Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Luận văn xây dựng đời sống văn hóa ở huyện mỹ đức, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.35 KB, 105 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA
Ở HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI

Khóa luận tốt nghiệp
ngành Người hướng
dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Khóa
Lớp
QUẢN LÝ VĂN

HĨA TS.
NGUYỄN TUỆ
CHI NGUYỄN THỊ
THUẬN
1405QLVB045
2014-2018
ĐH QLVH 14B

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp “Xây dựng đời sống văn hóa ở


huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” là cơng trình của tơi. Các số liệu thống kê, kết quả
nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là khách quan, trung thực.
Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Thuận


LỜI CẢM ƠN
Trải qua thời gian và quá trình nghiên cứu, với sự hướng dẫn tận tình của các thày
cơ trong Khoa Văn hóa - Thơng tin và Xã hội, sự cố gắng khắc phục khó khăn của bản
thân, tơi đã hồn thành khóa luận tốt nghiệp “Xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội”. Qua đây tôi đã rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích
trong cơng tác quản lý, xây dựng đời sống văn hóa nói chung và xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở nói riêng đồng thời giúp tơi hiểu rõ hơn lý thuyết, kiến thức đã được nhà
trường trang bị, áp dụng vào thực tiễn công việc.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thày, các cô trong Khoa Văn hóa - Thơng tin và xã
hội đã định hướng, tư vấn, giúp đỡ chúng tơi trong q trình lựa chọn và thực hiện khóa
luận tốt nghiệp. Tơi xin bày tỏ sự biết ơn tới TS. Nguyễn Tuệ Chi, giảng viên hướng
dẫn, đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận của mình. Xin chân thành
cảm ơn các bác, các cơ chú, anh chị của phịng Văn hóa Thơng tin và Trung tâm Văn
hóa thể dục thể thao huyện cùng toàn thể nhân dân huyện Mỹ Đức đã nhiệt tình giúp đỡ
tơi trong việc tìm hiểu nghiên cứu cơng tác xây dựng đời sống văn hóa của huyện.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2018
TÁC GIẢ


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA.....6
VÀ KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN MỸ ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI...........6
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa.......................................... 6
1.2. Cơ sở pháp lý của việc xây dựng đời sống văn hóa...............................15
1.3. Khái quát về huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội.................................18
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA .................................................................................................................. 25
Ở HUYỆN MỸ ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................................25
2.1. Hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động ........................................... 25
2.2. Hoạt động văn nghệ quần chúng ........................................................... 30
2.3. Hoạt động thể dục thể thao .................................................................... 31
2.4. Hoạt động của các thiết chế văn hóa ..................................................... 33
2.5. Hoạt động sách báo, thư viện ................................................................. 35
2.6. Phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”............... 36
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở HUYỆN MỸ ĐỨC THÀNH PHỐ HÀ NỘI.......54
3.1. Nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ
Đức - thành phố Hà Nội .................................................................................. 54
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa ở huyện
Mỹ Đức - thành phố Hà Nội ........................................................................... 64
3.3. Một số khuyến nghị ................................................................................ 71
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 77
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Viết tắt
TW
A

Đọc là
Trung ương
Ảnh

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

Văn hóa - Thể thao
và Du lịch

TDTT
CT
KHHGĐ
CP

Thể dục thể thao
Chỉ thị
Kế hoạch hóa gia đình
Chính Phủ

TTg


Thủ tướng

CLB

Câu lạc bộ

ANTT

An ninh trật tự

ANTQ

An ninh tổ quốc

QPPL

Quy phạm pháp luật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu dài
đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và chú trọng. Một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai trị và động lực của văn
hóa để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển ở từng địa phương, làm cho văn hóa thực sự
là nền tảng của xã hội.
Cho đến nay, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa đã trở nên rất quen thuộc đối với
mọi người dân ở mọi miền đất nước. Trong những giai đoạn lịch sử cách mạng trước
đây, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã có sự quan tâm nhất định, nhưng nói
chung chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới.

Bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
rộng giao lưu về kinh tế và văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới, vấn đề bản sắc văn
hóa dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa cần được nhận thức một cách sâu sắc và tồn
diện hơn. Ở các vùng nơng thơn, miền núi xa xơi trong q trình chuyển mình phát triển
cùng với sự phát triển chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế điều này lại
càng có ý nghĩa quan trọng. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cũng có ý nghĩa là hướng
con người tới chân - thiện - mỹ.
Đối với mỗi địa phương, văn hóa chính là nguồn lực nội sinh góp phần phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn, thực hiện có hiệu quả mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững. Do đó, phát triển kinh tế - xã hội
phải đi đôi với phát triển văn hóa, trong đó xác định xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp văn hóa của Đảng và Nhà nước ta.
Huyện Mỹ Đức là một huyện thuộc thành phố Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội 52
km theo đường QL21B. Huyện Mỹ Đức có mật độ dân số trung bình, an ninh chính trị
ổn định, kinh tế đang trên đà phát triển. Nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân ngày
càng cao. Giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy. Công tác xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở bước đầu đi vào nề nếp, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển
đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của người dân huyện Mỹ Đức.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở ở huyện Mỹ Đức cịn nhiều tồn tại cần khắc phục từ quan điểm chỉ đạo cho đến việc
triển khai thực tiễn ở từng khu dân cư.

1


Nhận thức được tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết trên trong việc xây dựng
đời sống văn hóa hiện nay ở địa phương, nên tôi đã chọn đề tài “Xây dựng đời sống văn
hóa ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” làm khóa luận tốt nghiệp. Qua đề tài này, tôi
đã nghiên cứu chỉ ra thực trạng đời sống văn hóa của nhân dân huyện Mỹ Đức, đồng
thời chỉ ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức

hiện nay, góp phần cơng sức nhỏ bé của mình để hạn chế những tồn tại trong sinh hoạt,
đời sống văn hóa ở địa phương, góp phần làm phát triển hoạt động văn hóa, hướng đời
sống nhân dân ngày càng phát triển nhưng vẫn được bản sắc và phát huy nền văn hóa
dân tộc, xóa đói giảm nghèo, giảm dần tệ nạn xã hội, nâng cao dân trí, ổn định trật tực
xã hội , thực hiện tốt chủ trương đường lối chính sách pháp luật của Nhà nước nói riêng
và chính quyền địa phương nói riêng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, có một số các cơng trình nghiên cứu về cơng tác xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở như: Cuốn “Tài liệu nghiệp vụ văn hóa - thơng tin cơ sở”, của Hà Văn
Tăng, Nxb Hà Nội năm 2004. Trong cuốn sách này là tập hợp các kiến thức mang tính
hệ thống đầu tiên với những hướng dẫn chi tiết cho từng lĩnh vực hoạt động của đờ
sống văn hóa ở cơ sở. Hay như cuốn “Sổ tay xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”, của
ơng Hà Văn Tăng, Nxb Văn hóa Dân tộc năm 2009 nói về nội dung và thao tác nghiệp
vụ trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Ngồi ra còn một số tài liệu khác
cũng nghiên cứu về cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Nhưng hai cuốn tài
liệu trên đây chính là hai cuốn tài liệu tôi dùng để làm tài liệu tham khảo trong q trình
nghiên cứu về cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà
Nội.
Về “Xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” hiện nay chỉ
có các báo cáo tổng kết của Phịng Văn hóa và Thơng tin huyện Mỹ Đức về cơng tác
văn hóa trên địa bàn, nhưng báo cáo này chỉ mang tính chất tổng kết ngành qua từng
năm chứ không mang ý nghĩa như một bài nghiên cứu. Bên cạnh đó cịn có các bài viết
như: “Mỹ Đức tăng cường công tác xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” của tác
giả Thanh Tình được viết trên Cổng giao tiếp điện tử của Uỷ ban nhân dân thành phố
Hà Nội; “Huyện Mỹ Đức: hong trào th dục th thao có nhi u khởi s c” của tác giả Mai
Anh đước đăng trên trang thethaovietnam.vn; “Huyện Mỹ Đức: Tổng kết công tác quản
lý, tổ chức Lễ hội du lịch Chùa Hương 2017” của tác giả Lê Tâm được đăng trên cổng

2



thơng tin điện tử của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội...
Nhìn chung những tài liệu trên đây chỉ nói lên một khía cạnh nhỏ của đời sống
văn hóa. Cịn chưa có một tài liệu nào nghiên cứu tổng thể, đầy đủ, có hệ thống về cơng
tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức. Nhưng đây sẽ là những tài liệu hữu
ích, tài liệu cơ sở giúp tơi có thể đề ra được những phương pháp xây dựng và phát triển
đời sống văn hóa trên địa bàn huyện Mỹ Đức.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Đánh giá thực trạng
xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để
nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Khảo sát thực trạng công tác quản lý, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện
Mỹ Đức trong những năm qua.
Đánh giá ưu điểm, hạn chế của hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ
Đức và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đời sống văn
hóa ở huyện Mỹ Đức trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2000 đến năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
- hương pháp xã hội học: Tôi đã đi khảo sát đến các xã trên địa bàn huyện Mỹ
Đức, tiến hành ghi chép các dữ liệu thu thập được từ thực tế như cơ sở vật chất, hiện
trạng của các thiết chế văn hóa sự hưởng ứng của nhân dân trong công tác xây dựng đời

sống văn hóa, cơng tác quản lý của các cấp ủy Đảng, ban ngành đồn thể trong cơng tác
xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn.
- hương pháp thu thập tài liệu: Thông qua việc điền dã dân tộc học, tôi đã thu thập

3


được một số tài liệu như: Báo cáo tổng kết phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” của huyện Mỹ Đức từ năm 2000 đến năm 2015; Báo cáo ngành văn hóa
thơng tin năm 2017; Bảng thống kê danh sách các làng văn hóa năm 2017.
- hương pháp quan sát, phỏng vấn mô tả: Tiến hành quan sát cơng tác xây dựng
đời sống văn hóa của các xã, phỏng vấn đối với các cán bộ và nhân dân trên địa bàn
huyện.
- hương pháp phân tích tổng hợp: Trên cở sở những tư liệu và dữ liệu thu thập
được từ thực tế, tôi đã tiến hành phân loại, xử lý, tổng hợp, phân tích và đưa ra những
nhận định khách quan về thực trạng của công tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện
Mỹ Đức hiện nay, những mặt tích cực, những mặt hạn chế và những vấn đề đặt ra. Từ
đó giúp huyện Mỹ Đức có thể đưa ra các chủ trương, giải pháp thiết thực nhằm nâng
cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa của địa phương.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Tìm hiểu về thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tại huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội là một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt
đẹp của nhân dân Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế, ngăn chặn
những hủ tục lạc hậu, những giá trị văn hóa đã lỗi thời, những hiện tượng văn hóa phản
động đồi trụy... đồng thời qua đó những giải pháp này cịn nhằm mục đích phát huy,
phát triển những giá trị văn hóa tốt đẹp của nhân dân huyện Mỹ Đức.
7. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tại huyện Mỹ Đức,
thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa

ở huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
* Ý nghĩa lý luận: khóa luận góp phần làm sáng tỏ những kiến thức lý luận được
tiếp nhận từ những học phần về chuyên ngành Quản lý văn hóa, đặc biệt là học phần
Quản lý các hoạt động văn hóa thơng tin cơ sở.
*Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận tập hợp tư liệu về lý luận chung trong công tác xây
dựng đời sống văn hóa, thực trạng cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội, đề xuất và kiến nghị nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả công tác xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện.

4


Khóa luận cịn là tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên trong học tập, tìm
hiểu và làm các đề tài nghiên cứu có liên quan. Cung cấp thơng tin hữu ích cho nhân
dân và cán bộ chuyên ngành văn hóa của huyện Mỹ Đức có nhu cầu tìm hiểu về cơng
tác xây dựng đời sống văn hóa của huyện.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài cấu trúc gồm 3
chương.
Chương 1: Lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa và khái quát về
huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức
- thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đời
sống văn hóa ở huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội.

5



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
VÀ KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN MỸ ĐỨC - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm về Văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa, theo từng góc độ tiếp cận
mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra các định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa. Như:
Năm 2002, Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã
đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đ cập đến như là một tập hợp những đặc trưng v
tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội
và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
hệ thống giá trị, truy n thống và đức tin”
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được hiểu theo cả ba nghĩa rộng,
hẹp và rất hẹp:
Theo nghĩa rộng: nếu văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do lồi
người sáng tạo ra. “Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với bi
u hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
địi hỏi của sự sinh tồn”.
Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: Trong công cuộc
kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng
(báo Cứu quốc, tháng 8 - 1945).
Theo nghĩa rất hẹp, văn hố đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người được
đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thơng, thể hiện ỏ việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi
người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho
rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với


mơi trường tự nhiên và xã hội của mình.
* Khái niệm về cơ sở
Có rất nhiều quan niệm về cơ sở như: Cơ sở là cái làm nền tảng cho những cái
được xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển. Hoặc cơ sở là đơn vị ở
cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động như sản xuất, công tác, v.v. của
một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ phận lãnh đạo cấp trên [11].
Hay như trong cuốn Hà Văn Tăng (2004) Tài liệu nghiệp vụ Văn hóa - Thơng tin
cơ sở của Hà Văn Tăng (2004); Nxb Bộ Văn hóa - Thơng tin Cục Văn hóa - Thơng tin
cơ sở có quan niệm về cơ sở như sau: “Cơ sở” ở đây được hiểu là một địa bàn, địa điểm
cụ thể, gắn với một đơn vị hành chính cơ bản hoặc một đơn vị cụ thể của một tổ chức
chính trị xã hội [3; tr39].
Đối với hướng nghiên cứu của tôi, tôi xin được phép sử dụng khái niệm cơ sở của
ông Hà Văn Tăng làm khái niệm xuyên suốt trong đề tài này.
* Khái niệm về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là làm cho đơn vị cơ sở phát triển tồn diện,
có đời sống kinh tế vật chất đầy đủ, phong phú, có đời sống văn hóa - tinh thần lành
mạnh, văn minh.
Đời sống văn hóa có nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
+ Nghĩa rộng: nhìn nhận và đánh giá toàn bộ đời sống ở cơ sở từ góc độ văn hóa
và theo chuẩn mực các giá trị văn hóa.
+ Nghĩa hẹp: Gắn với nội hàm văn hóa - thơng tin mà ngành văn hóa thơng tin
quản lý, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, thực hiện.
Đời sống văn hóa là sự phản ảnh của đời sống kinh tế thể hiện trên các mặt tổ
chức lực lượng chuyên môn, cơ sở vật chất, trang bị chuyên dùng và phong trào hoạt
động của quần chúng [4; tr43-44].
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống văn hóa là một
tổng hợp của những hoạt động sống của con người. Nhu cầu vật chất tinh thần được đáp

ứng làm cho con người tồn tại như một hình thể xã hội, tức một nhân cách văn hóa. Tuy
nhiên, khi xã hội phát triển cao đạt tới trình độ khác nhau của nền văn minh, thì sự đáp
ứng nhu cầu cũng đạt tới trình độ phát triển tương ứng.
1.1.2.

Các hoạt động trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Công tác


văn hóa cơ sở là một bộ phận của cơng tác văn hóa nói chung mà trọng tâm của nó là
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Cơng tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở rất
phong phú và đa dạng. Đó là tổng hợp những hoạt động của các cơ quan làm cơng tác
văn hóa tuyên truyền, giáo dục, truyền bá văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo
văn hóa tinh thần của nhân dân và xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, tiến bộ trên
từng địa bàn dân cư.
* Hoạt động thông tin — tuyên truyền, cổ động
Nhiệm vụ của hoạt động thông tin tuyên truy n cổ động: Nâng cao nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những kiến
thức khoa học... tạo sự thống nhất cao trong Đảng và đồng thuận trong nhân dân; Cổ vũ,
động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào và hành động cách mạng, thực
hiện thắng lợi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và góp
phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, xây dựng cơ quan, đơn vị, quê hương
giàu đẹp, văn minh; Đấu tranh chống mọi thủ đoạn tuyên truyền của các thế lực thù
địch, chống những quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động, bài trừ các loại hủ tục lạc
hậu, văn hoá đồi trụy trong nội bộ nhân dân.
Nội dung hoạt động thông tin tuyên truy n, cổ động: Tuyên truyền, cổ động về
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của địa
phương; Thơng tin có định hướng tình hình thời sự địa phương, trong nước và quốc tế;
Tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhân các ngày kỷ niệm và các đợt sinh

hoạt chính trị lớn của đất nước và địa phương; Tuyên truyền giáo dục truyền thống dân
tộc và truyền thống đấu tranh cách mạng của đất nước và của địa phương; Tun
truyền, phổ biến kiến thức mới, quy trình cơng nghệ mới trong sản xuất, đời sống và
bảo vệ môi trường; Tuyên truyền, cổ động về những thành tựu chính trị, kinh tế, xã
hội... của đất nước và của địa phương, cơ quan đơn vị; những thuận lợi và khó khăn,
những kinh nghiệm và bài học trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan
đơn vị, địa phương; Tuyên truyền, giáo dục về người tốt, việc tốt và các điển hình tiên
tiến, thúc đẩy các phong trào thi đua ở cơ sở; Tuyên truyền, cổ động về đạo đức, lối
sống, nếp sống... góp phần xây dựng con người mới, cơ quan đơn vị đạt chuẩn văn hóa
và nền văn hoá mới ở địa phương; Tuyên truyền đấu tranh chống âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch; chống quan liêu, tham nhũng, tệ nạn xã


hội; phê phán những thói hư, tật xấu... tại cơ sở.
* Hoạt động câu lạc bộ
• •o
• •
Câu lạc bộ vừa là một loại hình tổ chức vừa là một phương thức hoạt động, là một
tổ chức vững chắc của các tổ chức đoàn thể, để hỗ trợ giải quyết các vấn đề do cuộc
sống hàng ngày đặt ra. Câu lạc bộ là nơi có những hoạt động phong phú, phù hợp với
nhu cầu, lợi ích của những thành viên tham gia CLB; tạo môi trường cho sáng kiến tài
năng và năng khiếu được bộc lộ, phát triển.
Câu lạc bộ lập ra nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức và giáo dục đạo đức
cách mạng, truyền thống dân tộc; tạo điều kiện cho các thành viên giao tiếp, ứng xử, vui
chơi giải trí lành mạnh, bày tỏ quan điểm, tâm tư nguyện vọng trong công tác và trong
cuộc sống; giúp các thành viên, hội viên giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc
trong hoạt động, lao động, cơng tác và trong cuộc sống hàng ngày; giúp các tổ chức tập
hợp đoàn kết các tầng lớp, các đối tượng tham gia thông qua các hoạt động của câu lạc
bộ như: văn hoá, văn nghệ học tập, lao động nghề nghiệp và các hoạt động xã hội khác,
góp phần đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của phong trào tại địa phương.

Câu lạc bộ hình thành và hoạt động trên cơ sở nhu cầu nguyện vọng và tự nguyện
tự giác của các thành viên CLB. Các nội dung sinh hoạt do hội viên sáng tạo đề xuất
phong phú và thường xuyên đổi mới dựa trên vai trò tự quản của các thành viên; duy trì
hoạt động khơng ảnh hưởng đến học tập, lao động và công tác của các thành viên.
* Hoạt động văn nghệ quần chúng
Hoạt động văn nghệ quần chúng là hoạt động phong phú, đa dạng, hấp dẫn, không
thể thiếu ở cơ sở, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Có thể nói hoạt động
văn nghệ quần chúng là nhân tố quan trọng làm nên sức sống của một đơn vị văn hóa ở
cơ sở. Hoạt động văn nghệ quần chúng bao gồm cả việc sáng tạo ra các sản phẩm văn
hóa, nghệ thuật, biểu diễn, lưu giữ và truyền bá những giá trị đó kể cả văn hóa - văn
nghệ dân gian truyền thống ở cơ sở [4; tr48].
Tổ chức hoạt động văn nghệ quần chúng là đáp ứng quyền được hoạt động, được
sáng tạo, được hưởng thụ văn hóa tinh thần của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân
dân không thụ động mà họ biết làm ra sản phẩm vật chất và cả sản phẩm tinh thần.
Văn nghệ quần chúng phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
thông qua lời ca tiếng hát, thơng qua hình tượng các nhân vật trong những vở diễn ngắn


của đội văn nghệ xã. Văn nghệ quần chúng góp phần xây dựng con người mới ở cơ sở:
lao động có năng suất cao, có sức khỏe và phẩm chất tốt, xây dựng mối quan hệ tình
làng nghĩa xóm. Hoạt động văn nghệ quần chúng góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn
hóa văn nghệ cổ truyền phong phú và quý giá của quê hương, dân tộc.
Nội dung của hoạt động văn nghệ quần chúng bao gồm: Xây dựng các tiết mục,
chương trình văn nghệ thơng tin biểu diễn phục vụ định kỳ hoặc đột xuất, phục vụ tại
địa phương hoặc giao lưu hội thi, hội diễn; Thực hiện các nhiệm vụ cơng tác văn hóa,
thơng tin thường xun trong địa bàn toàn xã (Vận động quần chúng thực hiện nếp sống
văn hóa trong tổ chức ma chay, cưới xin, trật tự vệ sinh...; Tổ chức, hướng dẫn quần
chúng sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, vui chơi, lễ hội; Thơng tin tun truyền chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị của địa phương tới từng người
dân thông qua các hoạt động nghiệp vụ văn hóa - thơng tin); Tìm hiểu cội nguồn, tun

truyền, học tập truyền thống lịch sử, văn hóa, đấu tranh cách mạng, các tấm gương anh
hùng liệt sĩ, các gia đình, các cá nhân có cơng với bản làng, với đất nước. Đưa những
giá trị tinh thần truyền thống của quê hương trở về trong đời sống thường nhật của nhân
dân.
* Hoạt động thư viện, đọc sách báo
Sách báo là nguồn tri thức góp phần trực tiếp vào việc nâng cao hiểu biết cho mọi
đối tượng. Vì vậy, thư viện, phịng đọc thường chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt
động khái trí của các cơ quan văn hóa.
Thư viện là một thiết chế văn hố khơng thể thiếu được trong sự phát triển. Hiện
nay khi mà các phương tiện nghe nhìn tràn ngập thì sách báo vẫn là nguồn thơng tin cơ
bản nhất và thư viện vẫn là nơi tổ chức đảm bảo sử dụng sách báo hợp lý tiết kiệm nhất
đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức, học tập và giải trí cho nhân dân. Thư viện có trách
nhiệm dùng sách báo làm tài liệu tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng pháp luật
của nhà nước nhằm nâng cao trình độ chính trị, văn hố, khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng
tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cách mạng cho nhân dân và cán bộ trong huyện, phục vụ
nhiệm vụ chính trị, qn sự, kinh tế, văn hố chủ yếu là sự nghiệp phát triển kinh tế,
văn hoá, giáo dục của địa phương, góp phần xây dựng nền văn hoá mới của dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bằng vốn sách báo tổng hợp
của mình thư viện phải đáp ứng nhu cầu đọc và nhu cầu thông tin của toàn thể nhân dân
trên địa bàn, thư viện là cơ quan giáo dục ngồi nhà trường rèn luyện tính tự học, tự rèn


luyện, kích thích sự sáng tạo của người đọc, góp phần tạo ra các thế hệ chủ nhân tương
lai của đất nước.
* Hoạt động giáo dục truyền thống
Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống dân tộc như: Truyền thống yêu nước;
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo”; Truyền thống lịch sử cách
mạng vẻ vang... Vì vậy, việc giáo dục truyền thống cho nhân dân nói chung và thế hệ
trẻ nói riêng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết. Giáo dục truyền thống
dân tộc để quần chúng nhân dân và thế hệ trẻ biết hơn về truyền thống lịch sử của quê

hương - nơi mình sinh ra và lớn lên, nơi mình đang sống có những danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử nào để tự hào và gìn giữ là việc làm cần được quan tâm, chú trọng.
Thông qua giáo dục mọi người có thái độ đúng đắn hơn trong việc đánh giá, nhận thức
những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương, của dân tộc và biết rõ bổn phận, trách
nhiệm của mình đối với quê hương đất nước. Để tiến hành cơng tác giáo dục truyền
thống văn hóa - lịch sử và cách mạng, ngành văn hóa chủ trương xây dựng các nhà bảo
tàng, phòng truyền thống. Ở các đơn vị cơ sở có thể xây dựng phịng truyền thống hoặc
góc truyền thống, nhà lưu niệm. Các hoạt động có tính quần chúng rộng rãi như: “Uống
nước nhớ nguồn”; “Đ n ơn đáp nghĩa”; tổ chức các ngày hội. có ý nghĩa giáo dục tốt.
Ngồi ra việc cơng nhận và xây dựng các di tích lịch sử văn hóa cũng nhằm giáo dục
truyền thống có hiệu quả.
* Hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa
Nếp sống là tồn bộ những ứng xử của con người, biểu hiện trong mối quan hệ đối
với thiên nhiên, với xã hội và với bản thân được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống,
trở thành thói quen, thành phong tục. Đó cũng là một hệ thống chuẩn mực xã hội được
cộng đồng chấp nhận và tự nguyện thực hiện. Phong tục tập quán có những giá trị tốt
đẹp cần được bảo lưu và phát triển, có những hạn chế lạc hậu cần phải khắc phục [3;
tr47]. Nếp sống văn hóa ở nước ta định hướng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh trên cơ sở phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,
phải làm gì để xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, đó là nhiệm vụ của các cấp chính quyền.
Xây dựng nếp sống bao gồm xây dựng nếp sống cá nhân, nếp sống gia đình và
nếp sống xã hội; Xây dựng tác phong cơng nghiệp, làm việc có kỷ luật, thực hiện tốt nội
quy của đơn vị cơ quan, hương ước của làng xã, khu phố và quy định ở nơi công cộng;


Thực hiện giao tiếp văn minh, lịch sự, thái độ vui vẻ, trách nhiệm với công việc; Xây
dựng công sở văn minh, giảm thủ tục phiền hà, quan liêu, lãng phí; Thực hiện tốt nếp
sống văn minh, lành mạnh, tiết kiệm trong việc cưới, việc tang, lễ hội, giỗ tết... và các
sinh hoạt xã hội khác; Giữ gìn phát huy thuần phong mỹ tục và đạo lý truyền thống tốt

đẹp của dân tộc; Khơng thực hiện các hành vi tín ngưỡng như: mê tín dị đoan, bói tốn,
đặt bát hương, lập bệ thờ cúng ở bên ngồi khn viên nơi thờ tự đã được quy định;
Không hút thuốc lá trong nhà trẻ, bệnh viện, phịng họp, trong rạp chiếu bóng, rạp hát,
trên tàu xe, máy bay và những nơi tập trung đơng người.
Xây dựng nếp sống văn hóa là xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, giúp con
người định hướng mọi hoạt động, tạo các ứng xử có văn hóa cho mỗi người, giúp mỗi
cá nhân, thành viên trong cộng đồng ý thức được sự cần thiết của việc xây dựng nếp
sống văn hóa.
* Hoạt động thể dục, thể thao, vui chơi giải trí
Hoạt động thể dục thể thao khơng chỉ nhằm mục đích tăng cường thể chất, mà cịn
rèn luyện những phẩm chất tinh thần như: ý chí bền bỉ, lịng dũng cảm, hoạt bát, thơng
minh và tinh thần tập thể, đồng đội. Ngồi mục đích rèn luyện thân thể, thì hoạt động
thể dục thể thao cũng giống như hoạt động vui chơi giải trí đó là tập thể dục thể thao để
giải trí [3; tr47].
Phong trào thể dục thể thao quần chúng là một trong những yêu cầu cấp thiết và
có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ hội nhập. Thời gian qua, cùng với sự phát triển của
kinh tế - xã hội, phong trào Thể dục thể thao đã có bước phát triển mạnh mẽ và tồn
diện, thu hút được đơng đảo người dân thuộc nhiều tầng lớp và độ tuổi tham gia. Hàng
loạt các giải thể thao thành tích cao và thể thao quần chúng đã được tổ chức góp phần
phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của địa phương, đất nước, đồng thời
giúp cho ngành thể dục thể thao phát hiện, tuyển chọn được những vận động viên năng
khiếu để bồi dưỡng, bổ sung cho đội tuyển của các tỉnh và quốc gia. Tại các địa phương
trên toàn quốc, số lượng các câu lạc bộ thể thao ngày càng gia tăng; việc đầu tư sân bãi,
địa điểm luyện tập cũng được các lãnh đạo địa phương quan tâm, chú trọng.
Với những hoạt động phong phú, đa dạng, phong trào thể dục thể thao đã đi sâu
vào đời sống xã hội, lan tỏa khắp các địa bàn dân cư, từ các cơ quan, trường học đến
các hộ gia đình; Ý thức rèn luyện thân thể để bảo vệ sức khỏe của người dân ngày càng
được nâng cao. Tại các khu dân cư, tùy theo từng độ tuổi và sở thích, mỗi người dân



đều có thể tự lựa chọn cho mình những hình thức thể thao phù hợp. Khơng những thế,
chính sự lan tỏa mạnh mẽ của phong trào đã tạo ra sợi dây liên kết chặt chẽ, kết nối
cộng đồng nhân dân, từ đó gia tăng tinh thần đồn kết, nghĩa tình giữa các cá nhân
trong xã hội. Hàng năm trên khắp các địa phương có hàng loạt các hoạt động thi đấu,
ngày hội thể thao, là điểm hẹn giao lưu văn hóa của đơng đảo người dân. Tham gia các
hoạt động thể dục thể thao quần chúng, dù là chơi bộ mơn nào thì tất cả mọi người đều
hướng đến mục tiêu rèn luyện thân thể, phòng chống bệnh tật, xây dựng nếp sống lành
mạnh, mang lại hiệu quả cao về sức khỏe, tạo khơng khí phấn khởi sau những giờ lao
động vất vả, đồng thời đáp ứng nhu cầu vận động, vui chơi, giải trí, giao lưu văn hố
của các tổ chức và cá nhân trong xã hội.
Như vậy, đời sống văn hóa ở cơ sở nói riêng và đời sống văn hóa nói chung là
những phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều khía cạnh và nội dung. Việc xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết của các nhà lãnh đạo
cấp cơ sở.
1.1.3.

Vai trò của xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đối với cộng đồng dân cư

trong thời kỳ đổi mới
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước đã được đặt ra từ Đại hội V của Đảng. Đây là một chủ trương quan trọng,
có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm nền tảng tinh thần cho sự phát triển của xã hội, tạo động
lực để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, toàn diện đất nước. Văn kiện Đại hội IX của Đảng
đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng làng văn hố; tiến tới hồn chỉnh hệ thống thiết chế
văn hoá bằng nguồn lực nhà nước và mở rộng xã hội hoá, làm cho văn hoá thấm sâu
vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng n n văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản s c dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truy n thống văn
hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tiếp tục củng cố và xây dựng mơi

trường văn hố lành mạnh, đưa phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn
hố đi vào chi u sâu, thiết thực, hiệu quả”.
Đối với cộng đồng dân cư thì xây dựng đời sống văn hóa có vai trị vơ cùng to lớn
bởi:
Thứ nhất, xây dựng đời sống văn hóa chính là xây dựng phát triển con người một


cách tồn diện, có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đồn
kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung. Có
lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước,
quy ước, của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của
bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập và nâng cao hiểu biết trình
độ chun mơn năng lực thẩm mỹ và thể lực.
Thứ hai, xây dựng đời sống văn hóa đã giúp nhân dân phát huy tinh thần tương
thân tương ái, để nhân dân có thể tự giúp đỡ nhau xố đói giảm nghèo; nâng cao ý thức
tự quản cộng đồng; huy động nguồn lực to lớn trong nhân dân xây dựng cơ sở vật chất
hạ tầng, thiết chế văn hoá cộng đồng; tạo ra sự chuyển biến tiến bộ thực hiện nếp sống
văn minh, thực hành tiết kiệm trong việc cưới, việc tang, lễ hội; duy trì và phát triển
phong trào văn hoá, văn nghệ; bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc, nét đẹp
văn hoá, thuần phong mỹ tục, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, xây dựng đời sống văn hóa là một bộ phận cấu thành có ý nghĩa rất quan
trọng trong đời sống xã hội, nó góp phần thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá
nhân, gia đình, cộng đồng. Để đánh giá những thành tựu của đất nước qua mỗi thời kỳ,
qua từng giai đoạn không chỉ dựa vào thước đo và điều kiện mức sống về vật chất, về
mức thu nhập của mỗi người mà còn thể hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu tinh thần, sự
phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cơ chế hành chính quan liêu bao cấp được thay bằng cơ

chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, chính sách khốn đến từng hộ gia đình theo
Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị (10/1987) về giao quyền tự chủ cho xí nghiệp, nhà
máy dẫn đến chi phí bao cấp cho các hoạt động văn hóa cơ sở hạn chế. Hoạt động văn
hóa ở cơ sở thiếu sự chăm lo, nhiều nhà văn hóa, thư viện, đội văn nghệ quần chúng
tạm ngưng hoạt động, các hoạt động thông tin cổ động, đài truyền thanh cũng giảm sút.
Trong thời điểm này cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, dẫn đến cơ
chế tổ chức đời sống văn hóa của người dân cũng có sự thay đổi đáng kể. Từ sau khi có
chính sách khóa X, người dân đã tự chủ hơn trong kinh tế, dẫn đến gia đình và cá nhân
tự chủ hơn trong việc tổ chức nếp sống văn hóa của mình. Do đó đã xuất hiện một số


hoạt động văn hóa tại làng, thơn do chính nhân dân tổ chức như: khôi phục các lễ hội
truyền thống, nghi lễ truyền thống trong việc cưới, việc tang, mừng thọ, giỗ tết... các
đội văn nghệ tuồng, chèo, rối nước... được khơi phục tạo nên nếp sống văn hóa vui tươi,
lành mạnh.
Trong thời buổi nước ta hiện nay khi kinh tế hội nhập chính vì vậy việc giao lưu
văn hóa với quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn. Đảng ta vẫn chủ trương tiếp thu tinh
hoa văn hóa thế giới có chọn lọc với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế - “hòa nhập chứ khơng hịa tan”.
Nhưng trên thực tế cho thấy khi mở rộng giao lưu văn hóa, bên cạnh những cơ hội để
tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, thì những sản phầm văn hóa xấu, độc từ bên
ngồi cũng theo đó tràn vào, nạn sách đen, những băng đĩa, sách báo kích thích bạo lực,
ma túy, những sản phầm văn hóa phẩm đồi trụy khác đã len lỏi đến tận những xóm nhỏ
vùng quê. Các sản phẩm này rất nguy hại, làm vẩn đục môi trường văn hóa, ảnh hưởng
tới lối sống đạo đức của tầng lớp nhân dân nhất là lớp trẻ hiện nay. Đảng và Nhà nước
đã có các biện pháp xử lý, giải quyết kịp thời như: Ban hành Luật bảo vệ môi trường,
Luật phòng chống các tai, tệ nạn xã hội, Luật phòng chống AIDS, Luật dân sự. để ngăn
chặn lối sống thực dụng có nguy cơ làm băng hoại đạo đức của lớp trẻ nói riêng và quần
chúng nhân dân nói chung.
Từ những thực trạng trên đã cho thấy vị trí vai trị vơ cùng quan trọng của việc

xây dựng đời sống văn hóa nói chung và việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nơng
thơn nói riêng là hết sức quan trọng, nó góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh quốc phịng. Thực tế xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một phương thức thích
hợp, một hướng đi đúng đắn trong yêu cầu đổi mới công tác tổ chức xây dựng đời sống
văn hóa hiện nay.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc xây dựng đời sống văn hóa
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Ngay từ những năm 1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam “n n văn
hóa mới” của Việt Nam theo hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bắt đầu hình
thành. Đến năm 1943, “Đ cương văn hóa Việt Nam” ra đời đánh dấu một bược ngoặt
mới của nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh chuẩn bị giành chính quyền, giành độc
lập dân tộc. Bản đề cương đã nêu lên 3 nguyên tắc cơ bản của nền văn hóa Việt Nam là
dân tộc, khoa học và đại chúng. Như vậy rõ ràng vấn đề bản sắc dân tộc đã được nêu


lên hàng đầu là nòng cốt trong đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng trải qua suốt hơn
nửa thế kỷ qua.
Kế thừa các nguyên tắc nêu trên, sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975) qua
nhiều Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn xây dựng một “n n văn hóa tiên tiến
đậm đà bản s c dân tộc” đây là một quan điểm mang tính chiến lược. Đến Đại hội V,
vấn đề này lại được đặt ra một cách bức thiết, triệt để, có tính chất quyết định phương
hướng chỉ tiêu kế hoạch: “Đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, đơn vị lực
lượng vũ trang, cơ quan, trường học, xã, phường, hợp tác xã, ấp đ u phải có đời sống
văn hóa”. Trong Đại hội VI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Chú trọng xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở, đưa văn hóa, văn nghệ đến các vùng kinh tế mới, vùng căn cứ cách
mạng cũ, vùng các dân tộc thi u số, các vùng xa xôi, hẻo lánh...”
Ở Đại hội VII, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đã được định hướng cụ
thể vào đơn vị cơ sở nhỏ nhất của xã hội đó là phải quan tâm “xây dựng gia đình văn
hóa” để có thể đưa ra những định hướng mục tiêu chung cho các hoạt động văn hóa:
“Bằng mọi cách, đưa những giá trị văn hóa, văn nghệ dân tộc, thế giới đến với nhân

dân...”. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
IV (khóa VII) đề ra Nghị quyết về văn hóa nghệ thuật một cách cụ thể “nhiệm vụ trung
tâm của văn hóa nghệ thuật nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam v trí tuệ,
đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp có bản lĩnh vững vàng...
Trong Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V (khóa VII) về nông
thôn, nông nghiệp cũng đề cập đến vấn đề “phát huy những truy n thống văn háo tốt
đẹp thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, phát huy tình
làng nghĩa xóm, khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, quy chế v nếp
sống văn minh... ”.
Ở Đại hội IX, những tư tưởng cốt lõi chủ yếu của Đảng về sự phát triển văn hóa,
con người thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII,
càng được khẳng định rõ ràng, cụ thể hơn. Với việc chỉ rõ mục tiêu phát triển văn hóa là
để “văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hồn thiện hệ
giá trị mới của con người Việt Nam”. Đảng đã khẳng định: xây dựng đời sống văn hóa
cần gắn chặt với các phong trào “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”, chủ
trương mở rộng, nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hóa”; gắn những hoạt động này với việc xây dựng đời sống văn hóa ở các


cộng đồng dân cư.
Đại hội X, cùng với việc xác định tiếp tục phát triển chiều sâu, chiều rộng, nâng
cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam, đời sống văn hóa lại một lần nữa được khẳng
định một cách cụ thể hơn: xây dựng đời sống văn hóa trước hết cần tập trung phát huy
tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ, sáng tạo của nhân dân trong đời
sống văn hóa. Đảng cũng chỉ rõ đây là động lực có tính quyết định cho việc xây dựng
nền văn hóa của dân tộc Việt Nam tiên tiến, hiện đại mà vẫn mang bản sắc Việt Nam.
Đến đại hội XI, nâng cao chất lượng toàn diện việc xây dựng đời sống văn hóa,
mơi trường văn hóa thơng qua đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cuộc vận động
tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đẩy mạnh việc xây dựng mơi trường văn
hóa trong gia đình, trong các cộng đồng dân cư, xây dựng nếp sống văn minh trong xã

hội, nhất là nơi công cộng, đa dạng hóa các hoạt động phong trào tồn dân đồn kết,
xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, phong phú trong
tình hình mới.
Có thể nói, xây dựng đời sống văn hóa là một định hướng đúng đắn trong quá
trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng là phương hướng quan trọng
trong thực hiện chiến lược con người, xây dựng, phát huy nguồn nội lực con người nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
1.2.2.

Các văn bản pháp lý và văn bản quản lý nhà nước về xây dựng đời sống

văn hóa ở cơ sở
Dưới đây là một số văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ VHTT&DL, Bộ trưởng Bộ
VHTT&DL, Thủ tưởng Chính phủ và một số cơ quan ban ngành có liên quan đã ban
hành nhằm xây dựng và phát triển đời sống văn hóa ở nước ta. Ngồi ra cịn rất nhiều
văn bản khác cũng đề cập đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa nhưng tôi xin phép
được liệt kê các văn bản sau đây:
- Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
Điều 30: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát tri n n n văn hóa Việt Nam; dân tộc
hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của n n văn hóa các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, tiếp thu văn hóa nhân loại; phát huy
mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”.
Điều 31: “Nhà nước tạo đi u kiện phát tri n giáo dục, ý thức công nhân, sống
làm việc theo theo Hiến pháp và pháp lực, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia


đình có văn hóa, hạnh phúc, có tinh thần u nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, có
tinh thần quốc tế, chân chính, hữu nghị và hợp tác với các dân tộc trên thế giới”.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Luật Bình đẳng giới năm 2007; Luật
Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2008; Pháp lệnh Dân số - Kế hoạch hóa gia đình;
Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020; Chỉ thị số:

27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội;
Quyết định số: 01/2000/QĐ-BCĐ ngày 12/04/2000 của Trưởng Ban chỉ đạo phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” về việc ban hành kế hoạch triển khai
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hố; Cơng văn số 6100/VP - CP
ngày 13/12/2000 của văn phịng chính phủ về việc thống nhất tên gọi cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và tên gọi phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”...
1.3. Khái quát về huyện Mỹ Đức - thành phố Hà Nội
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Huyện Mỹ Đức nằm ở phía nam tỉnh Hà Đơng, từ năm 1969 là tỉnh Hà Tây (cũ).
Thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, vùng đất Mỹ Đức chỉ là một bộ phận của quận Giao Chỉ.
Bước vào thời kỳ dân tộc ta giành được độc lập, nhà Đinh chia thành 10 đạo, vùng đất
Mỹ Đức thuộc đạo Quốc Oai. Qua đời tiền Lê sang triều đại nhà Lý, vua Lý Thái Tổ đổi
thập đạo đời Đinh thành 24 lộ, đất Mỹ Đức thuộc lộ Quốc Oai. Đến thời Trần, vùng đất
Mỹ Đức thuộc địa phận huyện Đại Đường của châu Quốc Oai trong lộ Đại La Thành.
Nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược nước ta chia nước ta làm 15 quận. Quận Giao Châu
phân làm 5 châu và 13 huyện, trong đó vùng đất Mỹ Đức thuộc huyện Ứng Bình, châu
Ứng Man. Sau khi đánh đuổi giặc Minh, Lê Lợi đã chia đất nước làm 5 đạo, phần đất
Mỹ Đức hiện nay lúc đó thuộc Tây Đạo. Năm Bính Tuất (1466), vua Lê Thánh Tông đã
phân chia nước Đại Việt làm 12 đạo Thừa Tuyên và phần đất Mỹ Đức thuộc Sơn Nam
Thừa Tuyên. Năm Hồng Đức 1470, vua Lê Thánh Tông đã phân định giới Sơn Nam
Thừa Tuyên thành 11 phủ và 42 huyện.
Đến thời Gia Long một cơ sở quan trọng để tra cứu về địa danh cổ ở nước ta là sự
ra đời cuốn sách: Các trấn tổng xã danh bị lãm viết vào khoảng năm 1810 - 1819. Các
trấn tổng xã danh bị lãm là bộ sách vô cùng q giá, nó là nguồn tư liệu để tìm hiểu về
các vấn đề lịch sử có liên quan tới địa danh xa xưa. Theo cuốn sách này phần đất huyện


Mỹ Đức ngày nay là các tổng Phù Lưu Tế, Trinh Tiết, Phù Lưu Thượng (huyện Hoài

Ân), Hoàng Xá, Viên Nội, Bột Xuyên, Tuy Lai (huyện Trương Đức) tất cả đều thuộc
phục Ứng Thiên trấn Sơn Nam Thượng. Đối với địa bàn huyện Mỹ Đức dưới triều nhà
Nguyễn có 3 sự cải cách lớn vào các thời điểm: năm Minh Mạng thứ 12 (1831), năm Tự
Đức thứ 33 (1880) và năm Đồng Khánh thứ 3 (1888). Đây là những cải cách về địa giới
hành chính dẫn tới sự ra đời huyện Mỹ Đức.
Năm 1831, vua Minh Mạng chia lại địa giới, đổi trấn thành tỉnh. Các phủ Ứng
Hòa, Lý Nhân, Thường Tín hợp lại thành tỉnh Hà Nội. Vùng đất Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà
Nội. Đặc biệt là năm 1880, vua Tự Đức đã cho lập đạo Mỹ Đức gồm địa hạt hành chính
các huyện: Hồi n, Chương Đức (tỉnh Hà Nội) và huyện Mỹ Luông (tỉnh Sơn Tây).
Việc cắt bỏ hai nha sơn phòng Hà Nội, Sơn Tây lập đạo Mỹ Đức đã mở đầu cho sự hình
thành địa dư hành chính của huyện. Thành đạo Mỹ Đức được xây đắp trên đại bàn xã
Cao Đăng, tổng Tuy Lai, huyện Chương Đức. Địa dư hành chính huyện Mỹ Đức tồn tại
được 8 năm từ 1880 đến 1888 thì năm Đồng Khánh thứ 3 vào mùa hạ, tháng tư, triều
đình nhà Nguyễn bãi bỏ đạo Mỹ Đức lập phủ Mỹ Đức. Năm Thành Thái thứ 6 (1894),
phủ lỵ đặt ở làng Phù Lưu Tế [1; tr9-14].
Dần dần qua các thời kỳ chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phủ Mỹ
Đức mới đổi thành huyện Mỹ Đức.
1.3.2.

Điều kiện tự nhiên
Mỹ Đức là một huyện nằm phía cực nam của thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Trước

năm 2008 là một huyện của tỉnh Hà Tây cũ. Cách trung tâm Hà Nội 52 km theo đường
QL21B. Huyện Mỹ Đức nằm phía tây nam Hà Nội, phía đơng giáp huyện Ứng Hịa,
ranh giới là con sơng Đáy, phía bắc giáp huyện Chương Mỹ. phía tây giáp các huyện
của tỉnh Hịa Bình: Lương Sơn (ở phía tây Bắc), Kim Bơi (ở phía chính Tây), Lạc Thủy
(ở phía tây nam). Phía đơng nam giáp huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Là vùng huyện
bán sơn địa, nằm ở phía nam của đồng bằng Bắc Bộ, phía nam là vùng núi đá vơi hang
động Karst, có khu thắng cảnh chùa Hương. Huyện cịn có hồ nước lớn là hồ Quan Sơn,
nằm trên địa phận xã Hợp Tiến. Ở rìa phía đơng có sơng Đáy chảy theo hướng từ Bắc

xuống Nam sang tỉnh Hà Nam. Diện tích tự nhiên của huyện Mỹ Đức là 226,913km2
(sau khi điều chỉnh diện tích với tỉnh Hịa Bình).
Đơn vị hành chính của huyện Mỹ Đức bao gồm có 1 thị trấn Đại Nghĩa và 21 xã:
Phúc Lâm, Mỹ Thành, Đốc Tín, Vạn Kim, Đồng Tâm, Phúc Lâm, Tuy Lai, Bột Xuyên,


An Mỹ, Hồng Sơn, Lê Thanh, Xuy Xá, Phùng Xá, Hợp Tiến, Phù Lưu Tế, Hợp Thanh,
Đại Hưng, An Tiến, An Phú, Hùng Tiến, Hương Sơn.
1.3.3.

Kinh tế
Huyện đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp, tạo ra những

vùng sản xuất chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang những mơ hình trồng trọt hoặc chăn
ni phù hợp. Bên cạnh đó, huyện cũng tập trung phát triển các làng nghề cũ và phát
triển các nghề mới; ưu tiên và tập trung vào các ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng,
dệt, mây tre đan, chế biến nông - lâm sản - thực phẩm và sản xuất sản phẩm tiểu thủ
công nghiệp xuất khẩu.
Trong những năm qua, huyện đã phát triển theo hướng khai thác những lợi thế và
tiềm năng sẵn có, đổi mới cơng nghệ, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn. Từ đó, huyện Mỹ Đức đã đẩy mạnh đầu tư nhiều mặt. Từ việc xây
dựng phương thức quản lý đến việc ổn định những cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến
khích phát triển từng cây, con, từng vùng chuyên canh... đưa nhiều giống cây con, mới,
chất lượng, năng suất cao vào sản xuất. Nhờ vậy giá trị ngành nơng nghiệp ngày càng
cao, trong đó giá trị chăn nuôi chiếm một tỷ trong lớn. Công nghiệp của huyện chưa có
nhiều dự án lớn, song tiểu thủ cơng nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt, mây tre đan
đã có những bước phát triển quan trọng. Vùng trồng dâu ni tằm của huyện được duy
trì, mở rộng diện tích. Huyện đang đẩy mạnh tổ chức sản xuất các nghề truyền thống
trồng dâu nuôi tằm, nghề dệt, nghề thêu đồng bộ với mở rộng thêm nghề mới như mây

tre đan. Hằng năm, huyện đều tổ chức mở các lớp khuyến nông, đào tạo nghề.
Xác định trọng điểm phát triển kinh tế của mình là phát triển dịch vụ du lịch nên
trong những năm qua, Mỹ Đức đầu tư mạnh xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng, mở
rộng đường giao thơng kết hợp chặt chẽ với văn hóa và dịch vụ. Huyện đã tổ chức việc
kiểm kê, tu bổ, bảo vệ hằng trăm di tích đền, đình, chùa, nhà thờ. Riêng với khu danh
lam thắng cảnh Hương Sơn đã được đầu tư sửa chữa cải tạo, làm đường giao thông, bến
xe, nạo vét suối Yến, đưa điện cao thế vào Thiên Trù, xây dựng tuyến cáp treo... Nhờ
chọn đúng mục tiêu, xác định bước đi và cách làm phù hợp, chỉ đạo cụ thể, đồng bộ,
bức tranh kinh tế của huyện đã có nhiều khởi sắc. Diện mạo nơng thơn ngày càng đổi
mới.
Nhìn chung tình hình kinh tế trên địa bàn huyện Mỹ Đức năm 2017 có nhiều


×