Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SKKN một số giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng môn tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.93 KB, 25 trang )

SKKN: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
MÔN TIN HỌC

I. Phần mở đầu
1 Lý do chọn đề tài:
-

Công nghệ thông tin và truyền thông là ngành ứng dụng công nghệ

quản lý thông tin và xử lý thông tin. Tốc độ phát triển của CNTT làm cho q
trình trao đổi thơng tin ngày càng trở nên nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó
cơng nghệ thơng tin và truyền thơng làm cho kho tri thức của nhân loại giàu lên
nhanh chóng, giúp chúng ta tiếp cận tri thức đó nhanh hơn, dễ dàng, tiện lợi
hơn. Từ đó sẽ thúc đẩy các ngành khoa học, công nghiệp, y học….. hay những
lĩnh vực khác trong đời sống xã hội hiện đại phát triển mạnh mẽ.
Nhờ có cơng nghệ thơng tin và truyền thơng mà những phát minh, phát
hiện mới về công nghệ sản xuất, nghiên cứu khoa học, y học….. được phổ biến
và ứng dụng nhanh hơn, cũng như làm cho năng suất lao động tăng lên, do có
điều kiện kế thừa và phát huy được các cơng nghệ sẵn có.
Nhận biết được vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng của cơng nghệ thơng tin
và truyền thông trong xã hội hiện nay nên Đảng và Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào giảng dạy ngay từ bậc học tiểu học.
Hơn nữa, trong chương trình giáo dục phổ thơng 2018, Tin học là một
mơn học cốt lõi, và bắt buộc trong chương trình Tiểu học, vị thế của môn Tin
học được nâng cao, không cịn là một mơn phụ, mơn học tự chọn nữa.
Có thể nói cơng nghệ thơng tin và truyền thơng, hay cịn gọi là Tin học đã
có tác động to lớn, mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội loài người, và khơng
ngoại lệ, nó cũng tác động mạnh mẽ trực tiếp đến sự phát triển nền giáo dục và đào
tạo. Vì vậy, trong tơi ln đặt ra nhiệm vụ và câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao
chất lượng mơn Tin học do mình đảm nhiệm? Đúc rút những kinh nghiệm, các
biện pháp mà thời gian qua tôi đã áp dụng có hiệu quả, hơm nay, tơi mạnh dạn đưa


ra đề tài: “Một số giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng môn
1


Tin học” để chia sẻ, cũng như góp thêm một số ít kinh nghiệm của mình vào
cơng tác giảng dạy mơn Tin học, góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng dạy – học môn Tin học.
2. Mục tiêu,nhiệm vụ của đề tài:
Khơng gì khác hơn, mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài này nhằm giúp đưa ra
các phương pháp để nâng cao chất lượng môn Tin học ở tiểu học.
Ngồi ra, đề tài này cịn đưa ra những kinh nghiệm quý báu, giúp học
sinh nâng cao ý thức tự giác học, tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Giúp cho
các em cũng như các bậc phụ huynh, các bậc quản lý có cái nhìn đa chiều, tích
cực hơn về vị trí của mơn Tin học. Phần nào hiểu được vai trò to lớn của CNTT
trong thời đại công nghệ 4.0.
3. Đối tượng,phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này, được tôi nghiên cứu và tổ chức thực hiện trên học sinh học
Tin học các khối lớp 3 đến khối lớp 5 trường TH Tam Trung.
4. Giới hạn của đề tài:
Vì điều kiện thời gian hạn hẹp, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm, nên
tơi chủ yếu nghiên cứu trong phạm vi trường TH Tam Trung. Và kết hợp trao
đổi thêm một số vấn đề thường gặp cũng như những kinh nghiệm cùng các giáo
viên Tin học khác trên địa bàn huyện.
Thời gian: Mặc dù tôi đã nghiên cứu và áp dụng từ nhiêu năm nay, nhưng
trong đề tài này tôi chỉ sử dụng số liệu của năm học 2019 – 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để có được hiệu quả tốt nhất, rút ra được những kinh nghiệm quý báu, để
góp phần nâng cao chất lượng mơn Tin học, cần có một thời gian lâu dài, kiên
định, khơng được nóng vội đốt cháy giai đoạn. Sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau, tùy vào từng tình huống, từng đối tượng học sinh, từng hoàn

cảnh cụ thể, để áp dụng được hiệu quả nhất. Các phương pháp nghiên cứu mà
tôi đã sử dụng gồm:
-

Phương pháp quan sát, điều tra, phân tích vấn đề: Việc quan sát, điều tra

và phân tích các vấn đề chi tiết giúp tôi nắm bắt được những điều gì đang gây
2


cản trở, hay ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dạy – học môn Tin học, đồng
thời đưa ra được những quyết định đúng đắn, tìm ra biện pháp tốt nhất cho từng
học sinh, từng tình huống sư phạm cụ thể. Nắm bắt được hồn cảnh gia đình
của các em, cũng như thấy rõ được mức độ tiếp thu bài của các em. Việc quan
sát bao quát các em trong q trình dạy học cũng giúp tơi biết được các em đã
thực sự tích cực, chủ động tiếp thu bài hay chưa.
-

Phương phán vấn đáp trực tiếp, kiểm tra học sinh sau giờ dạy: Đây là

phương pháp để tơi tìm ra được cơng thức đúng đắn nhất cho mình, để biết
chính xác các phương pháp khác tơi đưa ra, có đi đúng hướng và thực sự hiệu
quả hay không, giúp tôi trực tiếp đánh giá được các phương pháp mà tơi áp
dụng, chất lượng của mơn học đã có sự chuyển biến tích cực sau khi tơi đưa ra
các biện pháp hay chưa.
-

Phương pháp kết hợp: Đó là phương pháp được tôi sử dụng linh hoạt,

để kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học với nhau. Kết

hợp với gia đình, nhà trường, kết hợp cùng giáo viên chủ nhiệm để cùng nâng
cao chất lượng giáo dục nói chung, cũng như nâng cao chất lượng mơn Tin học
nói riêng.
-

Phương pháp tham mưu: Nghe hơi lạ, gọi là phương pháp có lẽ chưa

được chuẩn xác cho lắm. Nhưng có thể nói nhờ q trình tham mưu tích cực,
khơng nghừng nghỉ của giáo viên mà cơ sở vật chất môn học đã được Ban giám
hiệu nhà trường đầu tư, mua sắm tốt nhất trong giới hạn khả năng tài chính của
trường. Để từ đó các em có được nhiều máy tính thực hành, góp phần nâng cao
chất lượng giờ dạy học.
-

Các phương pháp dạy học tích cực như: dạy học nhóm, dạy học dự án,

dạy thực hành trải nghiệm.

3


II. Phần nội dung:
1.Cơ sở lý luận:
Công nghệ thông tin và truyền thông làm tăng cường các mối quan hệ
giao tiếp và trao đổi văn hóa trong các cộng đồng dân tộc và trên tồn cầu.
Mơn Tin học trong hệ thống giáo dục phổ thông trang bị cho các em học
sinh những kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin cũng như vai trị của nó
trong xã hội hiện đại, qua đó các em có thói quen giải quyết vấn đề trong quá
trình học tập cũng như cuộc sống thơng qua máy tính. Nó chiếm vị trí, vai trị
vơ cùng to lớn đối với sự phát triển trí tuệ, tư duy thuật tốn cho người lao

động, từ đó hình thành nên học vấn phổ thơng cho học sinh.
Ngồi ra, bộ mơn Tin học cịn hỗ trợ cho các em học sinh trong các hoạt
động học tập, góp phần làm tăng hiệu quả giáo dục, là công cụ hữu hiệu để các
em tìm hiểu những thơng tin liên quan đến hoạt động học tập hay những nghiên
cứu khoa học, phát kiến, phát minh mới. Công nghệ thông tin tạo ra môi trường
thuận lợi cho hoạt động học tập suốt đời và hoạt động học tập, làm việc, nghiên
cứu từ xa, giúp cho quá trình trang bị kiến thức, kĩ năng và hình thành nhân
cách học sinh khơng chỉ được thực hiện gói gọn trong khn khổ của nhà
trường và các tổ chức đồn thể nhất định nào đó, mà nó cịn có thể được thực
hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Các kiến thức và kĩ năng trong môi trường học tập này
thường xuyên được đăng tải, trao đổi và cập nhật liên tục giúp cho học sinh có
khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới nhất của xã hội.
“Giáo dục Tin học đóng một vai trị chủ đạo trong việc chuẩn bị cho học
sinh khả năng tìm kiếm, tiếp nhận sáng tạo tri thức trong thời đại công nghệ
hiện đại và tồn cầu hóa.
Tin học có ảnh hưởng lớn đến cách sống, cách suy nghĩ và hành động
của con người, là công cụ hiệu quả hỗ trợ biến việc học thành tự học suốt đời.
Môn học giúp học sinh thích ứng và hịa nhập được với xã hội hiện đại,
hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tin học để học tập, làm việc và
4


nâng cao chất lượng cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”.(Chương trình phổ thơng mơn Tin học).
-

Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát

triển CNTT trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đã chỉ rõ: “Ứng
dụng và phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển

kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách
phát triển so với các nước đi trước”.
-

Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của bộ GD&ĐT về tăng cường giảng

dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngàng giáo dục đã nêu: “Nâng cao nhận
thức về vai trò của CNTT, ứng dụng và phát triển CNTT trong GD&ĐT sẽ tạo
một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục”. Phấn đấu thực hiện các
mục tiêu cụ thể của ngành là: tổ chức tốt việc dạy và học tin học ở tất cả các cấp
học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học trong nhà trường…
Thông tư 32/2018-BGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo về việc ban hành
chương trình giáo dục phổ thơng mới – CTPT 2018 cũng chỉ rõ Tin học là môn
học bắt buộc từ cấp học tiểu học, bắt đầu từ khối lớp 3.
Tầm quan trọng, vị trí và vai trị to lớn đó của mơn Tin học là thế, nhưng
với tâm lý đề cao vai trị của các mơn học: Tốn, Tiếng Việt và coi Tin học chỉ
là một mơn phụ, môn học vô bổ của các bậc phụ huynh, học sinh và của 1 số bộ
phận cán bộ, nhân viên dẫn đến việc học Tin học khá hời hợt, chưa được chú
trọng, chất lượng môn học bị ảnh hưởng. Điều này đặt ra cho người dạy môn
Tin học một nhiệm vụ: Cần phải nâng cao được vị thế môn Tin học, nâng cao
chất lượng môn Tin học trong trường Tiểu học.
Đây là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, khi mà cơ sở vật chất, trang thiệt
bị dạy học phục vụ mơn Tin học cịn hạn chế cả về chất và lượng. Tư tưởng ỷ
lại, khoán việc dạy dỗ con em mình cho thầy, cơ của khơng nhỏ một bộ phận
phụ huynh học sinh. Tâm lý coi nhẹ môn học của cả phụ huynh và học sinh,
thậm chí của cả các bậc quản lý. Điều kiện kinh tế của người dân còn thấp cũng
5



ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình học tập và tiếp cận với môn học của các
em.
Một phương pháp, biện pháp của giáo viên không thể giải quyết được
mọi vấn đề, vì thế giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng nhiều phương
pháp, biện pháp khác nhau tương ứng với mỗi tình huống. Vì khơng có một
phương pháp, chìa khóa nào là vạn năng để giải quyết được mọi vấn đề, tình
huống xảy ra cả. Vì vậy để thay đổi suy nghĩ, nâng cao được vai trò, vị thế môn
Tin học đối với mỗi đối tượng: Phụ huynh – học sinh – hay cán bộ quản lý mình
phải có cách ứng xử khác nhau. Để mơn học thực sự có chất lượng cao, khơng
chỉ mỗi biết đến các phương pháp dạy học tích cực, mà cịn có các liệu pháp
tinh thần giúp học sinh có tinh thần thoải mái, tự tin khi làm việc với máy vi
tính, cũng không thể chỉ biết đến việc điều chỉnh học sinh, mà bản thân người
dạy cũng ln tìm tịi, học hỏi, cầu tiến. Luôn cập nhật những cái hay, cái mới
để bắt kịp với thời đại, với nội dung đổi mới giáo dục, và đặc biệt là để bắt kịp
với sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của công nghệ máy tính.
2/ Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
* Thuận lợi:
-

Trường TH Tam Trung nằm trên địa bàn thôn Tam Trung, xã Ea Tam –

huyện Krông Năng tỉnh Đăk Lăk. Trường có địa hình đẹp, khn viên khang
trang. Có đầy đủ phòng tin học, phòng thư viện, nhà đa năng, sân chơi, bãi tập
cho học sinh. Tạo khơng khí phấn khích trong học sinh và giáo viên. Phịng học
sạch, thống mát, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, trang thiết bị đèn, quạt, bàn
ghế cho học sinh đúng quy cách, kể cả ghế ngồi của học sinh khi sinh hoạt dưới
cờ.
Hầu hết các giáo viên đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, được công
nhận là chiến sỹ thi đua cấp cơ sở, giáo viên dạy giỏi cấp huyện, giáo viên chủ
nhiệm giỏi cấp huyện, Tổng phụ trách đội giỏi cấp huyện, được UBND huyện

tặng giấy khen. Chất lượng dạy – học của trường ngày càng tăng. Đó chính là
thành quả lao động miệt mài của cả tập thể cán bộ giáo viên toàn trường. Ngoài
ra, để đạt được những thành tích trên là nhờ Ban giám hiệu nhà trường luôn
6


quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao cũng như kịp thời hỗ trợ giáo viên mỗi khi
giáo viên gặp khó khăn, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho mỗi giáo viên.
Bên cạnh đó trường cịn có đội ngũ CB-GV-NV trẻ, đầy nhiệt huyết,
Tổng phụ trách đội - Ban chấp hành Đồn thanh niên nhà trường ln ln nỗ
lực, có kế hoạch hoạt động cụ thể, rõ ràng, thường xuyên tổ chức các hoạt động,
phát động các phong trào thi đua tạo ra sân chơi tri thức cũng như các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao để học sinh học tập lẫn nhau, giữa các lớp
với nhau, và với các trường bạn. Giáo viên trong trường đều đạt trình độ chuẩn,
có năng lực chun mơn, ln có tinh thần học hỏi, trau dồi kiến thức, có uy tín
với học sinh, phụ huynh. Giáo viên thường xuyên được học tập các nghị quyết
Đại hội Đảng, được tham gia các lớp tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ do cấp trên tổ chức, nắm rõ được các phương pháp giáo dục trong
thời kỳ đổi mới. Tất cả giáo viên trong trường có lập trường vững vàng, tư
tưởng chính trị đạo đức, lối sống lành mạnh, chấp hành tốt đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật nhà nước. Có lý tưởng nghề nghiệp, có kiến thức về khoa
học giáo dục, biết tôn trọng yêu thuơng học sinh, đối xử cơng bằng, có ý thức
trách nhiệm cao, tận tụy sáng tạo trong lao động, có tinh thần khắc phục khó
khăn, là một tấm gương sáng về nếp sống cho học sinh noi theo.
Tình hình dạy học mơn Tin học trong nhà trường:
-

Được nhà trường tạo điều kiện sắm sửa máy vi tính,máy chiếu, trang

thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học. Hệ thống máy tính trong

trường học đều đã được kết nối mạng Internet. Có phịng máy tính riêng.
-

Khi học mơn Tin học, các em được học bằng máy chiếu hay trên phòng

máy, vừa được học, vừa được chơi, nên các em rất hứng thú mỗi khi học Tin
học.
-

Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, u nghề mến trẻ, có lập trường kiên

định, ln đấu tranh và bảo vệ vị thế của môn học, từ đó đưa ra các đề xuất mua
sắm, đầu tư các trang thiết bị đầy đủ hỗ trợ tốt nhất cho công tác dạy và học
môn Tin học. Giáo viên được đào tạo những kiến thức chuyên sâu về tin học để
đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc tiểu học. Ngoài ra, để
7


đáp ứng yêu cầu đổi mới, giáo viên luôn nêu cao tinh thần tự học, trau dồi kiến
thức chuyên môn cũng như các kiến thức về sữa chữa máy tính, kịp thời khắc
phục các lỗi về máy tính khi kỹ thuật viên ở xa. Tham gia đầy đủ các cuộc tập
huấn nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ do các cấp tổ chức.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên, thì tình hình học tập, giảng dạy mơn Tin
học ở trường TH Tam Trung cũng gặp một số khó khăn như sau:
Là địa bàn thuộc xã vùng sâu, vùng xa, với hơn 95% dân số đều là người
đồng bào từ các tỉnh phía Bắc di cư vào nên đời sống kinh tế của nhân dân cịn
gặp nhiều khó khăn, sự quan tâm của phụ huynh tới việc học tập của học sinh
còn hạn chế. Đặc biệt thời gian gần đây do giá cả các sản phẩm từ cây trồng
giảm mạnh, sâu bệnh, dẫn đến phụ huynh đi làm ăn xa, để con em ở lại cho ơng

bà chăm sóc, vì vậy sự quan tâm đến việc học hành của con em mình lại càng
bng lỏng. Với điều kiện kinh tế khó khăn như vậy thì rất ít học sinh


nhà có máy vi tính (hầu như là HS trước khi được học Tin học chưa từng

được tiếp xúc với máy tính). Thậm chí có 1 số học sinh chưa có sách giáo khoa
để học, các em chỉ được học những kiến thức thông qua bài giảng của giáo viên
dạy trên lớp. Ít được tiếp xúc với máy tính nên khi vào học Tin học các em khá
rụt rè. Sợ làm hỏng máy, sợ làm sai…….
Ngoài việc phụ huynh học sinh có tâm lý xem nhẹ mơn học, thì ở một số
bộ phận cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường cũng chưa xác định đúng vai
trị của mơn Tin học.
Nhà trường đã có một phịng máy vi tính để cho học sinh học nhưng
chưa đảm bảo được số lượng yêu cầu, yếu về cấu hình, thường xảy ra trục trặc,
gặp sự cố khi dạy học ( Nhân viên kỹ thuật ở xa trường nên nhiều lúc chưa thể
khắc phục lỗi kịp thời cho việc dạy học), mỗi ca thực hành có tới 3-4 em ngồi
cùng một máy nên các em khơng có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập
một cách đầy đủ.
Nguồn tài liệu, tài nguyên phục vụ cho mơn học cịn thiếu và chưa nhận
được sự quan tâm, đầu tư đúng mực của cấp trên, chủ yếu từ sự tự chuẩn bị của
8


giáo viên. Chương trình mơn Tin học cũng cịn nhiều bất cập và đang từng bước
hồn thiện nên gây khơng ít khó khăn cho cơng tác dạy và học.
Sau một thời gian giảng dạy môn Tin học tại trường Tiểu học Tam Trung,
tôi đã tiến hành khảo sát học sinh thơng qua việc kiểm tra bài cũ, và q trình
dạy học tại lớp, tổng hợp kết quả thu được : Rất ít học sinh có thể thao tác thuần
thục trên máy tính, thậm chí có những học sinh cịn thấy run, e ngại khi cầm

con chuột, gõ bàn phím, thậm chí có những học sinh khơng dám dùng máy tính
vì sợ thao tác sai bạn cười, sợ làm hỏng máy. Nhất là các em học sinh lớp 3,
vừa chập chững làm quen với môn học mới. Các em học trước qn sau, vì mỗi
tuần chỉ có 2 tiết Tin học, học sinh đơng nhưng máy tính ít, máy tính khơng có
ở nhà để các em ơn luyện, thậm chí sách giáo khoa nhiều em cũng khơng có.
Chính những điều đó đã dẫn đến chất lượng môn Tin học trong nhà trường chưa
cao. Lúc này nhiệm vụ đặt ra cho người dạy là cần có những biện pháp, giải
pháp kịp thời để khắc phục những khó khăn hạn chế nhằm nâng cao chất lượng
môn học.
Mặc dù trong Thông tư 22 và bây giờ là Thông tư 27 Bộ giáo và đào tạo
hướng dẫn đánh giá học sinh tiểu học không yêu cầu môn Tin học phải làm bài
kiểm tra giữa kỳ, song để nắm bắt được tình hình học tập của học sinh, nhằm
đưa ra những kế hoạch, giải pháp nâng cao chất lượng môn học, đến giữa kỳ tôi
lại cho các em vừa làm bài kiểm tra lý thuyết cũng như vừa cho các em thực
hành. Kết quả thu được ở giữa kỳ 1 năm học 2019 – 2020 như sau:
Điểm bài kiểm tra :
Điểm kiểm tra
Điểm 9 -10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Dưới điểm 5
Kỹ năng thực hành :
Kỹ năng thực
Số hs Tỷ lệ % Số hs Tỷ lệ % Số hs Tỷ lệ %
hành
Thao tác nhanh
13
9

- đúng



Thao tác đúng
Thao tác chậm
Chưa biết thao
tác
Chất lượng
giáo dục
Hoàn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
3.

Nội dung và hình thức của giải

pháp: a Mục tiêu của giải pháp:
Các giải pháp, biện pháp đưa ra trong đề tài này nhằm thực hiện được
một số mục tiêu cơ bản sau:
Giúp đỡ các em học sinh có hồn cảnh khó khăn trang bị được đầy đủ
sách giáo khoa đến trường.
Tạo cho các em tâm lý tự tin khi làm việc với máy tính. Phát huy tính
tích cực chủ động học tập của các em. Khơi dậy cho các em đức tính ham học
hỏi, thích khám phá. Biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong học tập.
Giáo viên xác định được vai trò, trách nhiệm với công việc. Tận tâm với
nghề, với các em học sinh thân yêu. Không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức.
Và một mục tiêu quan trọng mà tất cả các giải pháp đều hướng đến đó
chính là để nâng cao chất lượng giáo dục môn Tin học.
b Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp:
Trước khi bước vào giảng dạy cho các em học sinh, tôi luôn tâm niệm
phải làm sao cho học sinh thấy được học môn Tin học là một niềm vui, sự trải

nghiệm và khám phá những lĩnh vực mới. Cho các em thấy được vai trị to lớn
của máy tính đối với đời sống con người. Từ đó giúp các em tính tự giác học, tự
làm.
10


*
ý

Để có 1 tiết dạy hiệu quả, giáo viên phải có kế hoạch bài dạy, xây dựng

tưởng, thiết kế bài dạy phù hợp, đưa ra các mục tiêu giáo dục cụ thể cho từng

bài, và từng hoạt động trong bài. Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy
và phù hợp với nhiều đối tượng học sinh là khâu quan trọng, không thể thiếu
của một tiết dạy học mà bất kỳ một giáo viên nào cũng phải biết và phải làm
được. Trước mỗi bài dạy, giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, mục
tiêu bài học đó phát triển năng lực – phẩm chất gì cho học sinh, ngoài những
nội dung trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm kiếm thêm nhiều thơng tin liên
quan đến nội dung bài học thông qua Internet, để cung cấp thông tin đa chiều
cho các em học sinh.
Không chỉ dừng lại ở việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy chu đáo mà tôi luôn
đến trường sớm hơn tiết dạy bắt đầu từ ít nhất là 15 phút. Khi đó tơi sẽ khởi
động hết hệ thống máy tính, xem xét có máy nào gặp sự cố thì tơi xử lý ln,
khơng để khi học sinh vào học mới phát hiện máy bị lỗi và xử lý sẽ ảnh hưởng
đến thời lượng tiết học cũng như thời gian cho các em thực hành.
*Chất lượng dạy học môn Tin học cũng sẽ ảnh hưởng đáng kể nếu các
em không được thực hành đầy đủ, nhất là trong bối cảnh máy móc hay hỏng
vặt, kỹ thuật viên xa trường. Điều này thôi thúc tôi phải tự học hỏi, nghiên cứu
về sữa chữa máy tính. Nếu bản thân người giáo viên không biết sữa chữa những

lỗi thường gặp, mỗi khi đang dạy học cho học sinh, máy tính gặp sự cố, sẽ ảnh
hưởng đến việc học của các em. Khi có kiến thức chuyên sâu để xử lý các sợ cố
thường gặp thì nỗi lo về các lỗi của máy tính khi kỹ thuật viên ở xa được giải
quyết giúp tôi chủ động hơn trong công việc, học sinh không bị gián đoạn việc
thực hành. Sự am hiểu về máy tính giúp tơi có những ý kiến tham mưu, đề xuất
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nguồn ngân sách nhà trường để nâng cấp được
một phịng máy với số lượng 20 máy tính có cấu hình đủ mạnh để phù hợp với
chương trình Tin học mới: máy có thể chạy mượt với hệ điều hành Windows 7,
phần mềm học tập Office 2010 và những chương trình khác trong nội dung
chương trình Tin học mới, phục vụ tốt nhất cho công việc dạy học. Điều này đã
11


được cô Thân Thị Kim Tuyến chuyên viên sở giáo dục và đào tạo đánh giá rất
cao trong lần kiểm tra trường chuẩn Quốc gia năm 2018.
*Có thể nói trong thời đại công nghệ phát triển, mỗi môn học, mỗi giáo
viên đều phải thay đổi để phát triển theo kịp với xu thế, nhịp sống hiện đại, theo
kịp với sự tiến bộ xã hội. Nhưng trong đó thì mơn Tin học là môn học gắn liền
với công nghệ và thay đổi nhanh nhất. Công nghệ thông tin đang thay đổi từng
ngày, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Điều này đòi hỏi người giáo viên Tin học phải luôn cố gắng, không ngừng học
hỏi để nâng cao chun mơn. Ví dụ: Hệ điều hành Windows trước kia khi giáo
viên được học, được đào tạo chỉ là Windows XP, Vista nhưng nay đã phát triển
lên Windows 7,8,10. Sắp tới có thể sẽ là Windows 11,12...Tương tự như vậy,
các phần mềm học tập của các em cũng thay đổi và cập nhật liên tục: Microsoff
Office 2003 -2007-2010-2013-2016...Vì thế giáo viên phải thường xuyên cập
nhật kiến thức để đáp ứng được yêu cầu đổi mới.
*

Đối với việc giảng dạy kiến thức môn học cho học sinh, tôi luôn chú


trọng đổi mới phương pháp, sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học, phương
thức tiếp cận, trình chiếu bài dạy trên máy chiếu, … nhằm thay đổi không khí
cũng như mơi trường học tập, tạo hứng thú, kích thích trí tị mị, ham học hỏi
của các em. Thường xuyên dự giờ thăm lớp để học hỏi kinh nghiệm từ đồng
nghiệp, tham gia đầy đủ các đợt tập huấn các cấp tổ chức. Sự phát triển của
công nghệ thông tin cũng là cơ hội để tôi học hỏi kinh nghiệm, trau dồi kiến
thức cho mình từ Internet. Tham gia các diễn đàn giáo dục trên Zalo, Facebook
để học tập, trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp của mình trong huyện
cũng như trên cả nước.
Môn tin học ở bậc Tiểu học, cứ sau mỗi tiết lý thuyết, lại có 1 tiết thực
hành để giúp học sinh vừa được học lý thuyết, vừa được thao tác trên máy.
Như vậy quá trình thực hành sau tiết học lý thuyết sẽ giúp học sinh khắc sâu
được kiến thức lý thuyết vừa học, vừa giúp các em vận dụng vào thực hành
ngay để rèn luyện kỹ năng sử dụng chuột – phím, giúp các em thao tác thuần
thục hơn. Vì vậy, giáo viên phải kết hợp giữa giờ học lý thuyết và thực hành
12


sao cho phù hợp. Khi dạy lý thuyết, giáo viên hướng dẫn, truyền thụ kiến thức
chậm, kỹ để học sinh dễ nắm được kiến thức ngay tại lớp. Quá trình hình thành
kiến thức trên lớp, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kỹ các bước thực hiện
của giáo viên, sau đó gọi học sinh lên thực hiện lại các thao tác của thầy. Từ
chỗ quan sát thầy làm mẫu, các bạn thực hiện lại, lúc này giáo viên yêu cầu
học sinh phát biểu bằng lời các bước thực hiện trong bài. Khi học sinh đã hình
thành kiến thức, giáo viên cho học sinh cả lớp đọc đồng thanh lại kiến thức lý
thuyết 3-5 lần. Khi các em đã phát biểu được thành lời các thao tác thực hiện,
giáo viên yêu cầu các em khởi động máy tính và thực hành luôn trên máy.
Thao tác đến đâu các em tự nêu bước mình vừa thực hiện trên máy thành lời
đến đó. Điều này sẽ giúp cho các em khắc sâu được kiến thức, nội dung bài

học.
*Ở độ tuổi là học sinh tiểu học, các em nhanh thuộc bài nhưng cũng
nhanh quên, vì thế trước mỗi giờ học, giáo viên cần phải kiểm tra bài cũ cũng
như đồ dùng học tập. Có học bài cũ thuộc, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập thì
các em mới học tập tốt được. Công việc này cần tiến hành thường xuyên, liên
tục xuyên suốt cả năm học. Để học sinh nào cũng về nhà học bài cũ, học lý
thuyết, cũng có ý thức chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng học tập. Tôi luôn tâm
niệm rằng khi học bài cũ các em sẽ nhớ chuẩn bị đồ dùng học tập, và ngược
lại, khi các em nhớ chuẩn bị đồ dùng học tập các em sẽ biết mình đã thuộc bài
chưa? Để từ đó các em học thuộc bài rồi mới đến lớp.
*Khi dạy thực hành, giáo viên giao bài tập và nhiệm vụ cho học sinh
một cách cụ thể, rõ ràng và kết hợp cả những kiến thức của bài học trước rồi
sau đó chia nhóm để các em thực hành.
Sau khi chia nhóm, giáo viên yêu cầu các thành viên trong nhóm đều phải
có sản phẩm thực hành, điều này đảm bảo tất cả các thành viên nhóm đều hoạt
động, đều được thao tác trên máy tính. Trong q trình thực hành giáo viên bao
quát, xem xét đến từng máy, từng nhóm, để mỗi khi các em gặp khó khăn,
vướng mắc, giáo viên có thể giúp đỡ, động viên kịp thời. Cuối buổi thực hành
giáo viên sẽ cho các nhóm nhận xét bài làm của nhau hoặc các thành viên trong
13


nhóm nhận xét về bài làm của nhau, điều này sẽ tạo sự thi đua giữa các nhóm,
giữa các thành viên trong nhóm giúp cho học sinh có hứng thú khi thực hành.
Việc bố trí sơ đồ lớp học cũng góp phần vào việc giúp cho lớp học tốt
lên, với những em học sinh hay nói chuyện, hay làm việc riêng, tơi thường bố
trí các em ngồi cạnh các bạn học tốt, ham học hỏi. Vì khi đó, những học sinh
này sẽ khơng có bạn để nói chuyện cùng, hoặc sẽ cho các em lên ngồi dãy bàn
đầu, gần với bàn giáo viên, để tiện cho việc theo dõi, nhắc nhở khi các em chưa
chú ý thực hành hay làm việc riêng trong giờ học. Cũng qua việc bố trí cho các

bạn còn chưa chăm, hay làm việc riêng ngồi cùng những bạn chăm chỉ học tập,
học tập tốt, tôi luôn động viên, nhắc nhở các em giúp nhau cùng tiến bộ, từ đó
dần dần hình thành nên những “ đôi bạn cùng tiến”, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
trong học tập và rèn luyện. Khi bạn làm học tốt thao tác trước, bạn còn chậm
hơn quan sát, theo dõi để thực hiện lại các thao tác. Khi bạn thực hành lại vẫn
cịn gặp khó khăn thì tơi khuyến khích để bạn học tốt hơn hướng dẫn cho bạn
mình thực hiện lại các thao tác trên máy tính. Từ đó các em sẽ hình thành ý thức
cùng dìu dắt nhau tiến bộ.
*Đối với những nhóm, những học sinh thực hành tốt, hoặc có tiến bộ
giáo viên cho các bạn trong lớp vỗ tay tuyên dương, giáo viên khen ngợi. Khi
lần đầu tiếp xúc máy tính, các em khơng khỏi thích thú, hoan hỉ, nhưng cũng rất
bỡ ngỡ, có tâm lý lo lắng. Lúc này giáo viên hãy chỉ bảo tận tay giúp các em
biết cách cầm chuột, cách đặt ngón tay lên chuột, trên bàn phím, các thao tác
khi làm việc trên máy tính.... và khi thấy các em sử dụng chuột, bàn phím, hay
thao tác trên máy tiến bộ hãy luôn dành cho học sinh những lời khen, tuyên
dương. Nếu các em chưa thực hiện tốt, người giáo viên cần tìm hiểu nguyên
nhân và đưa ra những lời động viên, khuyến khích, hướng dẫn, chỉ bảo lại cho
các em kịp thời. Tuyệt đối khơng chê bai, phê bình các em. Có như thế học sinh
mới có thể tự tin hơn, mạnh dạn học tập và tiến bộ được.
Nói như thế khơng có nghĩa giáo viên lạm dụng lời khen, mà chúng ta
phải khen cho khéo, cho phù hợp với hồn cảnh, con người, khơng để lời khen
được sử dụng tràn lan, dễ gây sự nhàm chán, phản tác dụng của lời khen.
14


*Đặc trưng của mơn Tin học là lí thuyết gắn liền với thực hành, đặc biệt


cấp tiểu học, các em được làm quen với các phần mềm chú trọng các thao tác


sử dụng chuột và bàn phím. Việc này giúp các em luyện kỹ năng sử dụng chuột
và bàn phím ngày càng thành thạo. Mặc dầu tôi đã cố gắng tạo để các em được
thực hành nhiều, song với thời lượng 1 tuần 2 tiết tin học, mỗi máy có đến 2-3
học sinh thực hành, thì thực tế các em chưa được rèn luyện nhiều. Đặc biệt là
các em còn rụt rè, thao tác chậm. Quá trình quan sát các em học tập, thực hành,
tôi sẽ ghi lại danh sách học sinh trong các lớp thực hành cịn chậm, có hồn
cảnh khó khăn khơng có máy tính ở nhà, để đến giờ ra chơi, tôi ưu tiên cho
những học sinh này được thực hành thêm, quá trình này sẽ xoay vòng từ lớp
này qua lớp khác, khối này qua khối khác nhằm tạo điều kiện cho các em được
thực hành, làm việc với máy tính nhiều hơn, giúp cho kỹ năng sử dụng chuột,
bàn phím của các em được cải thiện.
*Ngồi việc dành lời khen, động viên, thì một phương pháp dạy học tơi
thường sử dụng để khơi dậy trí thơng minh, óc sáng tạo và cũng khơng kém
phần lý thú, giúp học sinh hăng say học bài, đó là tôi luôn lồng ghép các chủ đề
mở vào mỗi phần nội dung kiến thức của các em. Ví dụ ở phần em tập vẽ Paitn,
ngoài những bài học và các nhiệm vụ học tập các em cần hồn thành, tơi dành
riêng 1 tiết để các em vẽ theo trí tưởng tượng về một điều khiến em thích thú.
Khi tơi đưa ra yêu cầu này tất cả các em đều hào hứng, thi nhau vẽ, bạn thì vẽ
về ngơi nhà mơ ước, bạn lại vẽ về chiếc xe, bạn vẽ món đồ chơi mong muốn
được bố mẹ mua... sau khi vẽ xong tơi cho học sinh giải thích về hình mà mình
đã vẽ ra. Em nào cũng muốn nói ra suy nghĩ, mong muốn được trình bày về bức
tranh của mình, làm cho khơng khí lớp học sơi nổi, các em thêm tự tin khi đứng
trước đám đơng trình bày ý kiến.
Khi học phần mềm soạn thảo Word, các em hoàn thành các bài gõ theo
yêu cầu trong sách giáo khoa, tôi sẽ cho các em viết một bài văn cảm nghĩ của
mình về ngơi trường mình học, về ơng bà cha mẹ, về ngày Tết cổ truyền của
dân tộc, về truyền thống anh bộ đội cụ Hồ...Điều này giúp cho các em vừa được
học Tin học, luyện gõ chữ, lại được làm văn, được bộc lộ những tâm tư tình
15



cảm của mình. Làm cho các em thêm u thích môn học Tin học.
Hay khi các em được học về chỉnh sửa Video, học về Power Point, tôi lại
cho các em kết hợp với kiến thức được học trên Internet để tìm kiếm các hình
ảnh, video, bài hát liên quan và tạo ra một sản phẩm về tình yêu quê hương, ông
bà cha mẹ, hay về lịch sử Việt Nam... Khiến các em vơ cùng thích thú.
Với những chủ đề mở được tôi khéo léo đưa vào với mỗi phần nội dung
kiến thức các em được học ở trên, không chỉ giúp cho các em thêm hào hứng,
sôi nổi học tập, phát huy được hết tích tích cực, sự sáng tạo của học sinh, mà
qua đó giúp cho học sinh hiểu Tin học rất gần gũi với thực tiễn, giúp ích cho
con người rất nhiều trong đời sống sinh hoạt, kể cả từ những điều nhỏ nhất.
Cũng qua các sản phẩm học tập và phần trình bày của học sinh về các chủ đề
đưa ra, tôi cũng sẽ hiểu hơn về tâm tư tình cảm, suy nghĩ của các em về những
giá trị truyền thống cốt lõi, tình cảm đối với ơng bà cha mẹ, thầy cơ bạn bè, hay
nói cách khác, qua đó người giáo viên có thể hiểu rõ hơn về các em để có
những định hướng giáo dục tồn diện cho các em. Vì tơi cho rằng, trách nhiệm
của tôi không chỉ dừng lại ở mức chỉ truyền thụ kiến thức mơn học cho các em,
mà cịn cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các tổ chức đồn thể, gia đình,
nhà trường và xã hội để giáo dục, định hướng các em phát triển toàn diện về
“Đức – trí – thể - mỹ.
*Tơi cũng mạnh dạn thay đổi, bố cục và sắp xếp lại những nội dung kiến
thức trong sách giáo khoa cho phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường. Ví dụ phần học nhạc với Encore, nhà trường chưa có hệ thống loa, tai
nghe để các em thực hành, vì vậy đến phần này, tôi sẽ bổ sung các kiến thức về
phần mềm soạn thảo Word cho các em, bởi vì nội dung kiến thức về phần mềm
soạn mà chương trình tin học tiểu học khá ít, nhưng khi học nội dung này các
em cũng giống như đang vừa học Tin học, vừa học các phân môn Tiếng Việt,
giúp cho các em soạn, sửa lỗi chính tả tốt hơn. Hơn nữa khi soạn thảo sẽ tạo
điều kiện để các em được thực hành nhiều hơn với bàn phím, được luyện gõ
nhiều hơn.

*Để các em có thể học tập tốt hơn, thì việc trang bị đầy đủ dụng cụ học
16


tập, sách giáo khoa là rất cần thiết. Song không phải học sinh nào cũng có điều
kiện để mua sắm đầy đủ dụng cụ học tập, thậm chí chỉ là sách giáo khoa thôi,
cũng là một gánh nặng về kinh tế khiến các em chưa thể mua sắm đầy đủ được.
Trải qua nhiều năm giảng dạy tại trường, tôi đã rút ra được kinh nghiệm để có
thể giúp đỡ các em có hồn cảnh khó khăn có thể có được đầy đủ sách giáo
khoa, đó là khi tơi dạy học ở các lớp, tơi thường dặn dị các em giữ gìn sách vở
cẩn thận, sạch đẹp, đó cũng là một đức tính quý của người học sinh, và sau khi
học xong kỳ học, năm học đó, nếu các em khơng để lại cho em mình hay người
thân, thì tơi thường nói với các em, xin phép ý kiến phụ huynh học sinh tập hợp
lại những cuốn sách còn sạch đẹp đó để hỗ trợ những em khóa sau có hồn cảnh
khó khăn. May mắn là ý tưởng này của tơi được đơng đảo phụ huynh, học sinh
nhiệt tình ủng hộ, từ đó các em học sinh có hồn cảnh khó khăn khơng cịn nỗi
lo thiếu sách giáo khoa nữa.
Việc làm này khơng những có thể giúp đỡ cho những học sinh có hồn
cảnh khó khăn, mà cịn giúp cho học sinh biết giữ gìn sách vở, yêu quý tài sản
tri thức vơ giá của mình, khơi dậy tình u thương con người với nhau, tinh
thần tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, biết đồng cảm với nhau. Làm
được một việc tốt nhỏ, nhưng cũng khiến các em học sinh vui, tự hào, và rất hào
hứng, hưởng ứng nhiệt tình và nó như đã thành một phong trào, từ đó, các em
tự bảo ban nhau, cứ mỗi cuối năm học hoặc đầu năm học mới, các em lại mang
những bộ sách giáo khoa cũ của mình tập hợp lại và mang cho tôi để hỗ trợ các
bạn. Không những thế, tinh thần tương thân tương ái này còn lan tỏa và nhân
rộng, ở cả những môn học khác trong trường, góp một phần nhỏ nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện của học sinh cũng như giúp cho các em học sinh có
hồn cảnh khó khăn bớt đi một phần khó khăn về kinh tế khi phải mua sắm sách
giáo khoa.

*Để nâng cao chất lượng giáo dục, không thể dựa cả vào nhà trường, thầy
cô, và học sinh, mà một yếu tố cũng khơng kém phần quan trọng đó chính là sự
quan tâm của quý phụ huynh đến việc học tập của con em mình. Trước đây mỗi
lần kiểm tra đồ dùng học sinh của các em, hay kiểm tra bài cũ, một trong những
17


câu trả lời của học sinh về lý do các em chưa học bài, quên sách vở mà khiến tôi
buồn lịng nhất đó là: “Thưa thầy, bố(mẹ) em nói học mơn Tốn và Tiếng Việt
đã, chưa cần học Tin học”. Chính vì sự hiểu biết chưa đúng đắn về vị trí, vai trị
của mơn Tin học, sự thiếu quan tâm việc học hành của con em mình, nên dẫn
đến cịn nhiều học sinh chưa thuộc bài, còn quên mang sách vở khi đến lớp.
Chính vì vậy, trước mỗi tiết học, việc kiểm tra bài cũ, đồ dùng học tập của em là
công việc luôn được tôi chú trọng. Mỗi khi các em chưa thuộc bài, quên đồ
dùng, tôi nhắc nhở ngay. Những em quên đồ dùng học tập hoặc chưa học thuộc
bài đến 2-3 lần trong 1 kỳ học, tôi sẽ tìm hiểu và trao đổi với giáo viên chủ
nhiệm nhờ họ nhắc nhở đến phụ huynh, hoặc chính tơi sẽ liên hệ với phụ huynh
để trao đổi.
Là một giáo viên trẻ, luôn đi đầu trong các phong trào của nhà trường,
nên mỗi khi có các hoạt động phong trào như tổ chức tết Trung thu cho học
sinh, tổ chức trò chơi cho các em trong tháng thanh niên, hay các phong trào hội
khỏe phù đổng, các giải bóng đá do cấp phịng tổ chức tơi ln xung phong tổ
chức, hướng dẫn cũng như dẫn đoàn tham gia. Những lúc như vậy tôi lại được
tiếp xúc với các bậc phụ huynh nhiều hơn, được nói chuyện và chia sẻ với phụ
huynh học sinh. Thông qua những câu chuyện về cuộc sống hàng ngày, tôi và
phụ huynh cũng được hiểu về nhau hơn, thân thiện hơn. Những lúc như thế, khi
có cơ hội, tôi cũng không quên kể cho các em học sinh cũng như các bậc phụ
huynh về một sự kiện, ứng dụng hay lợi ích thiết thực trong cuộc sống mà công
nghệ thông tin và truyền thông mang lại cho chúng ta. Hoặc một sự kiện nào đó
vừa xảy ra mà chúng ta ngay lập tức biết được nhờ có sự phát triển mạnh mẽ

của mạng máy tính. Cứ như thế dần dần các bậc phụ huynh, học sinh đã hiểu rõ
hơn về vị trí vai trị của mơn học, khơng cịn xem Tin học chỉ là các trị chơi
game vơ bổ nữa. Niềm vui đó là những năm gần đây, các em hăng hái học bài,
và học thuộc bài cũ, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập khi đến lớp, tuy vẫn cịn
tình trạng số ít học sinh chưa thuộc bài cũ, đơi lúc cịn qn đồ dùng, nhưng khi
hỏi lý do thì khơng cịn là vì bận học mơn Tốn và Tiếng Việt nữa. Rõ ràng vị
thế mơn học đã được nâng lên, đó thật sự là một niềm vui lớn đối với bản thân
18


tơi.
Ngồi các biện pháp nêu trên, để nâng cao chất lượng giờ dạy, giờ học
môn Tin học bậc học Tiểu học, giáo viên cũng cần phải luôn chuẩn mực trong
mọi hành động, lời nói, để ln là tấm gương sáng cho các em học sinh noi
theo. Khi đứng lớp phải nghiêm túc, mẫu mực và ln tạo ra khơng khí vui
tươi, thoải mái giúp cho tiết dạy diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả
cao nhất.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp.
Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp vô cùng cần thiết. Qua
các giải pháp trên cần có biện pháp tốt, phù hợp mới thực hiện tốt các giải pháp.
Trước tiên phải có tấm lịng u nghề, u q học sinh, phải thật sự tận
tụy với công việc giảng dạy.
Người giáo viên phải có bịên pháp giáo dục, có kế hoạch giảng dạy cụ
thể, sát thực với tình hình của lớp, với từng đối tượng học sinh.
Thường xuyên kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường và xã hội.
Nắm bắt điều kiện, hoàn cảnh học sinh về kinh tế, về đời sống tình cảm
qua thực tế từng gia đình phụ huynh . Giáo dục thông qua các đặc điểm tâm lý
của học sinh: kích thích, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Là giáo viên, bản thân luôn thường xuyên thay đổi, cải tiến phương pháp
dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất, lấy học sinh làm trung tâm,

động viên, khuyến khích các em tư duy, sáng tạo, bày tỏ ý kiến của mình, tự tin
trước tập thể. Giáo dục học sinh về kỹ năng sống, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè
trong học tập, biết cách ứng xử phù hợp với thầy cô giáo, với bạn bè, biết bày tỏ
tình cảm u thương với ơng bà, cha mẹ, thầy cô….
Các bậc phụ huynh cần quan tâm hơn nữa đối với con em mình, đối với
sự nghiệp giáo dục. Phải thực sự là tấm gương mẫu mực cho con em mình noi
theo, cần phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên với cô giáo chủ nhiệm lớp, với
giáo viên bộ mơn.
Tạo nhiều hình thức để tất cả các em đều được trình bày ý kiến (khi
hoạt động nhóm), thực hiện các thao tác trên máy tự nhiên, không cảm giác
19


ngượng ngùng hay bị gị ép. Ln động viên khuyến khích các em, tạo cho
các em sự tự tin khi đứng trước lớp trình bày ý kiến hay khi lên trên máy
thực hiện các thao tác thực hành.
Như vậy học sinh sẽ cảm thấy vừa được học vừa được chơi, tạo được
khơng khí thoải mái khi học tập.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Trước khi áp dụng đề tài này, các em học sinh chưa thực sự tự tin khi
thực hành trên máy, còn lười học bài cũ, việc chuẩn bị đồ dùng học tập của
các em chưa tốt cả về lý do chủ quan và khách quan. Chất lượng giáo dục
chưa cao.
Sau khi áp dụng những giải pháp vừa nêu vào việc dạy học môn Tin
học trường TH Tam Trung, tôi nhận thấy học sinh học tập tiến bộ rõ rệt, các
em nắm chắc kiến thức lý thuyết, tự tin khi thao tác thực hành trên máy, có
hứng thú khi học mơn Tin học. Đồ dùng học tập các em được chuẩn bị đầy
đủ, kể cả những em có điều kiện khó khăn cũng đã đủ sách vở để đến lớp.
Thường xuyên học thuộc bài cũ trước khi lên lớp. Chất lượng giờ dạy – học
môn Tin học được nâng cao rõ rệt .

Kết quả học tập của các em cuối kỳ I và cuối năm học đã thể hiện rất rõ
sự tiến bộ này.

Chất lượng giáo dục cuối kỳ I năm học 2019 – 2020.
Điểm bài kiểm tra :
Điểm kiểm tra
Điểm 9 -10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
20

Dưới điểm 5


Kỹ năng thực hành :
0
0%
0
0%
0
0%

Kỹ năng thực
hành
Thao tác nhanh
- đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm
Chưa biết thao
Chất lượng giáo dục :


tác

Chất lượng
giáo dục
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Chất lượng giáo dục cuối năm học 2019 – 2020.
Điểm bài kiểm tra :
Điểm kiểm tra
Điểm 9 -10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Dưới điểm 5
Kỹ năng thực
hành
Thao tác nhanh
- đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm


Chưa biết thao
Chất lượng giáo dục :
Chất lượng

tác



giáo dục
Hồn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
Qua đây ta có thể thấy chất lượng giáo dục, kỹ năng thực hành của các em
đã tăng lên từ cuối học kỳ I năm học 2019- 2020, và đến cuối năm học,chất
lượng giáo dục, các kỹ năng thực hành của các em đã được nâng lên rõ rệt.
Tỷ lệ học sinh hoàn thành tốt, thao tác nhanh và đúng không ngừng tăng lên
theo thời gian, khơng cịn học sinh chưa hồn thành cũng như chưa biết thao
tác trên máy tính. Trong số các em hồn thành thì tỷ lệ các em đạt điểm 7 và
điểm 8 cũng rất cao.
Như vậy có thể khẳng định những giải pháp, biện pháp mà tôi áp dụng
cho các em học sinh đã phát huy hiệu quả, các em đã thực sự tự tin khi được
làm việc trên máy, khơng cịn e dè, sợ sệt, mà rất hứng thú khi được thực
hành.

III. Kết luận, kiến nghị:
1 Kết luận:
Nâng cao hiệu quả giáo dục luôn là vấn đề cấp bách đựơc đặt lên hàng đầu
trong sự nghiệp giáo dục. Dạy tốt - học tốt là mục tiêu mà những người làm
công tác giáo dục hướng tới. Và để làm được điều đó, cần ở giáo viên một tinh
thần trách nhiệm cao, tận tâm với nghề. Luôn biết học hỏi những cái hay, cái
mới để áp dụng vào công tác giảng dạy, ln có ý thức trau dồi, nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ. Dám nghĩ, dám làm và không ngần ngại thay đổi. Và
hơn tất cả, là người giáo viên phải biết yêu thương, đối xử công bằng với các
em học sinh, tất cả vì mục tiêu giáo dục toàn diện cho các em, các mầm non
tương lai của đất nước.
Với tư cách là một giáo viên giảng dạy môn Tin học bậc tiểu học tôi
mong muốn và tin tưởng rằng thông qua những giải pháp – biện pháp mà tơi
vừa trình bày ở trên, sẽ giúp cho chất lượng dạy học môn Tin học ngày càng

được nâng cao.
22


2: Kiến nghị:
*

Phòng giáo dục huyện:- Cần tạo điều kiện cho giáo viên bồi dưỡng nâng

cao trình độ chun mơn nghiệp vụ.
-

Đầu tư trang thiết bị đồ dùng dạy và học, nhất là các tài liệu tham

khảo về bộ môn Tin học. Thành lập Tổ tin học cấp phòng để các giáo viên
trong huyện được dự giờ, học tập lẫn nhau nhiều hơn.
*

Đối với nhà trường :- Quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ đầu tư, mua

sắm thêm cơ sở vật chất phục vụ dạy – học môn Tin học.
*

Đối với phụ huynh học sinh: Cần có sự quan tâm đúng mực, quản lý thời

gian và tạo điều kiện, động viên và bảo ban các em học bài cũ.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc nghiên cứu áp dụng
giúp học sinh tự tin khi thao tác trên máy tính, nâng cao chất lượng giờ dạy

– học mơn Tin học bậc Tiểu học.

Tuy nhiên cịn nhiều yếu tố khách quan và chủ quan và vẫn cịn nhiều mặt
hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để chun đề của
tơi có hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Ea Tam, ngày 22 tháng 02 năm 2021
Người thực hiện
Phan Nguyễn Ý Đạt

23


Nhận xét của chủ tịch hội đồng khoa học giáo dục
- Cấp cơ sở:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

- Cấp huyện:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

24


×