Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tiểu luận biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa mác lênin và tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.03 KB, 11 trang )

1. MỞ ĐẦU
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội dung quan trọng
và là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác - Lênin. Nhận thức đúng đắn và
sâu sắc nội dung biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa to lớn đối với
đời sống và sự phát triển của xã hội nói chung và đối với cơng tác lãnh đạo quản
lý của cán bộ, đảng viên nói riêng.
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ vận dụng sáng suốt biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn, Đảng ta đã căn cứ vào thực tiễn đất nước để khơng
ngừng hồn thiện lý luận, đường lối, chủ trương, lãnh đạo Nhà nước xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, đạt
được những thành quả quan trọng trong thời kỳ đổi mới, hội nhập. Sự lãnh đạo
đúng đắn đó bắt nguồn từ việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở điều kiện thực
tiễn của cách mạng Việt Nam.
Với nhận thức như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nhận thức biện chứng giữa
lý luận và thực hiện có ý nghĩa thời sự, cấp thiết. Do đó, tơi lựa chọn vấn đề biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn làm đề tài tiểu luận kết thúc mơn học của mình.
Tiểu luận tập trung nghiên cứu và làm rõ nội dung biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, vận
dụng mối quan hệ biện chứng đó vào cơng tác lãnh đạo quản lý và bản thân. Để
đạt được mục tiêu nêu trên, tiểu luận tập trung làm rõ hệ thống khái niệm, những
nội dung cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác lãnh đạo quản lý
và bản thân.
Cơ sở lí luận của đề tài tiểu luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong nghiên cứu
lý luận chính trị. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là
phương pháp luận của việc nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án. Ngồi cơ sở lí
luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả còn sử dụng các phương pháp như:
phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh… nhằm
tìm kiếm, phân tích các kết quả nghiên cứu có sẵn để miêu tả, khái quát hố tồn
cảnh về chủ đề nghiên cứu từ các góc độ khác nhau.


2. NỘI DUNG
2.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm lý luận

1


Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những
quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống,
nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của
nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận có 3 đặc trưng: 1) Lý luận có tính hệ thống, tính khái qt cao, tính
lơ gic chặt chẽ; 2) Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Lý
luận là những tri thức được khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Khơng có trí
thức kinh nghiệm thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái quát thành lý luận; 3) Lý
luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật hiện tượng. Lý luận
mang tính trừu tượng và khái quát cao nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về
bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của SVHT.
- Khái niệm thực tiễn
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là một phạm
trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Do vậy, thực tiễn
có ba đặc trưng sau:
+ Một là, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là
những hoạt động vật chất, chứ không phải là hoạt động tinh thần (hay cịn gọi là
hoạt động lý luận). Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ
vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi
chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, trồng
lúa,v.v…

+ Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt
động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia
của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định. Trình
độ và hình thức của hoạt động thực tiễn có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau
của lịch sử xã hội.
+ Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích,
tính tự giác của hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải
sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất để tác động và tự nhiên, xã hội nhằm
cải tạo, biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích, phục vụ cho nhu cầu của mình.
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản gồm:

2


+ Thứ nhất, hoạt động sản xuất vật chất. Đây là những hoạt động sản xuất
ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người, là hoạt
động quyết định sự tồn tại và phát triển của XH lồi người, thơng qua đó con
người ngày càng hồn thiện.
+ Thứ hai, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động cải tạo các quan hệ chính
trị - xã hội. Đây là hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị - xã hội
nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, hoàn thiện các thiết
chế xã hội.
+ Thứ ba, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt động thực
tiễn đặc biệt vì trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những
điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu KHCN vào nhận thức và cải tạo thế
giới. Vai trị của hình thức hoạt động này ngày càng quan trọng do sự phát triển
của KHCN.
2.2. Nội dung biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về biện chứng giữa lí luận và thực tiễn

khơng chỉ ở chỗ vạch rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lí luận, coi thực
tiễn là cơ sở, là tiêu chuẩn, là mục đích quan trọng của lí luận với thực tiễn, mà
còn nêu rõ vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Lý luận không phản ánh hiện thực
một cách thụ động mà có vai trị như kim chỉ nam vạch phương pháp hành động
có hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Kế thừa quan điểm của triết học
Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận mà không liên
hệ với thực tiễn là lý luận sng. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng”.
Nội dung biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong triết học Mác - Lênin
gồm những vấn đề cơ bản sau:
2.2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận;
lý luận hình thành, phát triển từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, trước hết, là khẳng định thực tiễn là cơ
sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận.
- Một là, thực tiễn là cơ sở lý luận. Thông qua thực tiễn được thể hiện ở hoạt
động sản xuất vật chất, chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học, nhận thức của
con người được hình thành và phát triển. Đó cũng là quá trình con người tác động
vào giới tự nhiên, xã hội làm giới tự nhiên, xã hội bộc lộ những thuộc tính, những
tính qui luật để cho con người nhận thức. Lúc đầu con người chỉ thu nhận được
3


những tài liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá…
để phản ánh bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng, từ đó hình thành các
khoa học, lý luận. Theo đó, thực tiễn là cơ sở của nhận thức của lý luận. Mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp, dù ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận xét đến cùng
đều có nguồn gốc và bị quyết định bởi thực tiễn.
- Hai là, thực tiễn là động lực của lý luận. Trong quá trình hoạt động thực
tiễn biến đổi thế giới con người cịn biến đổi bản thân mình, phát triển năng lực

trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng có khả năng nhận thức, khám phá
bí mật của thế giới, làm phong phú, sâu sắc hơn tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn ln đề ra nhu cầu nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức.
Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái
quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Các
ngành khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học của xã hội.
- Ba là, thực tiễn là mục đích của lý luận. Nhận thức, lý luận khơng phải là
sự phản ánh thụ động, đơn giản là giải thích về thế giới về con người mà phải
phục vụ thực tiễn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sự ra đời của các ngành khoa học
và hệ thống lý luận của nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi tri thức của khoa học được
vận dụng vào thực tiễn, biến đổi giới tự nhiên xã hội và bản thân con người.
- Bốn là, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý
luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Do đó, mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì
vậy, C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
đến chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là vân đề lý luận mà là
vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người đã chứng minh chân lý”.
Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng
tri thức của nhân loại; những những lý luận nào chưa phù hợp thực tiễn sẽ tiếp tục
điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
Phân tích vai trị của thực tiễn đối với lý luận yêu cầu chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực thực tiễn đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn. Quá trình
hình thành và phát triển của nhận thức tất yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển
của lý luận. Đó khơng chỉ là là sự tổng kết khái quát lịch sử nhận thức của con
người mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Nhu cầu của thực tiễn xét cho cùng là nhu
cầu những tri thức mới và sự vận dụng nó trong hoạt động sản xuất, hoạt động

4



chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học làm biến đổi hiện thực khách
quan nhằm thoả mãn nhu cầu nói chung của con người.
2.2.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, lý luận phải được vận dụng
vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn khơng chỉ khẳng định vai trị của thực
tiễn đối với lý luận mà còn thấy được vai trị của lý luận có ý nghĩa chỉ đạo hoạt
động thực tiễn.
- Một là, thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với sự vận động
phát triển của tồn tại xã hội, triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những
điều kiện khách quan nhất định, tư tưởng con người, đặc biệt là tư tưởng khoa học
có thể vượt trước tồn tại xã hội. Theo đó, lý luận khơng chỉ có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, biện pháp thực hiện mà cịn có khả năng dự
báo xu hướng phát triển, những thành cơng, những rủi ro, những hạn chế có thể
xảy ra trong quá trình hoạt động của con người. Như vậy, lý luận có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc
giải quyết những nhiệm vụ do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của
xã hội đặt ra. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: “Vũ khí phê phán cố nhiên khơng
thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi nó xâm nhập vào quần chúng” 1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đã chỉ ra những
qui luật vận động tất yếu của xã hội lồi người nói chung, của xã hội tư bản nói
riêng và tính tất yếu của q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Học thuyết đó trang bị cho giai cấp cơng nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý
luận sâu sắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Mác là cơ sở lý luận về thế giới quan duy vật và phương
pháp luận khoa học cho các ngành khoa học xã hội nghiên cứu xã hội như là một

quá trình lịch sử tự nhiên. Ngày nay, thực tiễn của lịch sử và tri thức về lịch sử
của nhân loại đã có nhiều bổ sung và phát triển mới so với khi học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội ra đời. Tuy vậy, những cơ sở khoa học mà họa thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của Mác đã đem đến khoa học xã hội thì vẫn có những giá trị
đích thực.

1

C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.

5


Giá trị của chân lý của lý luận không chỉ mang tính tuyệt đối, tính tương đối
mà cịn có tính cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một
cách cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc, giáo điều kinh viện
chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến kết quả của
hoạt động thực tiễn.
- Hai là, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục được bổ sung và
phát triển trong thực tiễn
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn
của con người trên cơ sở thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy có phong phú, đa dạng
nhưng khơng phải khơng có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái
quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận khơng chỉ là phương pháp, mà
cịn là định hướng mục tiêu, mơ hình và biện pháp giải quyết các mối quan hệ của
hoạt động thực tiễn.
Lý luận mặc dù là logic của thực tiễn, tuy nhiên, lý luận có thể lạc hậu hơn
so với thực tiễn. Do đó, vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta bám sát
diễn biến của thực tiễn và thông qua thực tiễn để tiếp tục bổ sung và phát triển lý
luận cho phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, tính năng động và sáng tạo của lý

luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, Lênin đã nhận
xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm khơng những
ở tính phổ biến, mà cả ở tính hiện thực trực tiếp”.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
đối với cách mạng Việt Nam và công tác lãnh đạo quản lý, bản thân
3.1. Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối
với cách mạng Việt Nam. Có thể rút ra ba ý nghĩa cơ bản sau:
- Một là, lý luận phải bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực
tiễn, khái quát được kinh nghiệm của thực tiễn.
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Thực tiễn luôn luôn
vận động, phát triển và biến đổi. Bám sát thực tiễn không chỉ phản ánh phù hợp
thực tiễn, mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn
mang tính khách quan, tính quy luật làm cơ sở cho q trình hình thành lý luận.
Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở hình thành lý luận. Lý luận phải
khái qt được kinh nghiệm của lồi người thì lý luận mới có tính khoa học và
đáp ứng được u cầu của thực tiễn.

6


Đối với cách mạng Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính trị về cơng tác lý
luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 đánh giá: “công tác lý luận cịn có
những hạn chế, khuyết điểm, lý luận cịn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên
cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn”2. Nghị quyết cũng nêu rõ
phương châm của công tác lý luận trong tình hình mới: “Lý luận phải gắn chặt
với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất
nước. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn; nâng cao năng
lực và chất lượng dự báo, định hướng nghiên cứu trong từng thời kỳ. Kiên trì thế
giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, tiếp

thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại”3.
- Hai là, hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử luôn được lý luận khái quát, nhở khả
năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành
phương pháp luận cho thực tiễn.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của mình. Trong điều kiện nước ta
hiện nay, coi trọng lý luận có nghĩa là phải vận dụng sáng tạo các tri thức khoa
học của nhân loại vào điều kiện thực tiễn của đất nước, tránh giáo điều, dập khn,
máy móc. Sự phát triển của khoa học cơng nghệ là thành quả của lồi người. Do
đó, con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các quốc gia,
dân tộc là tranh thủ thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển đất nước.
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi được vận dụng vào thực
tiễn nước ta phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, gắn với các mục tiêu, nhiệm
vụ và yêu cầu khách quan do thực tiễn đặt ra. Do đó, việc chúng ta tiếp thu thành
quả của tư duy nhân loại trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của nhà nước; tiếp thu thành quả xây dựng nhà nước pháp
quyền, cơ chế quản lý khoa học công nghệ, văn hoá xã hội… để thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Ba là, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều

2
3

Xem Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị về cơng tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.
Xem Nghị quyết 37-NQ/TW

7



Một trong những biểu hiện của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Nếu bệnh kinh nghiệm
là sự tuyệt đối hoá những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách
máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi, thì bệnh giáo điều lại tuyệt đối
hoá lý luận, tuyệt đối hoá kiến thức sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận
dụng lý luận một cách máy móc, khơng tính tốn được điều kiện lịch sử - cụ thể.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm cần phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng
cao trình độ lý luận, bổ sung và vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Trong
điều kiện của nước ta hiện nay, phải hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, bởi vì sự vận động và biến đổi của cơ chế thị trường đòi hỏi mọi
thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám
sát thị trường để ứng phó, điều chỉnh và đưa ra những quyết sách kinh doanh phù
hợp, khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Để khắc phục bệnh giáo điều cần phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Điều đó có nghĩa là lý lluận phải gắn với thực tiễn,
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiếm chứng trong thực tiễn và khơng ngừng hồn
thiện, phát triển với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn
khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận mà khơng có
thực tiễn thì thành lý luận sng”.
3.2. Ý nghĩa đối với cơng tác lãnh đạo quản lý, bản thân
Bản thân tôi hiện đang công tác tại trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế,
vừa tham gia công tác lãnh đạo, quản lý với tư cách là Bí thư Đồn trường, Chủ
tịch Hội Sinh viên Đại học Huế và các chức vụ kiêm nhiệm khác, vừa làm công
tác chuyên môn là giảng dạy lý luận chính trị cho sinh viên chuyên ngành Giáo
dục Chính trị và sinh viên khơng chun các mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, vấn đề biện chứng giữa lý luận và thực tiễn

có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với bản thân tôi trên cả hai cương vị là lãnh
đạo quản lý và công tác giảng dạy.
- Đối với công tác lãnh đạo quản lý
Trong công tác lãnh đạo quản lý với tư cách là cán bộ Đoàn Thanh niên Hội Sinh viên, việc nắm vững lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận về Đồn Thanh niên - Hội Sinh viên hết sức
cần thiết trước những yêu cầu và sự vận động, biến đổi của thực tiễn công tác
8


Đồn - Hội. Do đó, để hồn thành tốt nhiệm vụ công tác lãnh đạo quản lý nêu trên
cần phải quán triệt biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Trước hết, phải nắm vững lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cơ bản để tổ chức, thực hiện tốt đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Bên cạnh đó, cần phải
trang bị hệ thống tri thức lý luận về công tác quản lý nhằm xây dựng tổ chức đoàn
thể vững mạnh; nắm vững tri thức lý luận về Đoàn Thanh niên - Hội Sinh viên để
điều hành cơng tác, hoạch định chương trình, kế hoạch cơng tác Đồn - Hội.
Nhiệm vụ người cán bộ Đồn - Hội nói chung là vận động, tổ chức thực hiện
Nghị quyết, Điều lệ của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên. Nhiệm vụ người cán bộ
trong trường học gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường
(học tập, giảng dạy, phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm,...), nhiệm vụ chính trị địa phương (tham gia phát triển kinh tế xã hội,
an ninh quốc phịng) mà Nhà trường đóng trên địa bàn. Do đó, người cán bộ Đồn
- Hội phải vững lý luận và bám sát thực tiễn, thông qua thực tiễn cơng tác để hồn
thiện lý luận.
- Đối với cơng tác giảng dạy lý luận chính trị
Bản thân tơi hiện đang tham gia công tác giảng dạy các học phần lý luận
chính trị của nhà trường. Do đó, tơi nhận thức được rằng, việc giảng dạy cần quán
triệt sâu sắc nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.

Trong giảng dạy lý luận chính trị, các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được
giảng viên trình bày một cách thống nhất, làm sao để lý luận triết học thường
xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời
sự biến đổi của đời sống xã hội. Đất nước ta đang thời kỳ đổi mới với những thay
đổi rất nhanh chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực
giáo dục cũng đang có những chuyển biến tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi
trong đời sống thực tiễn phải được cập nhật kịp thời và đưa vào trong nội dung
bài giảng của mình. Tri thức chính trị khơng phải là những vấn đề xong xi, cứng
nhắc, mà nó đầy tính sáng tạo và luôn được bổ sung bằng những kết luận mới
được rút ra từ thực tiễn sinh động.
Tuy nhiên, các kết luận nghiên cứu lý luận chính trị khơng phải là những lời
giải đáp trực tiếp cho từng vấn đề cụ thể vô cùng phong phú, đang dạng mà là cơ
sở có giá trị định hướng về mặt phương pháp luận. Do đó, trong q trình giảng
dạy, cần phân tích làm cho người học nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh phương
9


pháp luận của các vấn đề cần truyền đạt, từ đó họ có thể lý giải được những vấn
đề thực tiễn.
Khi trình bày các nội dung tri thức lý luận chính trị, cần lấy những ví dụ
minh họa mang tính thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn. Tuy nhiên, khơng nên
trình bày theo kiểu minh họa, thuyết minh chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, mà phân tích một cách có căn cứ lý luận; vận dụng phương
pháp luận biện chứng duy vật để luận giải các vấn đề thực tiễn. Giảng dạy lý luận
chính trị là làm cho sinh viên hiểu được, nắm được cơ sở lý luận, khía cạnh
phương pháp luận của đường lối, chủ trương, chính sách đang thực thi trong đời
sống, từ đó có thể tự phân tích, nhận định, đánh giá những vấn đề thực tiễn mới
nảy sinh.
Đối với sinh viên sư phạm, cần chú trọng liên hệ, đối chiếu lý luận chính trị
với thực tiễn giáo dục, với quá trình đổi mới giáo dục - đào tạo ở nước ta. Trong

giảng dạy lý luận chính trị, cần định hướng cho sinh viên vận dụng phương pháp
luận biện chứng duy vật để luận giải mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục.
Chẳng hạn, trên cơ sở trình bày nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giảng viên cần
chỉ ra quan điểm giáo dục toàn diện (nội dung giáo dục phải bảo đảm tính tồn
diện); trên cơ ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cần làm sảng tỏ
nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; hoặc khi trình bày
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức và con người cần làm rõ những tính
chất, chức năng của văn hố, những giá trị của các chuẩn mực đạo đức cách mạng
và yêu cầu của con người mới xã hội chủ nghĩa để sinh viên phấn đấu tu dưỡng,
rèn luyện... Nội dung tự học, tự nghiên cứu, thảo luận nhằm vào mục đích rèn
luyện năng lực vận dụng kiến thức lý luận chính trị vào nghiên cứu các khoa học
chuyên ngành và phân tích các vấn đề thực tiễn. Có như vậy, giảng dạy lý luận
chính trị mới trở nên thiết thực, bổ ích đối với sinh viên; trang bị cho họ lý luận
và phương pháp luận biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn xã hội, thực tiễn giáo dục của đất nước.
III. KẾT LUẬN
Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một trọng những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Đây khơng
chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận, mà còn là lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin cho quá trình hình thành tri thức khoa học, tri thức lý luận và
phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan vì mục đích tiến
bộ xã hội.
10


Quán triệt quan điểm Mácxit về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn nói chung mà cịn là u cầu khách quan đối với việc cải tạo xã hội, đối với
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Thành quả của hơn 30 năm đổi mới đất

nước từ Đại hội VI (1986) đã chứng minh sự quán triệt về mặt nhận thức và hành
động của Đảng ta về biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Đối với cán bộ, đảng viên nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán
bộ làm cơng tác chính trị, tư tưởng, tuyên giáo, việc nắm vững biện chứng lý luận
và thực tiễn càng có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao năng lực tổ chức, lãnh
đạo, quản lý và hoàn thành tốt nhiệm vụ trước Đảng và nhân dân giao phó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
[2]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Cao cấp
lý luận chính trị, Triết học Mác - Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội
[3]. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn
khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Triết
học Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11



×