Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Ý nghĩa về sự ra đời của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.77 KB, 29 trang )

Chương 1: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử
1. Quy luật chung về sự ra đời của Đảng Cộng Sản
Theo các nhà kinh điển Mác-LêNin, đảng Cộng Sản ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công
nhân. Tức là, khi phong trào công nhân tiếp nhận lý luận của chủ nghĩa MácLêNin làm cơ sở lý luận của phong trào làm cho nó phát triển và đến đọ nhất
định thì chính phong trào cơng nhân địi hỏi có bộ tham mưu-Tức Đảng của
giai cấp vô sản ra đời để dẫn dắt phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân tiếp tục phát triển đi tới đích là chủ nghĩa cộng sản.
Học thuyết Mác-LêNin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công
nhân là một bộ phận cấu thành của CNXH khoa học-khoa học về cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy
luật công tác xã hội của công cuộc xây dựng chủ nghiaax xã hội. Học thuyết
chỉ ra những quy luật về sự ra đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng
tư tưởng, tổ chức và hoạt động lãnh đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã
hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên Chủ Nghĩa Cộng Sản
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản-Chính Đảng cách mạng của giai cấp
cơng nhân khơng ngồi quy luật chung, tức là đều bắt nguồn từ những
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, mà trước
hết và chủ yếu là những mâu thuẫn về lợi ích vật chất. Những mâu thuẫn
này là nguồn gốc của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại
giai cấp tư sản.
Phong trào công nhân ở các nước đều trải qua một thời kỳ đấu tranh
tự phát. Phong trào tự phát đó khơng vượt khỏi giới hạn cao nhất của nó
lầ Chủ Nghĩa Cơng Đồn. Theo LêNin, cuộc đấu tranh của các cơng đồn


ở các nước tư bản chỉ là nhằm thay đổi một hình thức bóc lột này bằng
một hình thức bóc lột khác.
Theo LêNin, chính Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân ra đời
được là nhờ sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào


công nhân. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng
lập nên và sau này được LêNin làm phong phú thêm cả về lý luận và thực
tiễn.
Chủ nghĩa xã hội khoa học khi chưa kết hợp với phong trào cơng
nhân, thì về mặt tổ chức sự phát triển cao nhất của nó cũng chỉ dẫn đến
sự ra đời của các hộ truyền bá Chủ nghĩa Mác. Về mặt lịch sử, nó ra đời
sau phong trào cơng nhân, nhưng giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và
phong trào công nhân có chung một nguồn gốc, đó là những quan điểm
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do qua hệ kinh tế này, nảy sinh cuộc đấu tranh
giữa giai cấp tư sản và giai cấp cơng nhân, từ đó phong trào công nhân ra
đời. Mác và Ănghen đã nghiên cứu những quan hệ kinh tế tư bản chủ
nghĩa mà phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và từ đó
xây dựng nên lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chỉ từ khi chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập và soi sáng và phong
trào công nhân, giai cấp công nhân mới thấy rõ bản chất bóc lột của nhà
tư bản, thấy rõ sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và chỉ từ đó, giai cấp
cơng nhân mới ý thức được răng, nó cần phải tự tổ chức ra chính Đảng
độc lập của mình đẻ lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp đi đến thắng lợi
hồn tồn. Từ khi có chủ nghĩa xã hội khoa học soi sáng, có chính Đảng
cách mạng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển thành giai cấp tự
giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi ách áp
bức và bóc lột, mới từ giai cấp tự mình trở thành giai cấp của mình.
Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào cơng
nhân là một q trình đấu tranh cách mạng gay gắt, quyết liệt chống các


trào lưu tư tưởng, tư sản, cơ hội, vơ chính phủ. Sự kết hợp đó phải được
thể hiện một cách khoa học thì Đảng mới ra đời được. Có thể nói, chính
Đảng Cộng Sản của giai cấp cơng nhân, ngay từ khi ra đời đã mang bản
chất cách mạng và khoa học. Những bản chất này được cũng cố và phát

triển đồng thời với quá trình xây dựng Đảng, cũng tức là quá trình tiếp
tục thực hiện sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào
công nhân để ngày càng phát triển vững mạnh.
Chủ nghĩa Mác-LêNin là cơ sở khoa học của công tác xây dựng Đảng,
là ngọn cờ đoàn kết những người cộng sản và là cơ sở để vạch ra cương
lĩnh hoạt độngchến lược và sách lược của cách mạng.
2. Đặc điểm tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
2.1.Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (CN đế quốc). CNTB độc quyền xuất hiện do
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu lầ các nguyên nhân sau:
*Sự phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật,
đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các xí nghiệp có
quy mơ lớn.
*Vào 30 năm cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới xuất
hiện như; lò luyện kim mới BetSơme, MacTanh, TôMat… đã tạo ra sản lượng
lớn gang thép với chất lượng cao, phát hiện ra hóa chất mới như axit Sunphuric,
thuốc nhuộm… máy móc mới ra đời: Động cơ Diezeen, máy phát điện, máy
tiện, máy phay…, phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thủy, xe
điện, máy bay… và đặc biệt là đường sắt.


*Những thành mức khoa học-kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành
sản xuất mới địi hỏi xí nghiệp phải có quy mơ lớn, mặt khác nó dẫn đến tăng
năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất
lớn
*Trong điều kiện phát triển của khoa học-kỹ thuật, sự tác động của các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy,
ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế củ xã hội tư bản theo hướng
tập chung sản xuất quy mô lớn.

*Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng
quy mơ tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt
làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài
làm giàu với số tơ bản tập trung và quy mơ xí nghiệp ngày càng to lớn
*Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1973 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa
làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q trình
tích tụ và tập trung tư bản.
*Sự phát triển hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ
thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần tạo tiền
đề.
*Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa
làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng q trình
tích tụ và tập trung tư bản.
* Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh
mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần tạo
tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.


Từ những nguyên nhân trên LêNin khẳng định: “ …cạnh tranh tự do đẻ ra
tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức
độ nhất định lại dẫn tới độc quyền”.
Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản đã để lại hậu quả của nó đó là: Các
nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động,
bên ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống
trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các
nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa
thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
2.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-LêNin
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát

triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư
cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được
LêNin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác-LêNin.
Chủ nghĩa Mác-LêNin “ là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học của
C.Mác, Ph.Ăng ghen và sự phát triển của V.I LêNin, được hình thành và
phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết
thực tiễn thời đại, là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến
tới giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác-LêNin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra
Đảng Cộng Sản.


Sự ra đời Đảng Cộng Sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột. Tun ngơn của Đảng Cộng
Sản (1848) xác định: Những người cộng sản luôn luôn đại biểu cho lợi ích
của tồn bộ phong trào, là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công
nhân ở các nước, họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong
trào vô sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính Đảng của
giai cấp công nhân cần thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu ttranh của
giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành chính quyền và xây dựng xã
hội mới.
Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến
lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp cơng
nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao
động. Bởi vì, giai cấp cơng nhân chỉ có thê giải phóng được mình nếu đồng
thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ

nghĩa Mác-LêNin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những
phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác-LêNin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào
yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-LêNin
vào thực tiễn cách mạng Việt nam, sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-LêNin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.2.

Tác động của Cách Mạng Tháng Mười Nga và Quốc Tế Cộng
Sản


Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới
với đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga 1917. Chính cuộc cách mạng vĩ
đại này đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”.
Cách Mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập
chính quyền Xơ Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử lồi người. Cuộc
cách mạng vơ sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự
giải phóng các dân tộc bị áp bức “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga nhiều dân tộc vốn là thuộc
địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết,
hính thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên Bang
Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Xơ Viết (1922).
Là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều Đảng Cộng
Sản: Đảng Cộng Sản Đức, Đảng Cộng Sản Hunggari (1918); Đảng Cộng
Sản Mỹ (1919); Đảng Cộng Sản Anh, Đảng Cộng Sản Pháp (1920); Đảng

Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Mông Cổ (1921); Đảng Cộng Sản
Nhật Bản (1922).
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra
một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của chủ nghĩa
Mác-LêNin trong lịch sử.
Về ý nghĩa cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh
giấc mơ hàng thế kỷ này. Và “ Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có


Đảng bền vữn, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê Nin”.
Tháng 3/1919, Quốc Tế Cộng Sản (Quốc Tế III) được thành lập. Sự ra
đời của Quốc Tế Cộng Sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lê Nin được công bố tại Đại hội II Quốc Tế Cộng Sản vào năm
1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở
ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô
sản.
Đối với Việt Nam, Quốc Tế Cộng Sản có vai trị quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc Tế Cộng
Sản đối với phong trào cách mạng thế giới mà còn nhấn mạnh vai trò của tổ
chức này đối với cách mạng Việt Nam “ An Nam muốn cách mệnh thành
cơng thì tất cả phải nhờ Đệ Tam Quốc Tế”.
Trên đây là các điều kiện để cho ra đời một chính Đảng ở các nước thuộc
địa trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời phù
hợp với xu thế phát triển chung của lịch sử.

Chương 2: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đáp ứng yêu cầu
khách quan của cách mạng Việt nam
1. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
Năm 1958, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta.


Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta,
thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
* Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
 Về chính trị:
- Pháp đặt ra chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội
và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.
- Chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thiết
lập chế độ cai trị riêng. Đứng đầu xứ Nam Kỳ là thống đốc, đứng
đầu xứ Trung Kỳ là quan Khâm Sứ, đứng đầu Bắc Kỳ là quan
Thống Sứ.
- Thực dân Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
 Về kinh tế:
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột: cướp đoạt ruộng đất
để lập đồn điền, khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công
nghiệp, đường giao thông bến cảng phục vụ cho chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp.
- Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự
chuyển biến cơ cấu kinh tế ở nước ta (xuất hiện ở cấc ngành
mới…), du nhập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy kinh
tế hàng hóa phát triển, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào tư bản
Pháp, bị kìm hãm trong vịng lạc hậu.
 Về văn hóa:



- Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân:
duy trì các thủ tục lạc hậu (đầu độc bằng thuốc phiện, bằng rượu,
thực hiện chính sách ngu dân để cai trị…)
- Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở
Đông Dương: “ Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một
cách nhụ nhã, mà cịn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm…
bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu
dốt tối tăm vì vậy chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chinh sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc,
xuất hiện các giai cấp tầng lớp mới trong xã hội:
- Giai cấp địa chủ:
Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường
bóc lột, áp bức nông dân . Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa
chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có
lịng u nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
- Giai cấp nông dân:
Là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị
thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn
khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng
thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng
them ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành ruộng
đất và quyền sống tự do.
- Giai cấp công nhân Việt Nam:


Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897

-1914) của thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung ở nhiều
các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng,
Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Năm 1914 có 10 vạn thì năm
1929 có 22 vạn công nhân.
Đặc điểm: đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân
từ giai cấp nông dân, là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt
ruộng đất mà thực dân Pháp thhi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai
cấp cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp
nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến
áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt
Nam là: “ Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa
lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự
giác, thống nhất khắp Bắc Trung Nam”.
- Giai cấp tư sản Việt Nam:
Bao gồm tư sản công nghiêp, tư sản thương nghiệp… trong
giai cấp tư sản có một bộ phận kiêm địa chủ.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản
Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó thế lực
kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé
và yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện
để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành
công.
- Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam:
Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm
nghề tự do. Trong đó giới trí thức và học sinh lầ bộ phận quan


trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt
Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trử thành những người vô sản.

Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù đế quốc, thực
dân, lại chịu ảnh hưởng của nhứng tư tưởng tiến bộ từ bên
ngồi truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách
mạng cao. Đồng thời, “họ tỏ ra thức thời và rất nhạy cảm với
thời cuộc. Được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông
thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng
đơng và đóng một vai trị quan trọng trong q trình đấu tranh
của nhân dân, nhất là ở thành thị”.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã
hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, đặc
biệt là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang than phận người dân mất nước,
và ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.
Trong xã hội Việt Nam bấy giờ, ngồi mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản
vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đới sống dân tộc đó là: mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt
Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Trước tình hình đó, thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu:
Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân.


Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ
yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu.
2. Các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ.

Những phong trào tiêu biểu diễn ra trong thời kỳ này là:
- Phong trào Cần Vương (1885 -1896): Ngày 13/7/1885, vua
Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương
phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ. Ngày 11/11/1888 vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng
phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
- Cuộc khởi nghĩa Yên Thế diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên
Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó
khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài
đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -1918), các cuộc khởi
nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn
nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong
kiến về hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt
Nam.


Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên đầu thế kỷ XX phong trào
yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sỹ phu tiến bộ chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương
pháp, tầng lớp sỹ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu
thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ
trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục
chủ quyến quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác
lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu với chủ
trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi
phục nền độc lập cho dân tộc.

Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước
thăng trầm, đi từ lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân
chủ tư sản nhưng đều thất bại, con đường của Phan Bội Châu
chẳng khác gì “ đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Vào nửa đầu
thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của
Cách Mạng Tháng Mười Nga, “ Ơng cũng có cảm tình với nước
Nga Xơ Viết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào Nguyễn Ái
Quốc”. Nguyễn Ái Quốc dánh giá Phan Bội Châu là tiêu biểu cho
chủ nghĩa quốc gia.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh với chủ
trương vận động cải cách văn hóa, xã hội, động viên lịng u nước
trong nhân dân, đã kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề
xướng tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện khai dân trí, chấn dân


khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu tranh vũ
trang và cầu viện nước ngoài.
Hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần thức
tỉnh lịng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, về phương
pháp, “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải
lương… điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc giũ lịng
thương”.
Ngồi ra, trong thời kỳ này ở Việt Nam cịn có nhiều phong
trào đấu tranh khác như: Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907); phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919); phong trào chống
độc quyền xuất nhập khẩu ở Cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong
các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do
dân chủ…
Từ phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng
Lập hiến (1923); Đảng Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh

niên cao vọng (1926); Việt Nam nghĩa đoàn (1925), sau nhiều lần
đổi tên tháng 7/19928 lấy tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng; Việt
Nam quốc dân Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư
sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu
nước chống Pháp đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt
Nam quốc dân Đảng.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời và hoạt động trong bối cảnh
hội Việt Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh, đã tác động
mạnh mẽ đến Đảng này. Trong nội bộ Đảng diễn ra cuộc đấu tranh
giữa hai khuynh hướng: Tư tưởng cách mạng vô sản và tư tưởng


cải lương. Cuối cùng khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô
sản thắng thế. Một số đảng viên của Tân Việt chuyển sang Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên. Số đảng viên tiên tiến cịn lại trong
Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng
theo chủ nghĩa Mác – LêNin.
Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng
dân chủ tư sản. Điều lệ Đảng ghi mục tiêu hoạt động là: trước làm
dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng; đánh đuổi giặc
Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập nền dân quyền. Sau vụ án sát Ba
Danh, trùm mộ phu đồn điền cao su của Pháp (tháng 2/1929) Đảng
bị khủng bố dữ dội, tổ chức đảng bị vỡ ở nhiều nơi. Trước tình thế
nguy cấp, lãnh đạo Việt Nam quốc dân Đảng đã quyết định dốc hết
lực lượng vào trận đấu tranh sống mái với kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa
của Việt Nam quốc dân Đảng bắt đầu từ đêm ngày 9/2/1930 ở Yên
Bái, Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình… trong tình thế hồn tồn bị
động nên đã bị thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong
trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc

đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho các dân
tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục
chế độ phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến hoặc cao
hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh
diễn ra với phương thức và biện pháp khác nhau; với quan điểm
tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện
cải cách hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp... nhưng cuối cùng
các cuộc đấu tranh đều bị thất bại.


Các phong trào và tổ chức trên do những hạn chế về giai cấp, về
đường lối chính trị hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp
được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai
lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã
không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo
lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh
địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trính
cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm
vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước kiên cường, bất
khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển
của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp
nhận chủ nghĩa Mác-LêNin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh.
Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra
đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.2.Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân
tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức,

bóc lột của tư sản, thực dân cũng diễn ra từ rất sớm. Trong những năm
1919 – 1925, phong trào cơng nhân diễn ra dưới các hình thức đình
cơng, bãi cơng, tiêu biểu như các cuộc bãi cơng của cơng nhân Ba
Son(Sài Gịn) do Tơn Đức Thắng tổ chức(1925) và cuộc bãi công của
công nhân nhà máy sợi Nam Định ngày 30/4/1925, đòi chủ tư bản
phải tăng lương, phải bổ đánh đập, giãn đuổi thợ…


Nhìn chung, phong trào cơng nhân những năm 1919 – 1925 đã
có những bước phát triển so với trước chiến tranh thế giới làn thứ
nhất. Hình thức bãi cơng đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn
hơn và thời gian dài hơn.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào cơng nhân đã có sự
lãnh đạo của các tổ chức như: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Công hội đỏ va các tổ chức cộng sản ra đời năm 1929. Ở giai đoạn
này, nhiều cuộc bãi công của công nhân dã diễn ra. Từ năm 1928 đến
năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của cơng nhân diễn ra trong
tồn quốc.
Các cuộc đáu tranh của cơng nhân Việt Nam trong những năm
1926 – 1929 mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có
sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong
trào cơng nhân có sức lơi cuốn phong trào dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản.
3. Nguyển Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng, và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Trong 10 năm đầu của quá trình tìm tịi đấu tranh:
Năm 1911 Nguyển Tát Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: đánh giá cao tư
tưởng tự do, bình đẳng,bác ái và quyền con người của các cuộc

cách mạng tư sản tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776), cách
mạng Pháp (1789), nhưng cũng nhận thức được các hạn chế của
cách mạng tư sản.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu đến cách mạng
tháng 10 Nga năm 1917, Người rút ra kết luận: “trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga đã thành công và thành công đến


nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật sự”.
Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp.
Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
LêNin với nội dung:
. Lên án chủ nghĩa đế quốc, thực dân đã nơ dịch bần cùng hóa
nhân dân các nước thuộc địa.
. Kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh.
. Phong trào đấu tranh các nước chính quốc phải có trách nhiệm
giúp đỡ các phong trào ở nước thuộc địa.
. Phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa phải liên kết với
phong trào đấu tranh ở chính quốc.
Tại đại hội Đảng xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc
bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành
lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người-từ người yêu
nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn “con đường cách mạng vơ sản”
Tóm lại, trong 10 năm của q trình tìm tịi đấu tranh: Đây
là chặng đường Nguyễn Ái Quốc đi tìm một con đường cứu
nước, chứ khơng phải cầu viện và cuối cùng Người đã tìm thấy

con đường đó (giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người).
Nguyến Ái Quốc bắt đầu từ khảo nghiệm thực tiễn trước rồi
mới từn bước tiếp cận lý luận. (Khi sang Mác xây Bác nhận
định: Người Pháp ở nước Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông
Dương; Bác thừa nhận ở đâu cũng có hai hạng người: Người
giàu và người nghèo… Sau quá trình chu du về Pháp Bác mới
học lý luận).


Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tự lực, tự lao động để kiếm sống,
là quá trình rèn luyện nghị lực sau này. (Một hịn gạch nóng
nung tâm huyết; mẩu bánh mì con ni chí bền; Bác nói:Bác
làm 12 nghề nhưng chỉ làm một nghề thôi là nghề cách mạng).
Nguyễn Ái Quốc là người đặt nền móng cho quan hệ kinh tế
quốc tế và sớm trở thành chủ nghĩa quốc tế (lộ trình cuẩ
Nguyến Ái Quốc là chiến sỹ quốc tế trước khi là lãnh tụ dân
tộc; là chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân và
của dân tộc).
- Giai đoạn 1921-1930: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều
kiện để thành lập Đảng:
* Từ 1921 đến mùa hè năm 1923:
Nguyến Ái Quốc vẫn hoạt động trong ĐẢng cộng sản Pháp
và nằm trong ban thuộc địa vì vậy Người sáng lập ra “hội lien
hiệp các dân tộc thuộc địa” và là thời gian hoàn tất các tư liệu
để viết các tác phẩm nổi tiếng sau này.
*Từ 14/6/1923 đến 1927:
Về thư tưởng truyền bá chủ nghĩa Mác-LêNin vào Việt Nam
thông qua những bài đăng trên các báo người vùng khổ, Nhân
đạo… Đặc biệt là tác phẩm bản án chế độ thực dân Pháp, trong

đó đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che dấu
tội ác dưới vỏ bọc “khai hoa văn minh”, từ đó đã khơi dậy lòng
yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược.
Về xây dựng tổ chức cách mạng: Tháng 11/1924 Bác về
Quảng Châu và đến thang6 năm 1925 Người thành lập hội Việt
Nam cách mạng thanh niên với mục đích của hội: Làm cách
mạng dân tộc và cách mạng thế giới; sau khi cách mạng thành
công sẽ thành lập chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho


nhân dân tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản; thực hiện đồn
kết với giai cấp vơ sản các nước, với phong trào cách mạng thế
giới và đào tạo các bộ từ năm 1925-1927 hội cách mạng thanh
niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cạch mạng
Việt Nam; Xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế
năm 1928 với chủ trương “vô sản hóa” đưa hội viên vào nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền, để rèn luyện lập trường, quan điểm giai
cấp công nhân; để truyền bs chủ nghĩa Mác_LeeNin và lý luận
giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào
cách mạng Việt Nam.
Ngồi ra Nguyễn Ái Quốc cịn lựa chọn những thanh niên
ưu tú gửi đi học tại đại họa Phương Đơng(Liên Xơ) và trường
lục qn Hịang Phố (Trung Quốc) để đào tạo cán bộ cho cách
mạng Việt Nam.
Về chính trị: năm 1927 bộ tuyên truyền của hội các dân tộc
thuộc địa bị áp bức xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh, nó
thể hiện đường lối cách mạng, đề cập những vấn đề cơ bản của
một cương lĩnh chính trị:
Thứ nhất, xác định rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng

Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, mục tiêu cách mạng là đem lại độc lập tự do, hạnh
phúc cho toàn thể nhân dân.
Thứ ba, về lực lượng cách mạng, người nhấn mạnh cách
mạng la sụ nghiệp của quần chúng chứ khơng phải của một hai
người do đó phải đoàn kết toàn dân.
Thứ tư, lãnh đạo cách mạng do Đảng lãnh đạo và để cách
mạng thành cơng thì Đảng đó phải theo chủ nghĩa Mác-LêNin
(Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người


cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa trân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin).
Thứ năm, về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới,
ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của cách mạng
Việt Nam.
Thứ sáu, về phương pháp cách mạng phải giác ngộ và tổ
chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rỏ
mục đích của cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực, làm cách
mạng phải biết cách làm, phải có “mưu trước” thì mới đmả bảo
thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
3. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử của cách mạng
Việt Nam.
4. 1. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, cuối tháng 3-1929, ở Hà Nội một số hội viên tiên tiến của tổ chức
thanh niên ở bắc kỳ đã lập ra chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Việt Nam

do đồng chí Trần Văn Cung làm bí thư chi bộ.
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên
(tháng 5-1929) đã xảy ra bất đồng giữ các đoàn đại biểu về vấn đề thành
lập Đảng cộng sản, mà thực chất là sự khác nhau giữa những đại biểu
muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ chức hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
Đảng cộng sản, nhưng “không muốn tổ chức đảng ở giữa Đại hội thanh
niên và cũng muốn phá Thanh niên trước khi thành lập đảng”. Trong bối
cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản đảng: Ngày 17/06/1929 tại Hà Nội, đại biểu
các tổ chức cộng sản đảng ở Miền bắc họp Đại hội quyết định thành lập


Đông dương cộng sản đảng. Tuyên ngôn của đảng nêu rỏ: Đông dương
cộng sản đảng tổ chức đại đa số và thực hành cơng nơng lien hiệp mục
đích để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; Đánh đổ tư bản chủ nghĩa; Diệt trừ
chế độ phong kiến; Giải phóng cơng nơng; Thực hiện xã hội bình đẳng,
tự do, bác ái, tức là xã hộ cộng sản.
An Nam cộng sản Đảng: Trước sự ra đời của Đông dương cộng sản
đảng và để đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng, mùa thu 1929,
các đồng chí trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở
Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam cộng sản đảng. Về điều
kiện kết nạp đảng viên, điều lệ của đảng viết: “Ai tin theo chương trình
của Quốc tế cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận đảng, phục
tùng mệnh lệnh của đảng và góp nguyệt phí có thể cho vào đảng được”.
Đơng Dương cộng sản liên đồn: Việc ra đời của Đông dương cộng
sản đảng và An Nam cộng sản đảng đã làm cho nội bộ Tân Việt cách
mạng đảng phân hóa mạnh mẻ. những đảng viên tân tiến của Tân Việt đã
thành lập Đơng Dương cộng sản liên đồn: Tun đạt của Đơng Dương
cộng sản liên đồn(tháng 9-1929), nêu rỏ: “Đơng Dương cộng sản lien

đồn lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền móng, binh liên hiệp làm đối tượng
vận động cách mệnh để thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đơng
Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hồn tồn độc lập xóa bỏ nạn người
bóc lột người, áp bức người, xây dựng chế đọ cơng nơng chun chính
tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong tồn xứ Đơng Dương”.
Mặc dù đều dương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế quốc, phong
kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng
sản trên hoạt động phân tán, chia rẻ ảnh hưởng đến phong trào cách mạng
Việt Nam lúc này. Vì vậy, để khắc phục sự chia rẻ, phân tán giữa các tổ
chức cộng sản là yêu cầu cần thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ
cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản ở Việt Nam.


4.2 Hội nghị thành lập đảng
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ
chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập
một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự chia rẻ trong phong trào cách
mạng Việt Nam. Điều này phản ánh sự tự ý thức của những người cộng
sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng cộng sản duy nhất.
Ngày 27.10.1929, Quốc tế cộng sản gửi những người Cộng sản Đông
dương tài liệu về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, yêu
cầu những người cộng sản Đông Dương khắc phục ngay sự chia rẻ giữa
các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế
cộng sản chỉ rỏ phương thức để tiến tới thành lập đảng là phải bắt đầu từ
việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; Chỉ rỏ mối quan
hệ giữa Đảng cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẻ của những người Cộng sản ở Đông
Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội
nghị hợp nhất Đãng, tại Hương Cảng Trung Quốc(từ ngày 6.1-7.2.1930).

Trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản(ngày 18/2/1930), Nguyễn Ái Quốc
viết: “chúng tôi họp vào ngày 6/1…các đại biểu trở về An Nam ngày
8/2”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động
Việt Nam(ngày 10/9/1960) quyết nghị lấy ngày mồng 3/2 dương lịch
hàng năm kỷ niệm ngày thành lập đảng.
Thành phần hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế cộng sản; 2
đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; 2 đại biểu An Nam cộng sản
đảng. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn
với nội dung:


“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột củ, thành thật hợp tác đẻ thống nhất các
nhóm cộng sản ở Đơng Dương;
2.Định tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3.Thảo chính cương và điều lệ sơ lược của Đảng;
4.Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5.Cử một ban trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 2 đại biểu
chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”.
Hội nghị nhất trí với 5 điểm lớn theo đề nghị của Nguyện Ái Quốc và
quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản lấy tên là Đảng cộng sản Việt
Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và
Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức
cộng sản trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Ngày 24/2/1930 theo yêu cầu của Đông Dương cộng sản Liên đoàn,
Ban chấp hành trung ương lâm thời họp và ra nghị quyết chấp nhận Đông
Dương cộng sản Liên Đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy,

đến ngày 24/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn tất 3 tổ chức cộng
sản ở Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp của ba yếu
tố: Chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước.
Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện
chứng quá trình vận động của cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất
từ hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến 3 tổ chức cộng sản, đến Đảng
cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mac-Lênin và quan điểm
cách mạng Nguyễn Ái Quốc.


×