánh tại Vũng Tàu và Đà Nẵng.
25
Bước vào quá trình hội nhập, trước nhu cầu ngày càng tăng về dịch vụ kiểm
toán, ngày 14 tháng 9 năm 1993, theo Quyết định số 639-TC/QĐ/TCCB của Bộ
trưởng Bộ Tài chính, Công ty Dịch vụ Kế toán (ASC) đổi tên thành Công ty Dịch vụ
Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) với tổng số vốn gần 300 triệu đồng.
Cùng với đó, Công ty cung cấp thêm các dịch vụ kiểm toán, dịch vụ tư vấn thuế, tài
chính, dịch vụ đào tạo và công nghệ thông tin bên cạnh lĩnh vực dịch vụ cung cấp ban
đầu về kế toán.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, trong xu thế bình thường hóa
và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, thị trường kiểm toán ngày càng phát triển và đa
dạng hóa về cả loại hình và dịch vụ, một số chi nhánh của Công ty đã tách ra thành
lập công ty riêng.Tháng 3 năm 1995, chi nhánh Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh
tách ra thành lập Công ty Tư vấn Tài chính và Kiểm toán Sài Gòn (AFC). Cũng trong
thời gian này, chi nhánh Công ty tại Đà Nẵng kết hợp với chi nhánh Đà Nẵng của
Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) thành lập Công ty Tư vấn và Kiểm toán
(A&C).
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của mình, AASC tiếp tục cho mở rộng các
chi nhánh và văn phòng đại diện ở một số tỉnh thành phố. Ngày 14 tháng 4 năm 1995,

chi nhánh Thanh Hóa chính thức nhận giấy phép thành lập và đi vào hoạt động. Ngày
2 tháng 2 năm 1996, văn phòng đại diện của Công ty tại Hải Phòng được thành lập.
Nhưng từ 31 tháng 12 năm 2004, chi nhánh tại Hải Phòng không còn hoạt động nữa.
Ngày 13 tháng 3 năm 1997, Công ty thành lập văn phòng đại diện tại Thành phố
Hồ Chí Minh thay thế cho chi nhánh cũ đã tách ra. Tháng 5 năm 1998, Công ty nâng
cấp văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh thành một chi nhánh chính thức
của mình. Cũng trong năm này, Công ty mở thêm chi nhánh ở Quảng Ninh.
Tháng 4 năm 2005, AASC trở thành hội viên hội kiểm toán hành nghể Viêt
Nam (VACPA).
Tháng 7 năm 2005, AASC chính thức gia nhập Tổ chức Kế toán và Kiểm toán
INPACT Quốc tế (Inpact International).
Theo Quyết định số 718/QĐ - UBCK ngày 30/11/2006, AASC được Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước chấp nhận là tổ chức kiểm toán độc lập tham gia kiểm toán

×