Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

sự ra đời của đảng cộng sản việt nam một tất yếu lịch sử 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.64 KB, 35 trang )

Mục Lục.
A.Mở Đầu................................................................................................................
1.Lý do chọn đề tài..................................................................................................
2.Mục đích nghiên cứu............................................................................................
3.Phương pháp nghiên cứu......................................................................................
B.Nội Dung..............................................................................................................
I.Lý Luận về Đảng Cộng Sản..................................................................................
1.Quan niệm của chủ nghĩa Mác- LêNin về Đảng Cộng Sản.................................
2.Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX..............................................
II.Quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam....................................................
1.Xã hội Việt nam dưới ách thống trị của thực dân pháp........................................
2.Các phong trào yêu nước......................................................................................
3.Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng Cộng Sản Việt Nam.......................................................................................
4.Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-LêNin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước..............................
III.Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng
Việt Nam..................................................................................................................
1.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng................................................................
2.Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng và Cương Lĩnh đầu tiên.......................
C. Kết Luận.............................................................................................................
D.Tài Liêu Tham Khảo............................................................................................

.

1


A.Mở Đầu.
1.Lý do chọn đề tài.
Đảng Cộng Sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập lãnh đạo và


rền luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạmg Tháng Tám 1945
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa(nay là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam),đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ
chế độ thực dân phong kiến, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thơng
nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xaay dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã
giành được những thắng lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân
tộc ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội;mở ra thời đại
mới:thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, như Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng
định :là cả một kho sử bằng vàng. Vì vậy học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng là
trách nhiệm và quyền lợi của mỡi chúng ta. Do đó tơi đã chọn vấn đề “Sự ra đời
của Đảng Cộng Sản Việt Nam một tất yếu lịch sử”, làm bài tiểu luận cho cá nhân
mình.

2.Mục đích nghiên cứu.
Qua q trình nghiên cứu chúng tơi muốn làm sáng tỏ vấn đề:sự ra đời
của Đảng Cộng Sản Việt Nam một tất yếu lịch sử, cũng như góp phần khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.

3.Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp khái quát, tổng hợp.
2



B.Nội Dung.
I.Lý Luận về Đảng Cộng Sản.
1.Quan niệm của chủ nghĩa Mác- LêNin về Đảng
Cộng Sản.
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư
cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời về sau được LêNin phát
triển và trở thành chủ nghĩa Mác-LêNin.
Chủ nghĩa Mác-LêNin chí rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịchn sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra Đảng
Cộng Sản. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc
đấu tranh của giai cấp cơng nhân chống áp bức bóc lột.Tun ngôn của Đảng
Cộng Sản(năm 1848) xác định; những người cộng sản ln ln đại biểu cho lợi
ích của tồn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân
ở các nước; họ nhiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vơ
sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính chất quy luật mà chính đảng của giai cấp
cơng nhân cần thực hiện là: tổ chứ, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội mới.Đảng
phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược sách lược
của Đảng đều ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng Đảng
phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp cơng
nhân chỉ có thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp
nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác-LêNin đã lay chuyển lôi
cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc
địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác-LêNin được truyền bávào Việt Nam, phong trào
yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô
3



sản, đẫn tới sự ra đời của các tổ chức ccộng sản Việt Nam.Nguyễn Ái Quốc đã
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-LêNin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-LêNin là nền
tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

2.Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền.Nền kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là ngn nhân sâu
xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương
Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua
bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế
quốc.
Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại
lợi nhận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho
quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản. Các nước
thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân. Sự áp bức và thơn tính dân
tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâuthuẫn dân tộc thuộc địa thực dân
càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt.
Và chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo
cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và phương phapớ đẻ tự giải
phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giả
phóng khỏi ách thực dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chụi
tác động sâu sắc của chính sách xâm lược thống trị của chủ nhgiã đế quốc thực
dân.
Năm 1917, Cách Mạng Tháng Mười Nga thành cơng. Đối với nước Nga
đó là một cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế
quốc Nga thì đó cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước
cách mạng “nước Nga là nhà tù của các dân tộc”. Cuộc cách mạng vô sản ở

nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng
4


và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các
quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của liên bang Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Xơ viết(1922). Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương
sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức.Nó làm cho phong trào cách mạng vô
sản ở các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân tơc ở các nước
thuộc địa phương Đơng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 3-1919, Quốc té Cộng Sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc
tế Cộng Sản(1920), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của LêNin được công bố.Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của
cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời cảu Quốc Tế Cộng Sản, nhiều đảng
cộng sản trên thế giới đã được thành lập.
Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt
Nam.

II.Quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1.Xã hội Việt nam dưới ách thống trị của thực sân pháp
Về chính trị :
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã tiến hành một số
cải cách về chính trị nhằm đối phó với những biến động có thể xảy ra ở thuộc
địa và hỗ trợ đắc lực cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai. Mục tiêu
của các cuộc cải cách nhỏ giọt đó khơng gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã
hội ( chế độ thuộc địa).
Các viên toàn quyền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến A. Va ren đã lần
lượt ban hành những chính sách theo hướng trên. Do đó, các viện dân biểu Bắc

Kỳ Trung Kỳ được thành lập, các phịng thương mại và canh nơng của những
thành Phố lớn được mở rộng cho người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp

5


lập ra Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đơng Dương với tư cách là cơ quan tư
vấn về Vấn đề kinh tế, tài chính trong Liên bang Đơng Dương.
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành "cải lương hương
chính nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào cơng việc nội bộ của làng xã, loại
bỏ dần tính chất tự trị của nó. Trên ngun tắc, cơng cuộc cải lương hương
chính vẫn chấp nhận cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trên một chừng
mực nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào cơng
việc làng xã bằng cách kiểm sốt nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã.
Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong thế kỷ 20 là nới rộng một
số Quyền lực chính trị cho các tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ
nghĩa Pháp-Việt đề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào
Đông Dương nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần
thứ hai 2.
Về kinh tế ;
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất
với 'những tổn thất lớn trên nhiều lĩnh vực. Những vùng giàu có nhất nước Pháp,
đặc biệt các vùng công nghiệp phát triển, bị tàn phá nặng nề; nhiều ngành
cơng nghiệp bị đình trệ. Đồng thời, nước Pháp trở thành con nợ lớn. Tổng số nợ
của 'nước Pháp đến năm 1920 đã lên tới 300 tỷ phăng.
Tình hình trên đã thơi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy
nhanh nền sản xuất trong nước, đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất
là 'Đơng Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,'phục
hồi Nền kinh tế và khôi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế.
" Về mục tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần trước, cuộc khai

thác thuộc lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm : bòn rút thuộc địa để làm
giàu cho 'chính quốc nhưng khơng cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính
quốc.
.

6


Về cường độ, cuộc khai thác thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với một
cường độ mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của
tư bản Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến
tranh.
Về các lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai
thác thuộc địa thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai
thác thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nơng nghiệp.
Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và
trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển biến
theo hướng hiện đại
Nông nghiệp là ngành được thực dân Pháp chủ trương đầu tư !ớn nhất.
Năm 1924, số vốn đầu tư vào nơng nghiệp là 52 triệu phăng, thì năm 1927 đã
lên tới 400 triệu phăng, chủ yếu chảy vào khu vực trồng và khai thác cao su. Với
số vốn đó và sự trợ lực của chính sách ăn cướp ruộng đất, hàng trăm đồn điền,
có những đồn điền rộng tới vài nghìn ha, đã xuất hiện. Các chủ đồn điền
người Pháp và người Việt khai thác triệt để phương thức canh tác và bóc lột kiểu
phong kiến và tiền tư sản.
Trong nông nghiệp, sự chuyển biến mạnh mẽ nhất là sự chuyển đổi trong
cơ cấu cây trồng. Ngoài những đồn điền trồng lúa đã xuất hiện những đồn
điền trồng cao su, trồng chè, trồng cà phê, trồng hạt tiêu..., nghĩa là các chủ đầu
tư đã khai thác thế mạnh của miền đấtt nhiệt đới. Trong kinh doanh cao su đã
hình thành 3 tập đồn lớn : Cơng ty đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới và Công

ty Mitsơlanh. Sản lượng mủ cao su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho
10.00 tấn mủ cao su.
Công nghiệp với hai bộ phận công nghiệp nặng và công nghiệp
nhẹ.Chẳng hạn, trong khai khống, đi đơi với việc thành lập các công ty mới
như Công ty than Hạ Long, Công ty than và mỏ kim khí Đơng Dương... đã xuất
hiện một số cơ sở chế biến quặng, đúc kim, thiếc ở Quảng n, Hải Phịng, Cao
Bằng - những loại hình cơng nghiệp cịn vắng bóng trước chiến tranh. Cùng với
7


sự điều chỉnh trong khu vực công nghiệp nặng, khu vực công nghiệp nhẹ cũng
trở nên sôi động hơn, không chỉ tăng số lượng các nhà máy chế biến nông sản tại
chỗ, mà còn được nâng cấp, mở rộng quy mô sản xuất .Nhà máy dệt Nam Định
được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để
trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên toàn liên bang với một tổ hợp nhà máy
khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối.
Giao thơng vận tải, một thành tố trong cơ sở hạ tầng, đã được thực dân
Pháp chủ yếu đầu tư xây dựng ngay từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ
thuật ( hồn tất những cơng trình đang dang dở và nâng cấp một số phương tiện
giao thông vận tải mới. Trên tuyến đường sắt xuyên Việt, thực dân Pháp tiếp tục
xây dựng các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm
Thương nghiệp gồm ngoại thương và nội thương cũng có những bước
tiến mới. Xuất hiện các chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gịn), chợ Đơng Ba
(Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ngoại thương là lĩnh vực buôn bán mà Pháp
độc quyền. Thực dân Pháp dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ hàng hóa chính
quốc bằng cách đánh thuế cao hàng hóa nước ngồi, đặc biệt là hàng hóa Trung
Quốc và Nhật Bản đã hạn chế đến mức tối đa hàng ha của nước ngoài nhập vào
Đơng Dương, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng hóa Pháp tràn ngập thị trường Việt
Nam. Trước chiến tranh, thị phần hàng hóa Pháp ở Đơng Dương chiếm 37%,
cuối những năm 1920 đã lên tới 63%. Đặc trưng của nền thương mại thuộc địa

được phản ánh rõ nét trong cơ cấu xuất nhập. Xuất chủ yếu là những mặt
hàng nguyên liệu, nông sản phẩm ; Nhập chủ yếu là những mặt hàng công
nghiệp, kỹ thuật, những mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp.
Bao trùm và chi phi toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ
thống ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông
Dương, đại diện cho thế lực tư bản tài chính Pháp nắm quyền chỉ huy các
nghành kinh tế Đông dương.

8


Về xã hội:
Trên phương diện xã hội, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và cùng với nó
là sự xuất hiện một hệ thống thành phố kiểu phương Tây.
Sự phân hoá giai cấp:
Giai cấp đia chủ : Nét đặc trưng của xã hội thuộc địa là sự cấu kết
chặt chẽ giữa thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ. Giai cấp địa chủ
vì thế, khơng những khơng bị thu hẹp lại, mà trái lại được phát triển đủ mạnh để
có thể trở thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa. Thế lực này được đo bằng
số ruộng đất tập trung trong tay họ.Tuy nhiên cũng có một bộ phận địa chủ nhỏ
và vừa có tinh thần yêu nước, tham gia các phong trào yêu nước khi có điều
kiện.
* Giai cấp tư sản:
Tư sản Việt Nam,, sau chiến tranh, gặp những điều kiện thuận lợi nên
hoạt động kinh doanh của họ càng trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. Họ kinh
doanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát, nhuộm. dệt, in ấn, vận tải
đến sản xuất nước mắm, đường, xà phòng, sơn, đồ gốm v.v... Một số đã có trong
tay một sản nghiệp lớn như mỏ, đồn điền, công ty vận tải sông biển, các công ty
thương mại... Cuối những năm 1920 tư sản Việt Nam đã gia tăng về số lượng, đã

đạt từ con số 20.000 người, chiếm khoảng 0,1% dân số cả nước. Tư sản Việt
Nam đã từ một tầng lớp trở thành một giai cấp xã hội thực sự sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất. Do điều kiện kinh doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân
thành hai bộ phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
Phần lớn các nhà tư sản Việt Nam đều là tư sản dân tộc. Họ có mặt
trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong thương nghiệp. Nhiều xí
nghiệp kinh doanh của họ được mở rộng quy mơ sản xuất, đầu tư về kỹ thuật
như xưởng sản xuất sơn của Nguyễn Sơn Hà, công ty vận tải sông biển của Bạch
Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Nhiều đồn điền ở Nam Kỳ rộng hàng
nghìn mẫu thu hút hàng trăm công nhân. Sau chiến tranh, xuất hiện những cơ sở
9


kinh doanh mới như Nhà máy gạch Hưng Ký ở Đáp Cầu (Bắc Ninh), xí nghiệp
dệt Vĩnh An ở Huế. Lợi ích kinh tế của bộ phận tư sản dân tộc khơng đồng nhất
với lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân. Họ bị chèn ép từ nhiều phía, từ tư
sản Pháp đến các nhà tư sản ngoại kiều. Vì thế, để tồn tại và phát triển, bộ phận
này đã cố kết với nhau trong kinh doanh và do đó ít nhiều họ có tinh thần dân
tộc.
Nhìn chung, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam
lớn mạnh và trưởng thành. Đại diện cho thế lực kinh tế của giai cấp xã hội đang
lên này là những nhà doanh nghiệp sáng giá như Trương Văn Bền, Bạch Thái
Bưởi;, Nguyễn Sơn Hà, Lê Phát Vĩnh.
Dẫu vậy, giai cấp tư sản Việt Nam cịn rất ít về số lượng cũng như vốn
liếng. Tổng số vốn kinh doanh của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư
bản nước ngoài. Tư sản Việt Nam chủ yếu kinh doanh trong thương nghiệp, ít
kinh doanh trong khu vực sản xuất. Trên thương trường, giai cấp tư sản Việt
Nam lại đụng độ không cân sức với hai đối thủ : tư sản Pháp và tư sản Hoa kiều
* Giai cấp tiểu tư sản
Cùng với sự gia tăng của cuộc khai thác thuộc địa, sự xuất hiện hệ

thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo dục Pháp-Việt phát triển, giai cấp
tiểu tư sản ngày càng trở nên đơng đảo. Nó được kết hợp một cách lỏng lẻo bởi
ba bộ phận: trí thứ, tiểu thương và thợ thủ công. Điểm chung của họ là thi dân,
sở hữu một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám).
* Giai cấp nông dân là thành phần chiếm tuyệt đại đa số (khoảng
90% trong xã hội Việt Nam. Trong quá trình sản xuất, dưới tác động của
chương trình khai thác thuộc địa, giai cấp này đã chuyến biến sâu sắc và có sự
phân tầng rõ rệt : phú nông, trung nông, bần nông và cố nông.
Giai cấp nơng dân là giai cấp bị bóc lột và áp bức nặng nề nhất bi
thuế khóa và thu phen tạp dịch. Cuộc sống của họ hết sức bấp bênh. Một bộ
phận trong số họ bị bần cùng hóa. Đề duy trì sự tồn tại của gia đình, họ phải ra
thành phố, hầm mỏ để kiếm công ăn việc làm. Một số người may mắn tìm được
10


nơi bán sức lao động, trở thành công nhân, số khác ít may mắn hơn.. quay trở
về nơng thơn, cam chịu cuộc sống cùng quẫn, bế tắc.
* Giai công nhân Việt Nam ngày càng trở nên đông đảo. Đến năm 1929,
chỉ tính riêng cơng nhân trong các doanh nghiệp của người Pháp đã là 221.050
người. Ngồi ra, có khoảng vài vạn công nhân lam việc trong các doanh nghiệp
của tư sản Việt Nam và tư sản ngoại kiều, chưa kể số công nhân làm theo mùa,
theo thời vụ. Về số lượng, giai cấp công nhân Việt Nam chiếm trên 1 % dân
số .Tỷ lệ đó là nhỏ bé, nhưng một nước thuộc địa con số đó cũng rất đáng kể.
Nhìn trên tổng thể, công nhân được phân bố trên 2 vùng rõ rệt tuỳ theo
điều kiện tự nhiên : miền Bắc tập trung công nhân công nghiệp, miền Nam tập
trung công nhân nông nghiệp. Đại bộ phận công nhân công nghiệp tập trung ở
Hòn Gai, Hải Phòng, Hà Nội , Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Điều kiện sống và làm việc của công nhân rất cực khổ. Họ phải làm
việc trung bình từ 10 giờ đến 14 giờ / ngày với đồng lương rẻ mạt, thường xuyên
bị cúp phạp và bị đối xử bất nhân. Trước khi họ trở thành công nhân, họ đã là

người dân một nước nô lệ. Vì thế, trong họ đã có sẵn mối thù dân tộc. Khi họ trở
thành công nhân, làm thuê cho một ơng chủ nào đó, bị giới chủ bóc lột, áp bức
nặng nề, họ mang thêm một mối thù thứ hai – mối thù giai cấp. Mối thù dân tộc
có trước thơi thúc mối thù giai cấp chín sớm. Do vậy, giai cấp công nhân Việt
Nam sớm giác ngộ ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ
giải phóng dân tộc.

2.Các phong trào yêu nước.
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp
ước Hácmăng (Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng
thực dân Pháp, song phong trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra.
Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang do Hàm
Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến cơng trại lính Pháp ở cạnh
kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy
ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt,
11


nhưng phong trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ,
tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng
(1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của
Phan Đình Phùng (1885-1895). Cùng thời gian này cịn nổ ra cuộc khởi nghĩa
nơng dân n Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong
kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài,
chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước
theo mơ hình qn chủ lập hiến của Nhật, nhưng rồi cũng không thành công.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân
trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn

khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả
độc lập cho nước Việt Nam. Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết
chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ
phát triển đã bị kẻ thù dập tắt.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng,
về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư
sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một
số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và
địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại
hố; chống độc quyền thương cảng Sài Gịn; chống độc quyền khai thác lúa gạo
ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt
Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập
hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân
12


chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân
nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
- Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của
tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như:
Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng
(1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường
học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như
Chng rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê (Le Nhaque).
- Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra
đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng

này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn
Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh
hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và
cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân
của Tơn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh
đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ
có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân Đảng
chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ
có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9-2-1929, một số đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng ám sát
tên trùm mộ phu Badanh (Bazin) tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng
bố phong trào yêu nước. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất nặng nề nhất.
Trong tình thế hết sức bị động, các lãnh tụ của Đảng quyết định dốc toàn bộ lực
lượng vào một trận chiến đấu cuối cùng với tư tưởng “không thành công cũng
thành nhân”.
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã n
Bái với cuộc tiến cơng trại lính Pháp của qn khởi nghĩa. ở một số địa phương
như Thái Bình, Hải Dương... cũng có những hoạt động phối hợp.
13


Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị
thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng
cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên
đoạn đầu đài họ hô vang khẩu hiệu "Việt Nam vạn tuế". Vai trò của Việt Nam
Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất
bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đơng đảo quần chúng tham gia

với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần
chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì
giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên khơng đủ sức
giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi
đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những
nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản
chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo
xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam.

3.Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và
tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Aí Quốc tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19 tháng
5 năm 1890 tại Làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người
là cụ Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) đỗ Phó Bảng, bị ép ra làm quan, sau bị cách
chức, chuyến sang làm nghề thầy thuốc. Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan
(1868-1900), một phụ nữ có học, đảm đang, chăm lo cho chồng con hết mực.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương Nghệ Tĩnh giàu
truyền thống đấu tranh cách mạng lại lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan nên
Người sớm có tinh thần yêu nước. Người rất khâm phục tấm lòng yêu nước và

14


tinh thần đấu tranh của các bậc tiền bối như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Phan Đình Phùng… nhưng lại không tán thành với con đường cứu nước của các
cụ. Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế
hệ cách mạng tiến bối. Nguyễn Aí Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu
nước mới hữu hiệu hơn.Ngày 5/6/1911 tại Bến cảng Nhà Rồng chàng thanh niên

Nguyễn Aí Quốc lấy tên là Nguyễn Tất Thành đã tạm rời xa gia đình, xa Tổ
quốc để bắt đầu cuộc hành trình của mình.
Tuy nhiên khác với những thanh niên cùng trang lứa đều chọn Nhật Bản
làm nơi dừng chân thì Nguyễn Quốc lại hướng tầm nhìn của mình về các
nước phương Tây, trong đó có Pháp. Sỡ dĩ Người chọn phương Tây làm nơi đến
vì Người muốn tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm thế nào để trở về
giúp đỡ đồng bào mình, hơn nữa Người cũng muốn biết nước Pháp là một tên đế
quốc như thế nào mà lại sang xâm lược nước ta và theo người muốn đánh thắng
giặc Pháp xâm lược thì cần phải tìm hiểu rõ về chúng, “ biết địch biết ta trăm
trận trăm thắng “ chính vì lý do đó mà người đã quyết định sang phương Tây,
sang nước Pháp. Người đã làm phụ bếp trên con tàu Latouche Treville của Pháp
lênh đênh trên biển cả bắt đầu chuyến hành trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc của mình.
Trong những năm đầu hoạt động cách mạng cho đến 1930. Nguyễn Aí
Quốc đã có vai trị rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước nhà. Vai trị đó
được thể hiện ở các mặt sau đây:
Trước hết, khi rời Tổ Quốc. Người đã đi đến rất nhiều nước trên thế giới
ở cả Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi nhưng ở đâu Người cũng hịa mình với cuộc
sống của những người dân lao động cho nên Người rất thấu hiểu nỗi khổ của họ.
Những chuyến đi đó giúp Người rút ra một kết luận rằng: Trên thế giới này, ở
đâu bọn đế quốc thực dân cũng đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng
đều bị áp bức bóc lột dã man; trên thế giới này con người có nhiều màu da khác
nhau, nhưng chung quy chỉ có hai hạng người: hạng người bị bóc lột và hạng
người đi bóc lột.
15


Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, chọn Pari làm điểm dừng chân hoạt động.
Tại đây, hoạt động đầu tiên của Người là đấu tranh địi cho binh lính và thợ
thuyền Việt Nam được sớm hồi hương trở về với gia đình.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã Hội Pháp, một đảng tiến bộ chủ
trương chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các nước
thuộc địa. Tháng 6 năm 1919, nhân dịp các nước thắng trận trong Chiến tranh
thế giới thứ nhất họp Hội nghị Vecsxai ở Pháp, Nguyễn Aí Quốc thay mặt nhóm
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Bản yêu sách của nhân dân
Việt Nam để tố cáo chính sách của thực dân Pháp và địi chính phủ Pháp phải
thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau:
1. Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
2. Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng
được quyền hưởng những quyền bảo đảm về mặt pháp luật như người Âu châu.
Xóa bỏ hồn tồn các tịa án đặc biệt dùng làm cơng cụ để khủng bố và áp bức
bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam.
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4. Tự do lập hội và hội họp.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả
các tỉnh cho người bản xứ
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8 .Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại
Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người
bản xứ.
Những yêu sách nói trên khơng được chấp nhận, nhưng nó đã có ý nghĩa
rất lớn. Đó là địn tấn cơng trực diện đầu tiên của nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn
Aí Quốc vào bọn trùm đế quốc và nó đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt
16


Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đã
được rút ra: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc;

cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới”.
Nguyễn Aí Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc Việt Nam:
Sau nhiều năm bơn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, bắt đầu từ 1911.
Tháng 7 năm 1920. Nguyễn Aí Quốc đọc được Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo - cơ
quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Người vui mừng đến phát khóc lên
và muốn nói to lên như đang nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta” . Nguyễn Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng
dân tộc. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nơ lệ”. Từ đó Nguyễn Quốc hồn toàn tin vào Lênin, tin vào Quốc tế
thứ ba.
Quyết tâm đó của Nguyễn Quốc càng được khẳng định rõ ràng khi
tạiĐại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua vào cuối tháng 12 năm
1920 Người đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III và tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Hành động đó của Nguyễn Quốc là sự kiện
đánh dấu bước ngoặt lớn trong hoạt động cũng như tư tưởng chính trị của
Người, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó
cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển
mới, “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân
quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua,
từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách
mạng vô sản”, nó đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về
đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam.Sau này, chính Người đã thừa nhận:
17



“Lúc đầu chính là chủ nghĩa u nước, chứ khơng phải là chủ nghĩa cộng sản đã
làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”.
Nguyễn Quốc là người đã tích cực chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cách mạng cho sự ra đời của chính đảng vơ sản ở Việt
Nam :
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc thông qua
việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành người cộng sản, từ 1921 trở
đi Nguyễn Aí Quốc vừa hăng say hoạt động cách mạng, vừa học tập nghiên cứu
lý luận để bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước của mình, đồng thời tích cực
tìm mọi cách để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam nhằm chuẩn bị
tiền đề về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập chính đảng vơ sản ở Việt Nam.
Trong điều kiện chính sách thống trị của Thực dân Pháp hết sức hà khắc, chúng
tìm cách bưng bít mọi tư tưởng cách mạng tiến bộ trên thế giới thêm vào đó
trình độ học vấn của nhân dân ta trong giai đoạn này cịn thấp. Nguyễn Quốc
đã phải suy nghĩ, tìm tịi những hình thức thích hợp để từng bước truyền bá chủ
nghĩa Mác –Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng
những nguyên lý cơ bản của học thuyết này thành những vấn đề chính trị, đường
lối, đạo đức để truyền bá vào Việt Nam .
* Thời gian ở Pháp:
Từ 1921 Nguyễn Aí Quốc dựa vào sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp đã
cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập Hội liên hiệp
thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân
và thông qua tổ chức này để đem chủ nghĩa Mác – Lênin đến với với các dân tộc
thuộc địa. Hội quyết định sáng lập ra tờ báo Le Paria ( Báo Người cùng khổ)
làm cơ quan ngôn luận của mình và ra số đầu tiên vào ngày 1/4/1922, tờ báo
18



Người cùng khổ do Nguyễn Aí Quốc chủ biên kiêm chủ bút đã vạch trần chính
sách đàn áp, bóc lột dã man của Chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp
nói riêng, đồng thời thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải
phóng.
Ngồi việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Người cùng
khổ, Nguyễn Quốc cịn tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết và viết nhiều bài
đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín quốc tế…và
viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản 1925). Mặc dù
nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đốn nhưng các sách báo đó
vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam đúng vào lúc phong trào cách mạng Việt
Nam đang phát triển mạnh, đặc biệt bước đầu xuất hiện những xu hướng cộng
sản. Nhờ đó nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước,
tiến bộ ngày càng hiểu hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế
quốc Pháp nói riêng, hiểu được Cách mạng tháng Mười Nga và hướng về chủ
nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh đó, với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của Đảng cộng
sản Pháp, Nguyễn Quốc cũng đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác
của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người
cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
* Thời gian ở Liên Xơ:
Tháng 6/1923 Nguyễn Quốc bí mật rời khỏi nước Pháp và sang Liên
Xô. Tháng 10/1923 Nguyễn Quốc tham dự Hội nghị Quốc tế Nơng dân lần
thứ I ở Liên Xô và được bầu vào Ban chấp hành, tiếp đó Người vừa hoạt động
vừa nghiên cứu, học tập, làm việc ở trụ sở Quốc tế cộng sản (Bộ phương Đông),
viết bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín quốc tế và một số sách báo khác…Đặc
biệt từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924, Người đã tham dự Đại hội lần thứ V của
quốc tế cộng sản. Tại Đại hội này Người đã trình bày lập trường, quan điểm của
mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa; về mối quan hệ

19


giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc vói phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước
thuộc địa. Bản tham luận của Người đã gây chú ý dư luận tại Đại hội, góp phần
đưa cách mạng Việt Nam ngày càng gắn bó chặt chẻ và trở thành một bộ phận
khăng khít của phong trào cách mạng vơ sản thế giới.
Có thể nói thời gian hoạt động ở Liên Xô là thời gian mà Nguyễn Quốc
tiếp tục phát triển và hồn chỉnh thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân
tộc, thơng qua nghiên cứu thực tiễn và học tập trong các sách báo mác xít. Nội
dung tư tưởng chính trị của Người trong những năm 20 bao gồm những điểm
chủ yếu như sau:
1. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết
người’’. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
2. Cách mạng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện đồn kết và liên minh với các lực
lượng cách mạng quốc tế. Phải gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng nhân dân lao động và giai cấp cơng nhân. Người nói: “Chỉ có giải phóng
giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ
có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”.
Người cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vơ sản
ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít biện chứng với nhau, nhưng khơng phụ
thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành thắng
lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Ở đây Nguyễn Aí Quốc muốn nhấn
mạnh tới vai trị tích cực chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu
tranh giải phóng khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân.
3. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân lại là lực lượng đông đảo
nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách

mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu phục, lôi
cuốn được nông dân đi theo, cần phải xây dựng khối liên minh công nông làm
20


động lực của cách mạng. Đồng thời trên cơ sở liên minh công nông phải thu
hút, tập hợp được sự tham gia rộng rải của đông đảo các giai tầng xã hội khác
vào trận tuyến đấu tranh của dân tộc.
4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách
mạng nắm vai trị lãnh đạo. Đảng muốn vững, phải đi theo học thuyết Mác –
Lênin. Đảng phải có đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì mục đích của
đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công
nhân và nhân loại
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải
việc của một vài người. Vì vậy cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên của
Nguyễn Aí Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng tiến hành đấu tranh cách
mạng.
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng nói trên của Nguyễn Quốc
được thể hiện trong các tác phẩm của Người, cùng với các tài liệu khác đã được
bí mật chuyển về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, tạo ra
một xung lực mới, như một cơn gió lạ thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng mới,
một chất men kích thích phong trào dân tộc phát triển và nhanh chóng chuyển
mình theo xu hướng cách mạng mới của thời đại. Cũng từ đây, nhũng gười yêu
nước Việt Nam bắt đầu hướng về Nguyễn Aí Quốc, một lãnh tụ cách mạng thiên
tài đang như ngọn hải đăng chỉ đường dẫn lối đưa toàn thể dân tộc và nhân dân
đi tới độc lập, tự do.
*Thời gian ở Trung Quốc:
Tháng 11-1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu( trung Quốc), để chuẩn
bị trực tiếp về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đản Cộng Sản ở

Việt Nam.Tại đây Người cùng một số nhàg cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ…
thành lập “ Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông” . Người tiếp xúc với các
nhà cách mạng Việy Nam ở Quảng Châu chọn một số thanh niên hăng hái trong
tổ chức Tâm Tâm Xã và những thanh niên hăng hái trong nước mới sang để
21


thành lập hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên mà nịng cốt là cộng sản
Đồn…
Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã có tác dụng quyết định trong
việc chuẩn bị chính tri tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cuat
giai cấp vơ sản ở Việt Nam.

4.Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-LêNin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước.
-Ba nhân tố kết hợp ở một con người- Nguyễn Ái Quốc:
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang bế tắc về đường lối thì Nguyễn Ái
quốc xuuất hiện.Từ một người Yêu nước Người đã tìm ra được đường cứu nước.
Tính đến Năm 1920, ba nhân tố là chủ nghĩa Mác-LêNin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước đã kết hợp với nhau ở Việt Nam nhưnh mới
chỉ biểu hiện ở Nguyễn Ái Quốc, con người tiêu biểu cho dân tộc, giai cấp mở
đầu cho bước ngoặt mới trong cách mạng Niệt Nam…

-Sự thành lập và hoạt động của Hội Việt Nam Cách Mạng
Thanh Niên:
Sau một thời gian ở Liên Xô để học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây
dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Aí Quốc đã lên đường về tới Quảng Châu. Vào
cuối 1924 Nguyễn Aí Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam ở đây,
nhất là nhũng thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã để tiến tới thành lập

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925) với nhóm Cộng sản đồn làm
nịng cốt rồi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam chuẩn bị cho việc
thành lập chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam, Người sáng lập tuần báo
Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
Có thể nói rằng Nguyễn Quốc là người đã nhìn thấy yêu cầu cấp bách
của cách mạng Việt Nam lúc này là cần phải có tổ chức để chuẩn bị cho những
bước sắp đến. Tuy nhiên tổ chức này chưa phải là Đảng cộng sản mà trên cơ sở
22


nhóm Cộng sản đồn bao gồm những thành viên tích cực và trung kiên của Tâm
tâm xã đễ thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rơng rãi hơn
đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Sau khi đưa những thanh niên yêu nước Việt Nam vào Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, Nguyễn Aí Quốc đã trực tiếp mở nhiều khóa huấn luyện chính
trị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách mạng Việt Nam. Từ 1924 –
1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được cử đi học ở trường Đại học
Phương Đông (Liên Xô), một số đi học ở các trường qn sự ở Trung Quốc,
Liên Xơ…,cịn phần lớn trở về nước hoạt động. Trong đó Người vừa tổ chức lớp
học, vừa biên soạn tài liệu giảng dạy, vừa là giáo viên trực tiếp truyền đạt những
nội dung học tập. Các bài giảng của Nguyễn Aí Quốc về sau được tập hợp trong
cuốn Đường cách mệnh (1927).
Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam những
quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Aí Quốc đã vạch ra những phương hướng cơ
bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam,
mở đường cho sự du nhập của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự hình thành chính
đảng vơ sản ở trong nước.
Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ bản

được nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải động
viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp
bức, bóc lột; cách mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo; cách
mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ
phận của cách mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách là để nói cho đồng bào ta
biết rõ: “Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh – Vì sao cách mệnh là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai ngừơi. Đem lịch
sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế giới

23


nói cho đồng bào ta rõ Ai là bạn ta ? Ai là thù ta ? Cách mệnh thì phải làm thế
nào ?
Hoạt động của Nguyễn Quốc đã có tác dụng tích cực đến phong trào
cách mạng trong nước. Từ năm 1926 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã
xây dựng nhiều cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng, số lượng
hội viên tăng lên nhanh từ 300 người (1928) lên đến 1700 người (1929). Đến
đầu 1929 Hội đã có cơ sở hầu khắp cả nước rồi các tổ chức đoàn thể quần chúng
của Hội cũng lần lượt ra đời. Đặc biệt phong trào vô sản hóa của Hội từ 1928 trở
đi đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Leenin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành Đảng
cộng sản ở Việt Nam.
Đến giữa 1929 nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản chín muồi, Tân Việt
cách mạng đảng có sự phân hóa và chuyển mình theo khuynh hướng cộng sản.
Trước u cầu bức thiết của cách mạng. Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên
ở Việt Nam được thành lập, để rồi từ tháng 6 – 9/1929 lần lượt 3 tổ chức cộng
sản nối tiếp nhau xuất hiện là: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản
đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn taọ tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của
chính đảng vơ sản ở Việt Nam.


-Sự phát triển của phong trào công nhân :
GCCN ra đời sớm từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I và tăng nhanh về
số lượng nếu trước CTTG T1 do tác động của chính sách khai thac thuộc địa 2
GC CN đã lên tới 22 vạn người (1929 ) Phần lớn CN sống tập chung ở các trung
tâm kinh tế lớn quan trọng như đồn điền, khu mỏ, các thành phố C/ nghiệ. Ngay
từ khi mới ra đời CN - VN đã bị bóc lột nặng nề, đó là sự bóc lột của đế quốc, tư
sản, phong kiến vì vậy cơng nhân sớm đấu tranh.
- Sau CTTG - TI do tác động sâu sắc của chính sách khai thác thuộc địa
lần 2, do ảnh hưởng của CMT 10 CN Mác - lê Nin ngày càng được truyền bá
sâu rộng đã thúc đẩy phong trào CN nước ta phát triển lên một bước mới. Từ
năm 1919-1929 PT CN nước ta trải qua 2 giai đoạn phát triển
24


Từ 1919- 1925
Cả nước có 25 cuộc đấu tranh của CN tiêu biểu là cuộc đấu tranh của CN
và thủy thủ trên các tầu chiến của pháp, ghé cảng Hải Phịng 1919 tiếp đó là
cuộc đấu tranh của cơng nhân Sài Gòn - Chợ lớn năm 1920 đã dẫn đến sự ra đời
của tổ chức "Công hội đỏ" 1922 CN bắc kỳ đấu tranh địi nghỉ ngày chủ nhật có
lương. 1924 Những cuộc đấu tranh của CN các nhà máy rượu, xay sát gạo đã nổ
ra. Đặc biệt tháng 8/1925 có cuộc đấu tranh của CN thợ máy đóng tầu Ba son
ngăn cản tầu chiến pháp trở lính sang đàn áp phong trào CM TQuốc. Lần đầu
tiên CN đã có hành động phối hợp quốc tế không chỉ đấu tranh địi quyền lợi
cho mình mà cịn có tinh thần quốc tế cao cả. Điều đó chứng tỏ ý thức chính trị
của CN đã được nâng lên một bước, chủ nghĩa mác- lê nin ngày càng được
truyền bá sâu rộng ở VN thông qua hoạt động của lãnh tụ nguyễn ái Quốc,
Phong trào CN từ 1919- 1925 cho thấy:
+ Phong trào CN thời kỳ này nổ ra còn lẻ tẻ và mang nặng tính tự phát,
chủ yếu địi quyền lợi về kinh tế

+ Giữa các phong trào chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau
+ Tuy nhiên phong trào đã mang nhưng nét mới mà phong trào đấu tranh
trước chưa có: . sự xuất hiện của tổ chức Cơng Hội Đỏ (1920) là một tổ chức bí
mật lãnh đạo phong trào công nhâ .Phong trào CN Ba Son ( T8/1925) đã đánh
dấu bước phát triển mới của phong trào CN từ tự phát sang tự giác.
Từ 1926-1929
* Phong trào CN nước ta có nhiều bước phát triển mới, những nhân tố
mới thúc đẩy phong trào CN phát triển là:
Ảnh hưởng sâu sắc của CMDT DC ở TQuốc với trung tâm là công xã
Quảng Châu
Vụ phản biến của bè lũ Tưởng Giới Thạch 1927 đã cung cấp những bài
học kinh nghiệm quý báu về vai trò lãnh đạo của gia cấp vô sản trong cuộc CM
DT DC ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa về tính chất hai mặt của GCTS

25


×