Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận Lý luận về hàng hóa sức lao động và việc vận dụng để phát triển thị trường lao động ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.29 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Lý luận về hàng hóa sức lao động và việc vận dụng
để phát triển thị trường lao động ở nước ta hiện nay
Họ và tên: Chu Bình Nhi
Lớp: Anh 13 – KTKT –K59
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Văn Vinh

HÀ NỘI – THÁNG 6 NĂM 2021


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
1. Hàng hóa
2. Sức lao động và điều kiện trở thành hàng hóa
3. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động

CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM NƯỚC TA
HIỆN NAY
1. Thị trường lao động
2. Thị trường lao động ở nước ta hiện nay
2.1.
Thực trạng thị trường lao động ở nước ta
2.2.
Thành tựu và hạn chế
2.3.
Giải pháp



KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI NÓI ĐẦU
Chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam 20 năm qua đã mang lại những thay đổi về
chất liên quan đến phân bổ và sử dụng lực lượng lao động. Thị trường lao động
đã được công nhận về mặt pháp luật và bước đầu có những hoạt động cụ thể.
Trên thực tế, sức lao động đã dần được coi là một loại hàng hóa, thể hiện qua
việc cơng nhận quyền tự do tìm việc làm của người lao động và quyền thuê
mướn người lao động làm việc cho mình của các chủ sử dụng lao động.
Tuy nhiên, đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là quá trình
biến đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Nền kinh
tế thị trường đang thoát dần khỏi những ràng buộc về nhận thức và thực tiễn cũ.
Trong những khó khăn lớn về nhận thức mà chúng ta đang gặp phải có vấn đề
bản chất của lao động và thị trường lao động. Từng quen với quan niệm coi lao
động là một giá trị xã hội và tinh thần cao nhất, một giá trị tự thân, thốt ra
ngồi sự trao đổi, nhiều người không khỏi bỡ ngỡ khi thay đổi quan niệm về lao
động, bởi vì từ nay lao động cũng khơng thể nằm bên ngồi các quan hệ thị
trường. Dù có mang những phẩm chất đặc biệt thế nào đi nữa, sức lao động vẫn
là một thứ hàng hóa để mua bán theo giá trị của nó trên thị trường, xét trong mối
tương quan với các hàng hóa khác và ngay cả với chính nó. Vì vậy, việc tiếp tục
nhận thức, vận dụng hợp lý lý luận hàng hóa sức lao động, về thị trường lao
động là một vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện
nay.
Do đó em lựa chọn đề tài “Lý luận về hàng hóa sức lao động và việc vận
dụng để phát triển thị trường lao động ở nước ta hiện nay” để có thể phân tích rõ
từ đó rút ra kinh nghiệm, bài học, cũng như biện pháp hiệu quả để phát triển thi
trường lao động của nước ta hiện nay



CHƯƠNG I: LÝ LUẬN HÀNG HĨA SỨC LAO ĐỘNG
1.

Hàng hóa

*Khái niệm:
Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hóa là sản phẩm của lao động, thơng
qua trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người.
Hàng hóa có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất.
* Các thuộc tính của hàng hóa:
Để đồ vật trở thành hàng hóa cần phải có:
- Tính ích dụng đối với người dùng.
- Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động.
- Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.
Sự thay đổi và phát triển nhận thức đối với đời sống kinh tế dẫn đến cách
hiểu hàng hóa không như các nhà kinh tế cổ điển xác định. Phạm trù hàng hóa
mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật thể và tiến sát đến gần phạm trù
giá trị. Tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu nói chung, quyền sở hữu trí tuệ nói riêng,
sức lao động, v.v. được xem là hàng hóa trong khi chúng khơng nhất thiết có
những tính chất như đã liệt kê trên.


2.

Sức lao động và điều kiện trở thành hàng hóa

*Sức lao động:
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một

con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. Sức lao động là cái có trước
cịn lao động là q trình vận dụng sức lao động.
* Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Theo C.Mác: “ Sức lao động , đó là tồn bộ các thể lực và trí
lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động
của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho
hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”.
Trong bất kì xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ
bản để sản xuất. Nhưng khơng phải trong bất kì điều kiện nào,
sức lao động cũng trở thành hàng hóa. Sức lao động chỉ trở
thành hàng hóa khi có đủ các điều kiện sau:
- Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình
như một hàng hóa.
- Thứ hai, người lao động khơng cịn có tư liệu sản xuất cần
thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng khơng có của cải gì


khác, để tồn tại thì buộc phải bán sức lao động của mình để
sống.


*Hàng hóa sức lao động:
Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện
đó. Một mặt, cách mạng tư sản đã giải phóng người lao động
khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến.
Mặt khác, do tác động của quy luật giá trị và các biện pháp tích
luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản
xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất
vào trong tay một số ít người.

Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức
thuê mướn. Quan hệ làm thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ
nghĩa tư bản, nhưng không phổ biến và chủ yếu được sử dụng
trong việc phục vụ nhà nước và quốc phịng. Chỉ đến chủ nghĩa
tư bản nó mới trở nên phổ biến, thành hệ thống tổ chức cơ bản
của toàn bộ nền sản xuất xã hội.
Sự cưỡng bức phi kinh tế được thay thế bằng hợp đồng của
những người chủ sở hữu hàng hố, bình đẳng với nhau trên cơ
sở “thuận mua, vừa bán”. Điều đó đã tạo ra khả năng khách
quan cho sự phát triển tự do cá nhân của các cơng dân và đánh
dấu một trình độ mới trong sự phát triển tự do cá nhân của các
công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của


văn minh nhân loại. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều
kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản .

3. Thuộc tính của hàng hóa lao động

Cũng giống như các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động
cũng có hai thuộc tính, đó là: giá trị và giá trị sử dụng.


Giá trị hàng hóa sức lao động:
Giá trị của hàng hóa sức lao động, cũng do thời gian lao

động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất hàng hóa sức
lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng
lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người
cơng nhân phải tiêu thụ một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định

về ăn, mặc, ở, học nghề… Ngồi ra người lao động cịn phải
thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái họ. Vì vậy,
thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất hàng hóa sức
lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói cách khác,
giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp thông qua
giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra
sức lao động.


Hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt, giá trị của nó
bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Lượng giá trị hàng hóa
sức lao động được hợp thành từ những bộ phận :
-

Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh
thần cần thiết để tái tạo sức lao động, duy trì đời sống của

-

bản thân người cơng nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần
cần thiết cho con cái người công nhân.

Để biết sự biến đổi của giá trị hàng hóa sức lao động trong
một thời kì nhất định cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động,
đối lập nhau đến sự biến đổi giá trị sức lao động.




Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là cơng dụng của
nó làm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh của nhà tư bản.
Giá trị sử dụng được thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức là q trình lao động của người cơng nhân. Q trình
này khác với hàng hóa thơng thường ở chỗ, đó là, trong q
trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa thơng thường, thì cả giá
trị và giá trị sử dụng của nó sẽ giảm dần và tiêu biến mất dần
theo thời gian. Trong khi, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao
động lại là q trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó,


sáng tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức
lao động.
Từ quá trình tiêu dùng sức lao động, tạo ra một lượng giá trị
hàng hóa dơi ra so với giá trị sức lao động, đó là giá trị thặng dư
mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của
hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc
sinh ra giá trị, tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Đó chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của cơng thức
chung của tư bản. Chính đặc điểm này đã làm cho sự xuất hiện
của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ
chuyển hóa thành tư bản.


CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM NƯỚC
TA HIỆN NAY
1.


Thị trường lao động

*Khái niệm:
Thị trường lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức
lao động (người công nhân làm thuê) và người mua sức lao động (người sử
dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả ( tiền công,
tiền lương) và các điều kiện làm việc khác trên cơ sở một hợp đồng lao động
bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận
khác.
*Bản chất, đặc trưng của thị trường lao động
- Một là, hàng hóa trên thị trường lao động là loại hàng hóa đặc biệt, vì khác
với hàng hóa thơng thường, hàng hóa sức lao động gắn chặt với người có sức
lao động (khơng thể tách tời người lao động) cả về số lượng và chất lượng. Dù
đã được trao đổi trên thị trường hay chưa thì nó vẫn địi hỏi phải thường xuyên
được cung cấp những điều kiện về vật chất, tinh thần để tồn tại và không ngừng
phát triển. Do người lao động vẫn giữa quyền kiểm soát số lượng và chất lượng
sức lao động, được tích lũy, sáng tạo trong quá trình lao động nên việc duy trì,
phát triển các mối quan hệ lao động là rất cần thiết, nhằm nâng cao năng suất,
hiệu quả của quá trình lao động. Người sử dụng lao động phải xây dựng một cơ


chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động phù hợp với sự phát
triển của doanh nghiệp và xã hội, trong đó tiền lương, tiền thường,…là các yếu
tố quan trọng đến sự phát triển hàng hóa sức lao động.
- Hai là, tình khơng đồng nhất của hàng hóa sức lao động trên thị trường lao
động: Các hàng hóa, dịch vụ đặc bịt là hàng hóa cơng nghiệp thường được
chuẩn hóa cao, đảm bảo tính đồng nhất về mẫu mã, chất lượng. Những hàng hóa
sức lao động không đồng nhất. Mỗi người lao động khác nhau về tuổi tác,
nguồn gốc, giới tính, trí thơng minh, sự khéo léo, thể lực, động lực làm việc và

chúng đều có ảnh hưởng đến năng suất, hiệu lực lao động. Đồng thời, người lao
động cịn có sự khác nhau về trình độ văn hóa, trình độ chun mơn kỹ thuật, số
năm kinh doanh công tác. Mỗi người lao động là tổng hợp các năng lực bẩm
sinh, sức lao động tự có cộng với các kỹ năng chuyên biệt tiếp thu được thông
qua giáo dục, đào tạo. Yếu tố kỹ năng thường được gọi là vốn nhân lực của từng
người.
- Ba là, giá cả sức lao động trên thị trường lao động do quan hệ cung-cầu lao
động xác định: Sự hoạt động của quy luật cung- cầu lao động trên thị trường xác
định giá cả sức lao động, được biểu hiện thông qua trạng thái quan hệ thỏa
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về tiền lương, tiền công.
Khi cung lao động lớn hơn cầu lao động, giá cả sức lao động có thể ở mức thấp.
Ngược lại, ở thời điểm cầu lao động lớn hơn cung lao động, đặc biệt đối với


người lao động có trình độ chun mơn kỷ thuật cao, ở dạng “q hiếm” thì sức
lao động sẽ có giá cao hơn.
- Bốn là, thị trường lao động hoạt động đa dạng với nhiều phân lớp khác nhau:
ngoài thị trường lao động chung tồn quốc, người ta cịn xác định các phân
mảng thị trường khác như thị trường lao động theo lãnh thổ địa lý, thị trường
lao động theo trình độ kỹ năng, Xuất phát từ đặc điểm cung- cầu lao động khác
nhau theo vùng, khu vực, địa phương, do trình độ phát triển nguồn nhân lực,
phát triển kinh tế của các vùng, khu vực có sự khác nhau, nên thường tạo ra
những ranh giới thị trường lao động. Vì thế trên thị trường lao động của một số
nước có thể ở vùng này, vùng khác hoặc khu vực này, khu vực khác, mức độ
hoạt động của quy luật cung- cầu lao động có thể khác nhau, sơi động hoặc kém
sôi động.
- Năm là, vị thế yếu hơn của người lao động trong đàm phán trên thị trường lao
động. Trong các quan hệ giao dịch hay đàm phán trên thị trường lao động, cán
cân thường nghiêng về phía người sử dụng lao động, vì ở các nước đang phát
triển, số lương những người đi tìm việc làm thường nhiều hơn số lượng cơ hội

việc làm sẵn có (cung thường lớn hơn cầu). Người lao động đi tìm việc khơng
có tự liệu sản xuất, nguồn lực hạn chế phải bán sức lao động, trong khi đó người
sử dụng lao động có nhiều khả năng chờ đợi và lựa chọn lao động hơn. Trên thị
trường lao động với cung lao động dồi dào thì người sử dụng lao đọng thường ở
thế mạnh trong đàm phán với người lao động, thường có vị trí quyết định về các


vấn đề trong quan hệ lao động. Đối với các loại lao động khan hiếm trên thị
trường lao động như lao động lành nghề cao, lao động đòi hỏi khả năng đặc
biệt…thì vị thế của người lao động đạt được sự cân bằng hơn với người sử dụng
lao động trong thỏa thuận và đàm phán về các nội dung hợp đồng lao động.
*Ý nghĩa của thị trường lao động:
Phát triển thị trường lao đọng có ý nghĩa tác động mạnh mẽ đến người lao
động, và ảnh hưởng trực tiếp tới việc thu hút đầu tư, tới sự phát triển kinh tế của
một quốc gia, hoặc một địa phương.
– Sự phát triển của thị trường lao động với nguồn nhân lực dồi dào về số lượng
hứa hẹn đáp ừng đủ nhu cầu về nhân lực cho nhà đầu tư để đảm bảo hoạt động
sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của họ. Lao động là yếu tố đầu vào quan
trong, có ý nghĩa quyết định đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác
trong quá trình sản xuất kinh doanh, cho nên nhà đầu tư thường quan tâm trước
hết đến nguồn lao động.
– Một thị trường lao động với nguồn cùng lao động đầy đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng sẽ hấp dẫn đặc biệt các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Trong bối
cảnh thế giới đang dần tiến đến nền kinh tế tri thức, yếu tố con người với trình
độ chun mơn phù hợp sẽ quyết định tính cạnh tranh doanh nghiệp, doanh
nghiệp nào có nguồn nhân lực được đào tạo, trình độ chun mơn, kỹ thuật cao,
đáp ứng tốt yêu cầu công việc sẽ đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh.


– Một thị trường lao động với mặt bằng giá cả sức lao động phù hợp sẽ tạo sức

hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Chi phí lao động chiếm một phần không nhỏ trong
giá thành sản phẩm, dịch vụ và tỉ lệ nghịch với lợi nhuận mà nhà đầu tư dự kiến
thu được.
– Một thị trường lao động với các điều kiện giao dịch thuận lợi giữa cung và
cầu lao động cũng sẽ kích thích hoặc thu hút nhà đầu tư.

2. Thị trường lao động ở nước ta hiện nay
Ngoài một số đặc điểm của thị trường lao động nói chung, thị trường lao
động Việt Nam cịn có những đặc điểm sau:
-

Việt Nam có khoảnh 45 triệu người trong độ tuổi lao động. Lực lượng lao
động trẻ hùng hậu, trình độ văn hóa khá và đồng đều, khả năng tiếp thu

-

công nghệ nhanh, chấp nhận mức lương thấp hơn các thị trường khác.
Về mặt số lượng, các doanh nghiệp, nhà đầu tư có q nhiều lựa chọn đối
với cơng nhân hay nhân viên văn phòng, nhưng chất lượng của họ khơng

-

phải lúc nào cũng đáp ứng được.
Trình độ chun mơn, tay nghề của người lao động cịn thấp, ý thức, tác
phong công nghiệp chưa cao. Phần lớn số lao động chưa được đào tạo
nghề sống ở nông thông, gây khó khăn cho việc thúc đất chuyển dịch cơ

-

cấu lao động.

Thị trường lao động cả nước nói chung vẫn đang chập chững những bước
đi đầu tiên, gần như hoàn toàn tự phát. Các hoạt động dịch vụ liên quan


đến thị trường lao động chưa hồn thiện, quy mơ thị trường lao động còn
hạn chế.

2.1. Thực trạng thị trường lao động nước ta
Lực lượng lao động nước ta khá đơng đảo nhưng có sự phân bố khơng đồng
đều giữa thành thị và nông thôn; giữa đồng bằng, ven biển và miền núi; không
đồng đều giữa cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Hiện nay ở Việt Nam
cung về sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ cịn tiếp tục vượt trong tương lai,
điều đó tạo ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Hàng năm cung sức
lao động tăng từ 3,2% đến 3,5%, như vậy mỗi năm chúng ta sẽ có thêm khoảng
1,3 đến 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Đó là hậu quả của việc bùng nổ
dân số trong những năm vừa qua. Đây là những bất cập ngày càng lớn giữa quy
mô chung và cấu trúc “cung-cầu” sức lao động trên thị trường lao động.
Lao động nước ta cần cù, chịu khó, ln sáng tạo, có tinh thần ham học hỏi,
kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ (đặc biệt trong các ngành truyền thống
như Nông – lâm – ngư nghiệp). Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao
nhờ những thành tựu phát triển trong văn hóa, giáo dục và y tế, theo báo cáo cho
thấy từ năm 1996 đến năm 2005 chất lượng lao động tăng từ 12,3% đến 25% .
Đặc biệt lao động nước ta chủ yếu lao động trẻ, năng động, nhạy bén và tiếp thu
nhanh khoa học kĩ thuật.
Tuy nhiên, chất lượng lao động nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Về mặt sức
khỏe, thể lực của người kém xa so với các nước trong khu vực. Về tỷ lệ lao


động đã qua đào tạo của chúng ta hiện nay còn rất thấp. Theo Tổng cục thống kê
năm 2005 tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 75%, con số này ở mức rất cao.

Mặc dù cả nước có khoảng 1.300 trường cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm
dạy nghề nhưng chất lượng đào tạo chưa đạt chuẩn quốc tế, chương trình giảng
dạy khơng phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu cho các khu công nghiệp, khu
chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Hơn nữa có một sự chênh lệch rất lớn giữa
tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn. Trong khi ở thành thị
là 30.6% thì ở nơng thơn chỉ chiếm 8.5% (năm 2010).
Về ý thức kỷ luật lao động của người lao động còn thấp do nước ta là một
nước nơng nghiệp nên phần lớn người lao động cịn mang nặng tác phong sản
xuất của một nền nhà nước tiểu nông. Người lao động chưa được trang bị các
kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, khơng có khả nặng hợp tác và gánh
chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.

2.2. Thành tựu và hạn chế
Thị trường lao động Việt Nam được hình thành, phát triển chính thức từ
năm 1986 đến nay, từng bước đã tạo được khuôn khố luật pháp, thể chế, chính
sách thị trường lao động; quy mơ và chất lượng cung lao động tăng lên, chất
lượng việc làm ngày dần được cải thiện, từng bước chính thức hóa việc làm phi
chính thức; cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, thu nhập, tiền lương được cải
thiện, năng suất lao động và tính cạnh tranh của lực lượng lao động được nâng


lên. Từ năm 2010 đến nay, tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước duy trì dưới 3%,
tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%.
Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập như: chất
lượng việc làm, chất lượng lao động ở nước ta còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật trình độ cao, lao
động trong một số ngành cơng nghiệp mới; có sự mất cân đối cung - cầu lao
động cục bộ giữa các vùng, khu vực, ngành nghề kinh tế, mặc dù số lượng lao
động khơng có việc làm lớn nhưng một số ngành nghề, địa phương không tuyển
được lao động;...

Nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam
do: (i) hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách được xây dựng
chưa bao phủ được đầy đủ các chủ thể trên thị trường lao động, chưa nắm bắt
được xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động dưới sự tác động của bối cảnh mới,
chưa xác định được cơ chế vận hành của chính sách để đạt được những kết quả
như kỳ vọng; (ii) chất lượng tăng trưởng kinh tế cịn hạn chế, chưa tạo ra nhiều
việc làm có chất lượng, năng suất và tính bền vững cao. Tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn chậm, khả năng ứng dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất cịn
thấp nên chưa tạo đột phá để kích thích chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
hiện đại; (iii) cơ chế kết nối cung-cầu và tự cân bằng của thị trường còn yếu, mà
lý do chính là hệ thống thơng tin trên thị trường lao động chưa được phát triển
đầy đủ; (iv) các định chế an sinh, bảo hiểm của thị trường lao động mới hình
thành và phát triển thực sự từ 10 năm qua, thể chế và năng lực vận hành đều còn


yếu và có độ bao phủ thấp, chưa đạt hiệu quả cao; (v) thị trường lao động chưa
có sự liên thơng, kết nối cao.

2.3. Giải pháp
Để khắc phục tình trạng trên và đưa thị trường lao động Việt Nam phát triển
ổn định thì cần phải thực hiện một số biện pháp, đó là : Vận dụng lí luận hàng
hóa sức lao động phù hợp với quá trình hội nhập và xu hướng phát triển của nền
kinh tế tri thức và việc vận dụng đó phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ
lao động có trình độ cơ cấu hợp lí, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao về mọi trình độ tay
nghề về mọi mặt cho người lao động, tạo cho họ tính tự giác, sáng tạo trong lao
động. Đồng thời tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng đó với nhiều hình thức khác
nhau.
Cần giáo dục cho mọi người thái độ yêu quý, tự giác, kỉ luật lao động, loại
bỏ thói lười biếng ỷ lại và khuyến khích mọi người chủ động tìm tịi việc làm

cho mình. Cần chú trọng đến cơng tác chăm lo các nhu cầu về vật chất và tinh
thần cho người lao động, chú trọng đến chính sách tiền lương và các hoạt động
của các tổ chức đoàn thể. Thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng việc
phát triển hệ thống thông tin, giớ thiệu việc làm, tăng cường, củng cố nâng cao
quản lí nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật


và bộ máy quản lí có hiệu quả hơn, thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành
kinh tế, cụ thể, giảm tỉ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta có thấy được tầm quan trọng của hàng hoá
sức lao động. Sự kết hợp hài hịa giữa lý luận về hàng hóa sức lao động của
Mác với thực tiễn thị trường sức lao động ở Việt Nam vừa là nhiệm vụ
hàng đầu của nền kinh tế lại vừa là mục tiêu quan trọng nhằm phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí
thức tinh hoa, có đủ năng lực để thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đóng góp tích cực nhằm hình thành và phát triển“nền
kinh tế tri thức” của Việt Nam.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Internet.



×