Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.66 KB, 39 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC TRANG A.PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................3 I.ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................3 II.MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH....................................4 III.GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI..............................................................................4 IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................5 B.PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................5 I.CƠ SỞ LÍ LUẬN............................................................................................5 II.CƠ SỞ THỰC TIỄN......................................................................................6 III.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT................7 1.Về phía giáo viên.............................................................................................7 2. Về phía học sinh.............................................................................................8 IV.ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC...........................8 V. PHÁT HUY PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ - TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12......9 1.Khái niệm vấn đề và giải quyết vấn đề.........................................................9 2.Cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề.....................................................10 VI.PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VỚI VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM TỰ SỰ 12 1.Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp nêu vấn đề..............................12 2.Một số cách thức vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự...................................................................................................13 3.Nhận xét...........................................................................................................21 VII.VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VÀO VIỆC THIẾT KẾ GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (Nguyễn Minh Châu)........................................................................................................21 C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ....................................................................................38 I.TÍNH HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI...................................................................38 II.KẾT LUẬN....................................................................................................39 D.TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................41.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH A. PHẦN MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục mang một vị trí quan trọng trong việc xây dựng một xã hôi phát triển vì vậy việc đổi mới phương pháp giáo dục để không ngừng nâng cao đổi mới về mọi mặt. Những năm gần đây, ngành giáo dục đã trải qua sự thay đổi quan trọng. Từ đó nhiều phương pháp giáo dục cũng phải đổi mới. Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành đã nêu rõ: “phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng học sinh phương pháp tự học khả năng hợp tác rèn luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn”. Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK môn Ngữ Văn lớp 12 đã giới thiệu một số phương pháp dạy học theo định hướng tích cực như: thuyết trình, vấn đáp, đàm thoại, phát hiện và giải quyết vấn đề……… Ngữ Văn là một trong những môn học chính trong nhà trường, được coi là một môn nghệ thuật mang tính khoa học. Đó là một loại hình nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc sống bằng hình tượng thông qua ngôn ngữ, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử làm phong phú tâm hồn và vẻ đẹp nhân cách. Những năm qua, ngành giáo dục đã chỉ đạo việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học trong đó có môn Ngữ Văn. Giảng dạy môn Ngữ Văn nói chung không chỉ đơn thuần dạy cho học sinh biết về cái hay cái đẹp của tác phẩm, mà còn giúp cho học sinh hiểu, cảm thụ sâu sắc hơn, cũng như biết cách khám phá, phát hiện ra những cái hay cái đẹp trong tác phẩm văn chương. Vì vậy, việc đổi mới dạy học bắt đầu từ việc thay đổi phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh để các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết yêu thương chia sẻ với chính cuộc đời từ trong mỗi trang sách là điều hết sức cần thiết..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> Việc dạy học theo định hướng tích cực đã được giáo viên giảng dạy vận dụng vào thực tế. Tuy nhiên việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tổ chức giờ đọc hiểu văn bản tác phẩm tự sự vẫn còn nhiều hạn chế. Bản thân tôi là giáo viên đứng lớp, luôn đặt ra câu hỏi làm sao để nâng cao chất lượng của giờ đọc hiểu văn bản, làm sao để học sinh hứng thú hơn với các tác phẩm tự sự và việc vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực, đặc biệt là phương pháp nêu vấn đề như thế nào cho phù hợp để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh , vừa phù hợp với nội dung bài dạy, với từng đối tượng học sinh. Vậy việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề như thế nào để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc học bộ môn Ngữ Văn nói chung và việc học tác phẩm tự sự nói riêng? II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH Từ thực tiễn giảng dạy, tôi đã mạnh dạn “vận dụng phương pháp nêu vấn đề để phát huy tính tích cực của học sinh trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự” với mục đích nâng cao hiệu quả dạy học văn và rèn luyện một số kỹ năng cảm thụ, tiếp nhận văn bản văn học cho học sinh thông qua việc phát hiện và giải quyết vấn đề trong tác phẩm tự sự. III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI - Phương pháp nêu vấn đề có thể vận dụng vào việc giảng dạy tác phẩm tự sự cũng như trữ tình. Nhưng trong phạm vi tìm hiểu và thực tế giảng dạy. Chuyên đề sáng kiến giới hạn trong việc “vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự” trong chương trình Ngữ Văn 12 để phát huy tính tính cực chủ động của học sinh trong việc học tác phẩm tự sự nói riêng và học bộ môn Ngữ Văn nói chung. - Do nội dung khuôn khổ của sáng kiến, bản thân tôi không đi sâu vào việc trình bày chi tiết lí thuyết về phương pháp nêu vấn đề, mà chuyên đề đi vào nội dung cụ thể của một số tác phẩm, một số cách thức vận dụng phương pháp nêu vấn đề - câu hỏi nêu vấn đề sao cho hiệu quả trong một số tác phẩm cụ thể, nhằm mục đích phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc học môn Ngữ Văn. Qua đó hình.
<span class='text_page_counter'>(4)</span> thành cho các em biết nhận thức vấn đề, giải quyết vấn đề từ trong những tác phẩm tự sự, hình thành kỹ năng đọc hiểu văn bản văn học theo đặc trưng thể loại cho các em học sinh, góp phần nâng cao chất lượng trong việc dạy học tác phẩm tự sự. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp thực hiện đề tài: từ việc thực hiện tìm hiểu đặc điểm chung về phương pháp dạy học nêu vấn đề, giáo viên áp dụng vào một số tác phẩm tự sự cụ thể trong chương trình Ngữ Văn 12 cơ bản.Từ đó thiết kế bài dạy và kết quả áp dụng đề tài tại các lớp mà giáo viên phụ trách. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Dạy học nêu vấn đề là một phương thức dạy học trong đó giáo viên nêu lên nghi vấn để hướng sự suy nghĩ tích cực của học sinh nhằm tạo nên tính huống có vấn đề. Phương pháp nêu vấn đề có tác dụng gợi nên suy nghĩ, tập trung chú ý và đánh giá phản hồi và tổ chức học tập. Dạy học nêu vấn đề không phải lấy phương thức truyền thụ làm chính mà là tổ chức hướng dẫn để học sinh tìm tòi phát hiện. Khi đó học sinh là chủ thể nhận thức, nhằm phát huy được tính năng động và sáng tạo của học sinh. Phương pháp dạy học nêu vấn đề còn tạo ra tình huống có vấn đề. Để tạo ra tình huống vấn đề, nhất thiết phải có những câu hỏi nêu vấn đề. Từ đó kích thích học sinh tích cực chủ động vận dụng những hiểu biết có sẵn vào họat động tư duy nhận biết tác phẩm. Đặt học sinh vào hệ thông câu hỏi có vấn đề trong giờ dạy môn Ngữ Văn giúp học sinh hình thành thói quen tư duy và phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Nhà lí luận dạy học La-Léc-ne nhận định: “Họat động sáng tạo chỉ nảy sinh khi nào giải quyết được vấn đề, khi nào phải đương đầu với tình huống có vấn đề”. Như vậy việc đặt ra tình huống có vấn đề và câu hỏi nêu vấn đề là cách thức để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ dạy văn, giúp học sinh không chỉ chiếm lĩnh được tri thức nội dung cần đạt mà còn hình thành kĩ năng chiếm lĩnh tri thức mới. Vì vậy việc dạy học nêu vấn đề và hệ thống câu hỏi.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> nêu vấn đề thích ứng với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa họat động của học sinh. Dạy học nêu vấn đề còn đáp ứng được yêu cầu cải tiến một giờ dạy văn của Vụ giáo dục phổ thông “Trong giờ giảng văn, giáo viên phải nêu những vấn đề, dẫn dắt học sinh phát hiện được những cái hay, cái đẹp. Giáo viên uốn nắn hướng dẫn để các em làm được việc này, không làm thay”. Nhà văn M.Gróoki đã từng nhận xét “Tác phẩm văn học nào cũng là tác phẩm có vấn đề”. Thực tế giảng dạy văn cho thấy “vấn đề” chính là điều mà tác giả phản ánh, lí giải trong tác phẩm. V. CƠ SỞ THỰC TIỄN Việc giảng dạy môn Ngữ Văn là giúp học sinh tìm hiểu về cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật, là một sản phẩm của nhà văn, được lựa chọn để đưa đến với người đọc là giáo viên và học sinh. Vì vậy mỗi ý kiến của người đọc học sinh đưa ra về tác phẩm đều đáng quý và đáng trân trọng. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học tác phẩm tự sự, giáo viên không nên phủ định những vấn đề học sinh đưa ra mà cần định hướng cho học sinh cách suy nghĩ nhận xét đúng đắn với mỗi tác phẩm văn chương. Giáo viên đóng vai trò hướng dẫn học sinh tìm hiểu vào tác phẩm, tự khám phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm. Giáo viên bằng những câu hỏi đặt vấn đề, câu hỏi gợi mở, câu hỏi định hướng khám phá, tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh tự cảm nhận về tác phẩm, tự nhận định về giá trị đích thực của tác phẩm.Việc dạy văn, mà đặc biệt là việc phân tích tác phẩm văn học, để tạo sự hấp dẫn và hứng thú với học sinh nhất định phải là việc biến học sinh thành người trong cuộc - để các em tự phát huy năng lực tư duy của mình, tự khám phá ra những giá trị đích thực của tác phẩm. Trong những năm gần đây, cùng với sự đổi mới nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy người học làm trung tâm cũng được đặt ra. Bản chất của sự đổi mới đó là chuyển từ phương pháp thông báo tái hiện sang việc tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của học sinh nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của họ, để họ tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng. Để thực hiện điều đó cần phối hợp các xu hướng: tích cực hoá, cá biệt hoá, phân hoá hoạt động nhận thức - học tập của học sinh. Việc dạy học để phát.
<span class='text_page_counter'>(6)</span> huy tính tích cực của học sinh, đã và đang được thực hiện. Tuy nhiên khó khăn nhất là việc vận dụng vào thực tế giảng dạy sao cho hiệu quả. Một trong những phương pháp quan trọng trong việc giảng dạy môn Ngữ Văn chính là việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề và sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để nâng cao và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh khi cảm thụ tác phẩm văn học ,vốn là ngôn ngữ hàm ẩn, đa nghĩa, đa thanh, vì thế dễ tạo ra những tình huống tiếp nhận khác nhau của học sinh. III.THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT 1. Về phía giáo viên - Khi nêu vấn đề, một số câu hỏi chưa định hướng đúng vào những vấn đề trung tâm cốt lõi của tác phẩm. Câu hỏi không có chủ định từ trước, bộc phát tức thời, chưa định hướng được trong việc tìm hiểu tác phẩm văn học, tản mạn, giữa các câu hỏi chưa có sự hỗ trợ liên kết với nhau, không có tính hệ thống và bao quát những vấn để tác giả đặt ra trong tác phẩm, hay những câu hỏi chỉ nhằm tái hiện kiến thức trong tác phẩm vì vậy chưa thể phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, chưa tạo được tình huống có vấn đề để học sinh nhận thức, bởi vậy chưa tạo được sự chủ động trong việc tiếp cận tác phẩm văn chương. - Các câu hỏi nêu vấn đề chưa mang tính hệ thống, rời rạc không liên kết kiến thức trong bài dạy. Có những câu hỏi nêu vấn đề vụn vặt chưa tạo được sự hứng thú cho học sinh. - Một trong những nguyên nhân khiến một giờ học văn nhàm chán, học sinh không hứng thú là do câu hỏi chưa gây được sự tò mò đối với học sinh, chưa hướng vào vấn đề chính mà chỉ đi tản mạn vào một số vấn đề nhỏ, tất cả những yếu tố đó làm giảm sự chủ động và tích cực của việc học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. + Loại câu hỏi thiên về tái hiện kiến thức, ít có câu hỏi có khả năng luyện trí thông minh và tư duy sáng tạo của học sinh + Một số câu hỏi nêu vấn đề ở mức độ khó nhưng chưa có sự gợi ý chi tiết + Khi sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, giáo viên chỉ hỏi mà chưa tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> 2. Về phía học sinh Trường THPT Kiệm Tân đa số học sinh có tỉ lệ đầu vào chưa cao, ý thức trong học tập chưa tốt. Khả năng tự học còn nhiều hạn chế + Các em còn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức. Học sinh chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, chưa biết cách trả lời, hay thậm chí còn lúng túng trong những câu hỏi khó, chưa biết cách vận dụng vào sáng tạo trong các tình huống của bài học + Học sinh vẫn còn dừng lại ở mức độ nghe và ghi chép, chưa tham gia vào việc xây dựng bài. Khả năng khái quát , khả năng cảm nhận tác phẩm văn học của học sinh còn nhiều hạn chế. + Học sinh lười xây dựng bài, chưa có ý thức tham gia vào các hoạt động dạy và học. Như thế giờ văn của thầy và trò sẽ trở nên mệt mỏi dẫn đến kết quả học tập bộ môn Ngữ Văn chưa đạt hiệu quả cao. IV. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực: + Dạy học thông qua tổ chức hoạt động học tập của học sinh. + Dạy học chú trọng phương pháp tự học. + Tăng cường học tập cá thể, phối hợp học tập hợp tác. + Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Hiện nay giáo dục chú trọng vào phát triển năng lực của học sinh chứ không đơn thuần là truyền thụ kiến thức. Mà muốn phát triển năng lực của học sinh thì trước hết học sinh phải thích môn học đó. Muốn vậy thì giờ học phải thu hút được học sinh tham gia. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm riêng. Cần phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để có thể phát huy những ưu điểm và hạn chế nhược điểm đó. Mặt khác, trong một bài dạy không thể chỉ dùng một phương pháp duy nhất là có thể phát huy tính tích cực của học sinh. Nhưng kết hợp nhiều.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> phương pháp mà không hợp lý sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Sử dụng nhiều phương pháp không chỉ làm bài học hay hơn, học sinh thích thú học hơn mà còn phát triển nhận thức, kỹ năng của học sinh. Trong quá trình giảng dạy, GV cần dựa vào nội dung, yêu cầu, thời gian, trình độ nhận thức của đối tượng và hoàn cảnh cụ thể để sử dụng các hình thức giảng dạy thích ứng. V. PHÁT HUY PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ - TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 1. Khái niệm vấn đề và giải quyết vấn đề Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng chưa có quy luật sẵn cũng như những tri trức, kỹ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà còn khó khăn, cản trở cần vượt qua. Dạy học giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở lý thuyết nhận thức. Theo quan điểm của tâm lý học nhận thức, giải quyết vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy và nhận thức của con người, tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề. Dạy học giải quyết vấn đề là một quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. Học sinh được đặt trong một tình huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề đó giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề là phương pháp dựa trên quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo nên một chuỗi những tình huống vấn đề và điều khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy mà nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học cho học sinh. Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những PPDH mà ở đó GV là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm đạt được mục tiêu dạy học..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> 2. Cấu trúc của quá trình giải quyết vấn đề. 2.1 Nhận biết vấn đề: trong bước này cần phân tích tình huống đặt ra, nhằm nhận biết được vấn đề. Trong dạy học đó là cần đặt học sinh vào tình huống có vấn đề. Vấn đề cần được trình bày rõ ràng. 2.2 Tìm các phương án giải quyết: Nhiệm vụ của bước này là tìm các phương án khác nhau để giải quyết vấn đề. Để tìm các phương án giải quyết vấn đề cần so sánh, liên hệ với những cách giải quyết vấn đề tương tự đã biết cũng như tìm các phương án giải quyết mới. Các phương án giải quyết đã tìm ra được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lý ở giai đoạn tiếp theo. 2.3 Quyết định phương án giải quyết: Các phương án giải quyết đã được tìm ra cần được phân tích, so sánh và đánh giá xem có thực hiện được việc giải quyết vấn đề hay không. Nếu có nhiều phương án có thể giải quyết thì cần so sánh để xác định phương án tối ưu. Nếu các phương án đã đề xuất chưa giải quyết được vấn đề thì cần trở lại giai đoạn tìm kiếm phương án giải quyết mới. 2.4 Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau: - Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức + Tạo tình huống có vấn đề; + Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh; + Phát hiện vấn đề cần giải quyết - Giải quyết vấn đề đặt ra + Đề xuất cách giải quyết; + Lập kế hoạch giải quyết; + Thực hiện kế hoạch giải quyết. - Kết luận: + Thảo luận kết quả và đánh giá; + Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra; + Phát biểu kết luận; + Đề xuất vấn đề mới. 2.5 Các mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề Các. Đặt vấn. Nêu giả. Lập kế. Giải quyết. Kết luận,.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> mức đề thuyết hoạch vấn đề đánh giá 1 GV GV GV HS GV 2 GV GV HS HS GV + HS 3 GV + HS HS HS HS GV + HS 4 HS HS HS HS GV + HS Trong dạy học theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. 2.6 Những yêu cầu chính đối với câu hỏi nêu vấn đề trong giờ dạy Ngữ Văn - Câu hỏi nêu vấn đề phải tạo ra tình huống có vấn đề - kích thích sự tích cực nhận thức của học sinh - Câu hỏi nêu vấn đề phải có sự sáng tạo - Câu hỏi nêu vấn đề phải có tính hệ thống - Câu hỏi nêu vấn đề phải bám sát vào văn bản nghệ thuật - Câu hỏi nêu vấn đề phải căn cứ vào đạc điểm tâm lý tiếp nhận của học sinh - Câu hỏi nêu vấn đề phải có mối tương quan giữa các phương pháp khác trong một giờ dạy văn VI. PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VỚI VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM TỰ SỰ 1. Một số yêu cầu khi vận dụng phương pháp nêu vấn đề - Câu hỏi nêu vấn đề phải được đặt ra từ vấn đề của tác phẩm. Để đặt được câu hỏi phát hiện trúng vấn đề cần triển khai. Giáo viên phải tìm hiểu thật thấu đáo tác phẩm và chỉ có hiểu tác phẩm. Giáo viên mới có thể phát hiện được những chi tiết có khả năng trở thành vấn đề và đó là những vấn đề thích đáng nhất. Ở tác phẩm văn xuôi, vấn đề hay tình huống tiếp nhận thường là những nội dung khái quát về tư tưởng, chủ đề, ý nghĩa tác phẩm hay nghệ thuật của tác phẩm………… - Giáo viên phải hiểu được đối tượng học sinh mình giảng dạy, hiểu được khả năng tư duy và nhận thức của các em để từ đó vận dụng phương pháp nêu vấn đề cho phù hợp. Thực tế tâm lý lứa tuổi của học sinh THPT thích tìm tòi khám phá những tri thức mới, thích tham gia giải thích cái mới theo quan điểm riêng. Hoc sinh lứa tuổi này đã biết suy luận đánh giá trên cơ sở phân tích các dữ liệu học tập..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> Một số học sinh thường sa vào diễn đạt lan man mà không nêu lên được những nội dung sâu sắc của tác phẩm. Vì vậy khi giáo viên hiểu đối tượng từng lớp mình giảng dạy, giáo viên sẽ đặt ra được những câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Giáo viên tôn trọng những cảm thụ suy nghĩ của học sinh. Tạo điều kiện cho học sinh nói lên suy nghĩ của mình do tác phẩm gợi ra chứ không phải chỉ nói lặp lại theo ý của người khác. Giáo viên nên xem học sinh là chủ thể tích cực trong họat động cảm thụ tác phẩm. Mục đích lớn nhất của giờ giảng văn sẽ là “dạy suy nghĩ, dạy tìm tòi” và dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự mình cảm nhận và chiếm lĩnh tác phẩm. - Để phương pháp nêu vấn đề và giảng dạy nêu vấn đề thành công, điều cần thiết là giáo viên tạo không khí học tập hứng thú, tạo mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò. Với mục đích là học sinh có thể mạnh dạn trao đổi với lớp với giáo viên về những điều mà học sinh suy nghĩ cảm nhận. Như thế giáo viên sẽ đóng vai trò làm cầu nối giữa học sinh với tác phẩm văn học. Giáo viên không áp đặt gò ép học sinh, không chê bai mà khơi gợi dẫn dắt học sinh để học sinh có cơ hội thể hiện suy nghĩa của mình. - Thực tế việc vận dụng phương pháp giảng dạy nêu vấn đề trong tác phẩm luôn là những câu hỏi khó vì nó chứa đựng những nội dung quan trọng của tác phẩm. Để trả lời được câu hỏi, học sinh phải tổng hợp được nhiều nguồn kiến thức. Vì vậy trước khi triển khai ở trên lớp cần có hệ thống câu hỏi phụ để học sinh chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa. Từ những câu hỏi cụ thể đó, giúp học sinh có thể tìm hiểu những kiến thức có liên quan đến câu hỏi nêu vấn đề, tránh việc học sinh bị động lúng túng. 3. Một số cách thức vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong việc giảng dạy tác phẩm tự sự 2.1 Tình huống và tính cách nhân vật trong tác phẩm tự sự tạo điều kiện cho việc xây dựng tính nêu vấn đề của câu hỏi giảng văn giúp học sinh khám phá vai trò của tình huống còn kích thích tâm lý học sinh, giúp các em tự đặt mình vào giải quyết một tình huống mới. Cốt truyện, nhân vật và phương thức kể chuyện là ba yếu tố tạo nên đặc trưng của tác phẩm tự sự. Nói đến cốt truyện là nói đến nhân.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> vật, không thể không nói đến vai trò của tình huống, tính cách. Để tính cách vận động và phát triển, nhà văn đặt tính cách nhân vật trong tình huống bởi qua tình huống nhân vật sẽ được thử thách, từ đó nhân vật bộc lộ lên những tính cách của mình. Trên thực tế, khi phân tích một truyện ngắn, nhiều bài phân tích không đề cập đến tình huống hoặc không nhận thức được vai trò của tình huống đối với tính cách, vì vậy nhiều tình huống có giá trị đã bị bỏ qua. Nếu như hỏi học sinh tình huống Tràng nhặt được vợ có tác động gì đến tâm trạng bà cụ Tứ thì không thiếu học sinh sẽ lúng lúng trong việc trả lời. Vì vậy khi giảng dạy tác phẩm, giáo viên cần chú ý vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ giảng văn, để học sinh có thể tiếp nhận tác phẩm .Tình huống của tác phẩm trở thành vấn đề tiếp nhận của học sinh. VD: Khi đặt câu hỏi nêu ra tình huống trong truyện ngắn Vợ Nhặt (Kim Lân), học sinh sẽ thấy được vẻ đẹp của nhân vật Tràng, từ đó cũng thấy được phẩm chất nhân hậu, niềm tin ý thức hướng tới tương lai của bà cụ Tứ. Học sinh sẽ thấy tác dụng và vai trò của tình huống truyện. Từ đó giáo viên có thể triển khai câu hỏi nêu vấn đề: + Việc Kim Lân tạo dựng một tình huống như vậy có những ý nghĩa gì? Tại sao giữa nạn đói năm 1945, ranh giới mong manh giữa cái chết và sự sống, Tràng lại dám “nhặt” vợ? Việc Tràng nhặt vợ như thế có ý nghĩ như thế nào? Qua tình huống đó, nhà văn gửi gắm ý nghĩa gì? Từ cách nêu vấn đề như trên, giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu ý nghĩa của tình huống truyện. Bên cạnh đó, câu hỏi còn kích thích tâm lí học sinh, gợi ra cho các em những thắc mắc và học sinh vận dụng sự hiểu biết của mình để giải quyết một vấn đề mới. Tình huống độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) được gửi gắm ngay từ cách đặt tên truyện. Một chuyện vốn rất nghiêm túc, vốn được xem là một trong những công việc trọng đại nhất của đời một con người mà lại diễn ra như một trò đùa. Một người nghèo túng, lại xấu trai, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa từng được một người con gái nào thèm để ý đến thế mà bỗng dưng được một người phụ nữ theo về nhà làm vợ hẳn hoi. Càng lạ hơn nữa là Tràng nhặt vợ về giữa những ngày đói kém, giữa khi cái chết vì đói đang rập rình đe dọa. Kim Lân đã đem đến.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> cho người đọc một câu chuyện nên vợ nên chồng quả là xưa nay chưa từng có. Chính cái đói và chỉ vì cái đói mà người phụ nữ nọ đành “theo không” Tràng về chứ đâu phải vì yêu hay vì nghĩa. Với câu chuyện này và với một số chi tiết nghệ thuật đầy ám ảnh, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã tái hiện sinh động những ngày tháng đói khổ trong lịch sử dân tộc. Chúng ta nhận ra rằng những con người nghèo khổ trong hoàn cảnh ấy tìm đến nhau, cưu mang nhau như một lẽ tự nhiên. Họ đã cư xử đúng với đạo lí, tình thương ngàn đời của người Việt. Viết “Vợ nhặt” Kim Lân đã khẳng định được rằng trong cái đói người ta càng khát khao sự sống, những người dân lao động, dù trong hoàn cảnh đói khổ đến mấy, vẫn sẵn lòng che chở, đùm bọc nhau, vẫn biết vui với cái gì mình đang có và cứ lấp lánh niềm tin vào tương lai.. . Đặt ra câu hỏi nêu vấn đề là một biện pháp để dẫn dắt học sinh suy ngẫm,. từ đó học sinh sẽ phát hiện được vấn đề sâu sa của tác phẩm. Tình huống hàm chứa được ý đồ nghệ thuật của các nhà văn và từ đó nó trở thành vấn đề tiếp nhận của học sinh. Bởi vậy khi gặp phải những tình huống lạ, phần lớn học sinh chưa phát hiện được ý đồ nghệ thuật của tình huống truyện. Học sinh thường trình bày lan man vì chưa thực sự nhận thức được. Từ thực tế đó,để giúp học sinh tìm tòi và khám phá về tác phẩm, giáo viên có thể sử dụng những câu hỏi nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản là việc làm cần thiết. 2.2 Kết cấu và nghệ thuật sử dụng chi tiết tác phẩm tự sự là một khía cạnh để giáo viên nêu vấn đề trong giờ đọc hiểu văn bản Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định Kết cấu làm nhiệm vụ sắp xếp các sự kiện, nhân vật, tình tiết, chi tiết các lớp cảnh, chương hồi một cách lôgíc để cốt truyện bộc lộ được nội dung ý nghĩa tác phẩm, thể hiện ý nghĩa tư tưởng của tác giả VD 1: Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” để định hướng cho học sinh phát hiện tư tưởng và chủ đề của tác phẩm từ hình thức nghệ thuật. Giáo viên có thể đặt ra câu hỏi nêu vấn đề:.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> + Mở đầu truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là hình ảnh rừng xà nu, kết thúc tác phẩm là hình ảnh rừng xa nu nối tiếp trải dài đến tận chân trời? Vậy theo em hình ảnh đó lặp lại cuối tác phẩm có ý nghĩa gì? + Hình ảnh cánh rừng xà nu trải ra hút tầm mắt chạy tít đến tận chân trời xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm gợi cho anh (chị) ấn tượng gì? + Từ những chi tiết vừa phân tích em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả hình tượng cây xà nu của Nguyễn Trung Thành? . Câu hỏi trên nhằm mục đích định hướng tiếp nhận cho học sinh, giúp học. sinh phát hiện được hình thức nghệ thuật lặp chi tiết của tác phẩm. Bằng cách hỏi như thế học sinh từ việc tìm hiểu ý nghĩa tượng trưng của hình tượng rừng xà nu. Câu hỏi đó cũng giúp học sinh tìm tòi phát hiện, phát huy được tính chủ động và khả năng sáng tạo qua họat động tiếp nhận. Từ việc gợi nhắc cho học sinh tìm hiểu hình thức nghệ thuật bằng câu hỏi nêu vấn đề. Học sinh sẽ nhận biết được rằng, hình tượng rừng xà nu được tái hiện cuối tác phẩm không chỉ là biểu tượng con người ở làng Xôman hẻo lánh mà là biểu tượng của cả Tây Nguyên, của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, tuy chịu nhiều đau thương nhưng vẫn vươn lên mạnh mẽ bằng ý chí nghị lực kiên cường. Nhà văn miêu tả hình tượng rừng xà nu được nói đến như một con người cụ thể. Cây xà nu, nhựa xà nu liên hệ thân thiết với con người. “Rừng xà nu” với hình ảnh một tấm ngực đang ưỡn ra để che chở cho dân làng vì vậy mang ý nghĩa ẩn dụ về những con người đang chiến đấu để bảo vệ quê hương đất nước trong những năm chống Mĩ VD 2: Khi dạy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) giáo viên có thể triển khai phương pháp nêu vấn đề với những câu hỏi nêu vấn đề để học sinh tìm hiểu kết cấu của tác phẩm: + Em có nhận xét gì về cách giới thiệu nhân vật Mị? + Cách giới thiệu trên đạt hiệu quả nghệ thuật gì? Từ sự gợi nhắc của giáo viên, học sinh thảo luận trả lời. HS sẽ nhận biết được cách vào truyện gợi nên ấn tượng với những đối nghịch: + Một cô gái lẻ loi âm thầm gần như lẫn vào các đồ vật vô tri trong khung cảnh tấp nập của nhà thống lý PáTra..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> + Cô gái ấy là con dâu trong một gia đình quyền thế giàu có “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhưng sao lúc nào cũng cúi mặt nhẫn nhục và lúc nào mặt cũng “buồn rười rượi”. Tư thế “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô hồn “lúc nào cũng vậy”. Từ cách đặt câu hỏi trên. Học sinh sẽ phần nào hiểu được cách phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. Từ cách giới thiệu đó như hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật. Nhà văn đã chọn cách dẫn dắt khéo léo điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra). Đây là thủ pháp tạo tình huống có vấn đề từ trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lỗi dẫn người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật. . Trong tác phẩm văn xuôi, hình thức lạ hóa kết cấu, lặp chi tiết như một. điểm sáng nghệ thuật độc đáo có tính hiệu quả cao. Từ những biện pháp nghệ thuật này học sinh có thể nắm bắt được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm. Nhưng trong quá trình giảng dạy, phần lớn học sinh chưa chú ý đến kết cấu và những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Phần nhiều do các em còn hạn chế về trình độ nhận thức, vốn sống, năng lực; các em chỉ có thể nắm được nội dung cốt truyện mà chưa thể phát hiện được các hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Từ cơ sở đó giáo viên có thể sử dụng câu hỏi nêu vấn đề vào những hình thức nghệ thuật, để định hướng tiếp nhận cho học sinh, khơi gợi được hứng thú cho học sinh khi giảng dạy tác phẩm tự sự 2.3 Điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự Trong tác phẩm tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ ra vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong tác phẩm. Nó chính là cách kể, phương thức kể, là tình huống diễn ngôn. Như thế, điểm nhìn trần thuật có mối quan hệ mật thiết với cấu trúc nghệ thuật, giọng điệu của tác phẩm, với cách cảm thụ thế giới, thái độ của nhà văn. Nếu kể ở ngôi thứ nhất, tác giả hoặc vai trần thuật xưng tôi, còn kể ở ngôi thứ ba xưng “hắn”, “nó”..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trong ngôi thứ nhất, tác giả và vai trần thuật là nhân vật chính, trực tiếp tham gia vào các sự kiện hoặc kể lại câu chuyện của mình. Ở ngôi thứ ba, người kể giấu mặt, đứng ngoài câu truyện nhưng lại biết tất cả câu chuyện, biết những nỗi niềm sâu kín của nhân vật. Trong thể tự sự, có nhiều ngôi kể, lời kể mà còn có nhiều cách kể: có khi tác giả tách ra khỏi nhân vật để kể về nhân vật hay để vai trần thuật hoặc nhân vật cùng tham gia kể; khi tác giả hòa vào nhân vật, kể bằng ngôn ngữ của nhân vật… Cách tác giả không tham gia kể mà để cho vai kể và nhân vật kể lại câu chuyện là một hình thức nghệ thuật nhằm thu hẹp lại lời kể, mở rộng tính khách quan và tăng tính thuyết phục của đối tượng được miêu tả. Lắm khi, nhà văn “trao bút” cho nhân vật, để nhân vật tự kể, tự nói về mình. Ở đây, nội dung nghệ thuật không chỉ được truyền đạt duy nhất từ người kể chuyện mà còn bởi các nhân vật khác, bằng cả những tiếng nói bên trong mang nhận thức, tình cảm của nhân vật. VD 1: Trong truyện “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) thể hiện nghệ thuật trần thuật uyển chuyển linh họat mang phong cách truyền thống nhưng cũng đầy sáng tạo. Nhà văn vẫn tuân theo lối trần thuật sự kiện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liền mạch nhưng có lúc đan xen các hồi ức một cách tự nhiên, có lúc pha trộn giữa quá khứ và hiện tại. Có những đoạn nhà văn Tô Hoài không kể mà để cho nhân vật tự ý thức. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng ….Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ”. Lời nhà văn hay lời nhân vật? Không thể phân định rạch ròi. Tô Hoài không đứng bên ngoài mà tả, mà kể nữa, lại nhập thân vào Mị, thổn thức cùng Mị ở thời khắc ấy để từ trong đó viết ra. Như thế nhà văn đã trao ngòi bút của mình để cho nhân vật tự viết ra những dòng tâm tư là một biện pháp để khai thác chiều sâu nội tâm tính cách đồng thời giảm bớt phần miêu tả, nhận xét, đánh giá từ người trần thuật. Ngoài ra hình thức để nhân vật tự bộc lộ còn mở rộng ý nghĩa khách quan cho tác phẩm. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm từ chính câu hỏi về điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật. VD 2: Trong truyện ngắn “Rừng xà nu”, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã không đóng vai người kể chuyện mà dựng lại lịch sử bi hùng của làng Xô Man..
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Nếu làm thế, giữa người kể và câu chuyện được kể sẽ có một khoảng cách. Nhà văn đã trao quyền kể cho nhân vật cụ Mết – một già làng, một người trong cuộc. Cụ Mết là người từng chứng kiến bao biến cố trọng đại của làng Xô Man, là người phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa bất khuất đầu tiên của làng. Hơn nữa, chính cụ là người trực tiếp trừng trị thằng Dục ác ôn. Có thể xem cụ Mết là cây xà nu cổ thụ vững chãi của đất rừng Tây Nguyên. Cụ Mết như chiếc gạch nối giữa truyền thống bất khuất tự ngàn xưa với hiện tại đau thương, hùng tráng. Chỉ con người như thế mới đủ uy tín, uy quyền dựng lại lịch sử quê hương và răn dạy con cháu. Việc chọn cụ Mết làm nhân vật người kể chuyện đã tạo nên giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt cho thiên truyện. Giọng nói của cụ trầm ấm, vang vọng như tiếng nói của núi rừng. Từ khía cạnh đó. Giáo viên cần nêu vấn đề để hỏi học sinh: + Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã trao quyền cho nhân vật nào để kể về cuộc đời của Tnú- cuộc đời bi tráng gắn liền với trang sử vẻ vang của dân làng? + Từ điểm nhìn trần thuật đó, câu chuyện đã đem lại ấn tượng gì và có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề?. . Với cách thức như trên, học sinh sẽ nhận biết được giọng điệu trần thuật. của tác phẩm. Từ giọng điệu trần thuật này, người kể chuyện đã tạo nên giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt cho thiên truyện VD 3: Trong truyện “Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi), nhà văn chủ yếu dùng thủ pháp hồi tưởng của chính người trong cuộc, đã trao quyền trần thuật cho nhân vật Việt. Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cài của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Tạo tình huống này, chọn điểm nhìn trần thuật này, Nguyễn Thi có thể tổ chức kết cấu tác phẩm khá thoải mái, linh hoạt theo ý đồ của mình. Câu chuyện không cần kể, cần nhớ theo trình tự thời gian. Những hồi tưởng của Việt cứ đứt nối, tưởng chừng rời.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> rạc, nhưng kì thực lại được chọn lọc, sắp xếp theo ý đồ của nhà văn. Từ cách trần thuật đó giáo viên vận dụng câu hỏi nêu vấn đề từ chính lời kể, cách kể (phương thức trần thuật) Giáo viên hỏi học sinh: Truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật nào? Hãy nêu tác dụng của cách trần thuật đó đối với kết cấu truyện và khắc họa tính cách nhân vật? GV có thể gợi ý: - Có ba phương thức trần thuật trong nghệ thuật viết truyện: + Phương thức thứ nhất: Nhân vật truyện là đối tượng thuật, kể nên thuộc ngôi thứ ba. + Phương thức thứ hai: Nhân vật tự kể chuyện mình nên thuộc ngôi thứ nhất. + Phương thức thứ ba: Người trần thuật thuộc ngôi thứ ba nhưng lời kể lại phỏng theo quan điểm, ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật HS thảo luận trả lời. Gv định hướng: Truyện “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật theo phương thức thứ ba. Nghĩa là của người trần thuật tự giấu mình nhưng cách nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật. Truyện được trần thuật chủ yếu qua dòng hồi tưởng miên man đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng thương nằm ở chiến trường. Nhà văn phải thành thạo tâm lí và ngôn ngữ nhân vật mới có thể trần thuật theo phương thức này. GV đặt câu hỏi nêu vân đề: Cách trần thuật này đem lại tác dụng gì cho tác phẩm? Tại sao nhà văn lại không chọn cách trần thuật - kể lại câu chuyện mà lại trao ngòi bút cho nhân vật- phỏng theo quan điểm và ngôn ngữ cho nhân vật. Từ sự phát hiện và so sánh hai cách kể học sinh sẽ nhận ra được nét riêng trong nghệ thuật trần thuật. Qua đó học sinh thấy được bút pháp nghiêm ngặt, năng lực phân tích tâm lí, diễn tả tâm lí sắc sảo, tinh tế của Nguyễn Thi. Bằng những câu hỏi trên giúp học sinh khám phá hình thức trần thuật của tác phẩm. Giáo viên có thể đặt ra những câu hỏi giả thiết (nếu tác giả kể lại hay chọn một phương thức khác thì tác phẩm sẽ trở nên như thế nào?). . Thông qua những cách kể trên, ta thấy cách kể trong tác phẩm tự sự là hình. thức nghệ thuật mang lại giá trị nhiều mặt cho tác phẩm.Trong thực tế giảng dạy.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> phần lớn các em chưa nhận thức được giá trị của các thủ pháp nghệ thuật đó. Học sinh chỉ chú trọng đến từ ngữ, hình ảnh và các nghệ thuật quen thuộc, còn lời kể, cách kể, chỉ phân tích qua loa hời hợt. Vì vậy việc đặt câu hỏi nêu ra phương thức kể chuyện là một biện pháp tích cực để học sinh tự mình tiếp cận tác phẩm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 4. Nhận xét - Trong thực tiễn dạy học, bất kỳ một giờ dạy nào cũng có sự phối hợp, kết hợp một vài phương pháp. Hơn nữa, bản thân các phương pháp dạy học đều thâm nhập vào nhau để thể hiện tác động giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp dạy học mà còn phải kết hợp với các phương pháp dạy học khác. - Phương pháp dạy học nêu vấn đề sử dụng trong sự phối hợp đa dạng các phương pháp khác như diễn giảng, đọc diễn cảm, trực quan…… Các câu hỏi nêu vấn đề được đặt trong một hệ thống và thống nhất với mục tiêu bài học. Trong quá trình học sinh tư duy đôi khi giáo viên phải dẫn dắt gợi ý cho học sinh suy nghĩ tìm tòi để nhận ra những điều cần làm sáng tỏ. - Việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong thực tế giảng dạy, hình thức diễn đạt hay nội dung câu trả lời có thể khác đi vì vậy giáo viên phải chú ý lắng nghe và phân tích câu trả lời của học sinh để có hành động cho phù hợp. Câu hỏi được nêu ra ở từng mức độ hướng tới số đông học sinh. - Giáo viên sử dụng linh họat các hình thức tổ chức cho học sinh nắm bắt vấn đề như: thảo luận nhóm, thuyết trình, đóng vai.........Đối với giờ dạy học vận dung theo phương pháp nêu vấn đề không khí lớp học nhẹ nhàng thoải mái. Câu hỏi đa dạng theo từng mức độ khiến học sinh hào hứng trước vấn đề đưa ra, như thế mục tiêu và kiến thức của bài học học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn rất nhiều. VI.. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ VÀO VIỆC THIẾT KẾ. GIÁO ÁN VÀ GIẢNG DẠY BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (Nguyễn Minh Châu) Vận dụng cấu trúc tình huống có vấn đề để hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Cấu trúc của tình huống có vấn đề được biểu hiện qua hai họat động: tạo lập bối cảnh vấn đề chính là đưa ra những điều.
<span class='text_page_counter'>(20)</span> mới chưa được biết (họat động nêu vấn đề của giáo viên) và quá trình tích cực tư duy để nhận thức khám phá sáng tạo cái mới (họat động giải quyết vấn đề của học sinh) - Họat động nêu vấn đề của giáo viên (có khi học sinh nêu vấn đề) + Giáo viên tổ chức, xây dựng và tạo ra những giả thiết, những dữ kiện và yêu cầu giải pháp để người đọc đi tìm lời giải. Nghĩa là giáo viên làm xuất hiện bên trong ý thức của học sinh một mâu thuẫn, một nhu cầu muốn giải quyết mâu thuẫn + Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. + Nêu vấn đề được cụ thể qua những câu hỏi. Các câu hỏi nêu vấn đề phải được đặt trong một hệ thống và thống nhất với mục tiêu cần đạt + Câu hỏi nêu vấn đề có nhiều mức độ: yêu cầu học sinh tái hiện, yêu cầu học sinh phải tư duy, yêu cầu học sinh vận dụng nhiều năng lực khác nhau để giải quyết vấn đề. - Họat động giải quyết vấn đề của học sinh: + HS thể hiện sự chủ động tích cực của mình + HS thông qua việc đối thọai với giáo viên, đối thoại với nhau (khi thảo luận nhóm, khi thuyết trình) mà học sinh có sự nhận thức sâu sắc về bài học. + Học sinh nhận xét câu trả lời của bạn mình và đưa ra ý kiến cũng như cách hiểu vấn đề khác nhau - Để vận dụng phương pháp nêu vấn đề đạt hiệu quả cao, học sinh phải tổng hợp được nhiều nguồn kiến thức. Vì vậy trước khi triển khai ở trên lớp cần có hệ thống câu hỏi phụ để giúp học sinh bước đầu tìm hiểu về truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” để học sinh chuẩn bị bài ở nhà bên cạnh hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa. Thiết kế giáo án: Tiết: 70 – 71 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu).
<span class='text_page_counter'>(21)</span> A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Giúp học sinh: - Hiểu được quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn đời và nhìn người trong cuộc sống; - Thấy được những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm và bắt đầu nhận diện được một số đặc trưng cơ bản của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975. 1/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC - Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật: phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện; nghệ thuật chân chính luôn gắn liền với cuộc đời, vì cuộc đời. - Tình huống truyện độc đáo, mang ý nghĩa khám phá phát hiện về đời sống. Điểm nhìn nghệ thuật đa chiều. Lời văn giản dị mà sâu sắc. 2/ TRỌNG TÂM KĨ NĂNG: Đọc hiểu truyện ngắn hiện đại. B/ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC Sách giáo khoa Ngữ Văn 12- HKII; sách giáo viên Ngữ Văn 12 HKII; sách tham khảo, bảng phụ, tranh ảnh …….. C/ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH Giáo viên tổ chức giờ học bằng cách sử dụng phương pháp nêu vấn đề phối kết hợp với các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học khác như: đọc diễn cảm, thảo luận nhóm, thuyết trình … D. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY: 1. Ổn định lớp - kiểm tra sĩ số: 2. Kiểm tra bài cũ: - Tính cách nhân vật Việt được Nguyễn Thi miêu tả qua những chi tiết nào? - Nêu ý nghĩa văn bản của truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” 3. Nội dung bài mới: a. Đặt vấn đề: Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn luôn đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người, cả trong thời chiến và cả cuộc sống đời thường. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự triết lí. Đến với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đem đến.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> cho người đọc cách nhìn nhận về cuộc sống và con người từ những phát hiện về nghệ thuật, về hiện thực đời sống. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu?. b. Triển khai bài dạy: Hoạt động thầy và trò Hoạt động 1: Tổ chức đọc hiểu tiểu dẫn.. Nội dung kiến thức I.Tìm hiểu chung. GV yêu cầu học sinh:. 1/Tác giả. Đọc mục tiểu dẫn và tóm tắt những nét chính về - Nguyễn Minh Châu tác giả và tác phẩm.. (1930-1989) - Ông "thuộc trong những. Học sinh làm việc cá nhân và trình bày trước nhà văn mở đường tinh lớp?. anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay". GV định hướng.. -Trước 1975, Nguyễn Minh Châu là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. - Từ sau thập kỉ 80, đi sâu. HS chuẩn bị ở nhà. Tóm tắt truyện trên lớp.. khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Gv hỏi học sinh:. và triết lí nhân sinh, khám. Câu chuyện ấy đã thể hiện đề tài và cảm hứng phá con người trong cuộc sáng tác của Nguyễn Minh Châu như thế nào?. mưu sinh, trong hành trình. Học sinh thảo luận. Trình bày trước lớp.. nhọc nhằn tìm kiếm hạnh. GV định hướng diễn giảng thêm, giúp học sinh phúc và hoàn thiện nhân nhận thức vấn đề: chiếc thuyền ngoài xa tiêu cách. biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn………… 2/ Tác phẩm GV tổ chức cho học sinh đọc văn bản. a/Xuất xứ.
<span class='text_page_counter'>(23)</span> Giọng đọc diễn cảm. -Viết năm 1983 in trong. Trên cơ sở học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà. HS. tập truyện cùng tên 1987. tóm tắt cốt truyện tại lớp và chia bố cục ?. b/ Đánh giá chung. Hs trả lời.. “Chiếc thuyền ngoài xa”. Gv định hướng:. tiêu biểu cho xu hướng. + Đoạn 1: Hai phát hiện của người nghệ sĩ. chung của văn học Việt. + Đoạn 2: Câu chuyện của người đàn bà làng. Nam thời kì đổi mới:. chài tại tòa án huyện. hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong. cuộc sống đời thường. II/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN GV nêu vấn đề: Anh chị hiểu như thế nào về 1/ Tình huống truyện tình huống truyện?. GV yêu cầu học sinh nhắc lại khái niệm tình huống truyện đã học ở bài Vợ Nhặt …để bắt vào tìm hiểu tình huống trong truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” HS trả lời. GV diễn giảng và bổ sung kiến thức: Tình huống truyện là cái hoàn cảnh sảy ra câu chuyện, hoàn cảnh cho nhân vật họat động, gồm các yếu tố không gian và thời gian…..nhằm bộc lộ tính cách nhân vật, thúc đẩy câu chuyện phát triển. Có ba loại tình huống: + Tình huống hành động + Tình huống tâm trạng + Tình huống nhận thức GV nêu vấn đề: Từ khái niệm về tình huống a/ Phát hiện thứ nhất truyện và căn cứ vào chi tiết trong truyện. Anh đầy thơ mộng của người chị hãy phân tích tình huống truyện trong truyện.
<span class='text_page_counter'>(24)</span> ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh nghệ sĩ. Châu?. - Đó là cảnh thuyền và. GV gợi ý:. biển vào lúc bình minh-. + Thuộc loại tình huống nào trong ba khái niệm một cảnh đắt trời cho “đẹp trên?. như bức tranh mực tàu của. + Có những chi tiết nào tạo nên tình huống?. một danh họa thời cổ”. + Từ tình huống đó, các nhân vật được khắc họa - Người nghệ sĩ cảm thấy như thế nào?. rung động “bối rối trong. + Hiệu quả của tình huống đó trong việc bộc lộ trái tim như cái gì bóp thắt tính cách nhân vật, phát triển cốt truyện?. vào”. + Chủ đề tác phẩm được thể hiện như thế nào =>khám phá thấy cái chân qua tình huống truyện?. lí của sự hoàn thiện. GV tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề bằng - Anh đã cảm nhận cái đẹp hình thức thảo luận nhóm.. toàn bích, hài hoà, lãng. Hs thảo luận trả lời: Tình huống truyện trong mạn của cuộc đời, thấy “Chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng qua việc tâm hồn mình được thanh phát hiện của Phùng ………. lọc và anh nghĩ, cái đẹp. Gv định hướng: Truyện được trần thuật theo chính là cái thiện. quá trình tự nhận thức, cũng có thể gọi là quá trình giác ngộ về hiện thực và con người của hai nhân vật đầy thiện ý nhưng chủ quan, đại diện cho công lí và nghệ thuật. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được tổ chức xung quanh một “tình huống nhận thức mà hai nhân vật Phùng và Đẩu đã trải qua”…………………. GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của tình huống truyện + Nhóm 1: Phát hiện thứ nhất + Nhóm 2: Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh chứa đựng nhiều nghịch lí? Nghịch lí đó là gì?. b/ Phát hiện thứ hai về.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> +Nhóm 3: So sánh thái độ của Phùng khi chứng hiện thực cuộc sống. kiến hai phát hiện. Hãy hóa thân vào nhân vật - Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng để nói lên cảm xúc của người nghệ sĩ khi Anh chứng kiến cảnh chứng kiến cảnh bạo hành?. người chồng đánh vợ. + Nhóm 4: Ý nghĩa hai phát hiện. =>Phùng không ngờ sau. *Câu hỏi gợi ý thảo luận cho từng nhóm cụ cảnh đẹp như mơ là bao thể:. ngang trái, nghịch lý của. + Nhóm 1: Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của đời thường. người nghệ sĩ nhiếp ảnh, là phát hiện đầy thơ. =>Hình ảnh xấu xí, sù sì,. mộng. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp trần trụi, thô mộc, gai góc của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mù của đời sống, đối lập với sương mà người nghệ sĩ chụp được?. vẻ lãng mạn của khung. + Nhóm 2: Khi chiếc thuyền tiến vào bờ, cảnh cảnh thiên nhiên trong bức tượng nào diễn ra? Nhận xét về cảnh tượng đó?. ảnh nghệ thuật.. + Nhóm 3: Cảm xúc của Phùng khi phát hiện ra => Phát hiện về một hiện vẻ đẹp của chiếc thuyền lưới vó vào lúc bình thực gồ ghề, gai góc, minh và hành động thái độ khi chứng kiến cảnh ngang trái, phức tạp, người đàn ông đánh đập người đàn bà?. không dễ lí giải, đối lập. + Nhóm 4: Qua hai phát hiện, nhà văn gửi gắm ý với vẻ đẹp bình yên của nghĩa gì? (Về cách nhìn cuộc đời, về mối quan tác phẩm nhiếp ảnh. hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.). - Thái độ của người nghệ sĩ: “kinh ngạc đến mức,. Hs thảo luận làm việc.. trong mấy phút đầu…vứt. Cử đại diện trình bày.. chiếc máy ảnh xuống đất,. Yêu cầu các nhóm khác bổ sung.. chạy nhào tới”.. GV định hướng: Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, + Ý nghĩa: toàn màu hồng mà đa chiều, phân tranh nhiều - Cuộc đời không đơn mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng giản một chiều mà chứa ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực đựng nhiều nghịch lí..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng ngoài biển Cuộc sống luôn tồn tại khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu những mặt đối lập, những sắc, suy tư hơn nữa về cuộc sống và con người.. mâu thuẫn. - Không nên đánh giá con. Học sinh cử đại diện trình bày.. người, sự vật ở dáng vẻ bề. Gv định hướng:. ngoài, phải phát hiện ra. + Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình bản chất thực đằng sau vẻ huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ ngoài đẹp đẽ ấn tượng, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, phải có cái nhìn sâu sắc tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm hơn. và cả trong cuộc đời nhân vật. Qua tình huống này người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện ra chân lí nghệ thuật mà còn khám phá ra nhiều điều bí ẩn của cuộc sống và con người. Anh đã hiểu hơn về cuộc sống của con người lao động, về bản thân, về chánh án Đẩu. + Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái nhìn toàn diện về cuộc sống, cần có một cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất thật về cuộc sống và con người. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống. GV chuyển ý: Tại tòa án huyện, câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà tại tòa án huyện đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra được những chân lí sâu sắc, éo le của cuộc đời. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn.
<span class='text_page_counter'>(27)</span> nữa để phát hiện tính cách con người, vẻ đẹp cuộc đời. 2/ Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện. GV nêu vấn đề cho học sinh thuyết trình theo hệ a/ Người đàn bà làng thống câu hỏi đã chuẩn bị sẵn ở nhà:. chài. + Người đàn bà làng chài được khắc họa qua chi - Số phận: bất hạnh tiết nào, trong hoàn cảnh cụ thể nào?. - Câu chuyện cuộc đời. + Từ ngoại hình hé mở số phận của người đàn người đàn bà làng chài: bà? Cách ứng xử của người đàn bà như thế nào câu chuyện về sự thực khi bị chồng đánh? Động thái của người đàn bà cuộc đời trước hành vi của Phác nói lên điều gì về tính - Lí do bà không bỏ gã cách của chị?. đàn ông vũ phu:. + Điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha + Chị hiểu cơ cực của của thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với cuộc sống mưu sinh trên người chồng hung bạo kia?. biển không có người đàn. + Qua câu chuyện mà người đàn bà tự kể, cho ông “Cần có người đàn thấy được điều gì về tính cách và phẩm chất của ông làm chỗ dựa, để chèo chị. chống khi phong ba bão. + Nhận xét khái quát về tình cách và phẩm chất táp, cùng nuôi dạy các của người đàn bà làng chài? Từ nhân vật này tác con” giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì?. + Tự nhận lỗi về mình “lỗi là do đám đàn bà đẻ. GV tổ chức cho học sinh thuyết trình. GV chia nhiều” nhóm thảo luận. Nhóm khác phản biện.Trong + Yêu thương con tha quá trình trao đổi học sinh có thể có những thắc thiết "người đàn bà trên mắc.. thuyền phải sống cho con. VD: Tại sao người đàn bà lại cam chịu chấp chứ không thể sống cho nhận người đàn ông đánh “ba ngày một trận nhẹ, mình" và “vui nhất là khi năm ngày một trận nặng”. chúng nó được ăn no”.. ……………….. +Trong mắt người đàn bà,. GV lấy đó làm tình huống và từ đó đặt ra những người đàn ông vũ phu kia.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> câu hỏi nêu vấn đề để học sinh bàn luận để đi chính là nạn nhân của đến nhận thức theo mục tiêu cần đạt.. hoàn. cảnh,. Hs trình bày những ý cơ bản.. thông chia sẻ. đáng. cảm. GV khái quát: Qua câu chuyện của người đàn bà + Bà luôn biết chắt chiu làng chài, nhà văn thể hiện cái nhìn nhân hậu của những khoảnh khắc đầm mình. Đằng sau câu chuyện buồn của người đàn ấm hạnh phúc. bà là vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng bao dung và đức hi sinh của người phụ nữ. Đó là hạt ngọc ẩn =>Người đàn bà làng chài giấu trong đời thường mà Nguyễn Minh Châu ẩn sau vẻ xấu xí thô kệch trân trọng…... là tấm lòng yêu thương bao la, nhân hậu, bao. GV có thể nêu vấn đề để khắc sâu nhận thức dung, đức hi sinh vô bờ của học sinh:. bến của người mẹ.. + Chúng ta đã hiểu vì sao bà không thể bỏ lão =>Qua câu chuyện của đàn ông vũ phu (vì tình thương, lòng nhân hậu, người đàn bà làng chài, ta cam chịu….). càng thấy rõ, không thể dễ. + Đặt giả thiết nếu là em trong trường hợp đó, dãi đơn giản trong việc em sẽ giải quyết như thế nào? Từ cách giải quyết nhìn nhận mọi sự việc của bản thân? Em có nhận xét gì về thái độ cam hiện tượng. chịu nhẫn nhục của người đàn bà? (đúng /sai) Hs thảo luận trả lời để khắc sâu kiến thức. HS có nhiều cách hiểu từ việc đặt giả thuyết trên. Gv khái quát.(diễn giảng) Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về chánh án Đẩu:. b/ Chánh án Đẩu. + Đẩu mời người đàn bà đến tòa án huyện nhằm - Khuyên người đàn bà mục đích gì?. “chị không sống nổi với. + Đẩu có thái độ như thế nào trước và sau khi người đàn ông vũ phu ấy nghe câu chuyện của người đàn bà?. đâu”→giải pháp tốt nhất. + Thử đặt mình là chánh án Đẩu khi chứng kiến cho người đàn bà. cảnh bạo hành nơi gia đình người đàn bà- em sẽ - Khi nghe câu chuyện của.
<span class='text_page_counter'>(29)</span> khuyên người đàn bà điều gì?. người đàn bà, trong đầu có. + Vậy khi nghe xong câu chuyện của người đàn “một cái gì vừa mới vỡ bà, nhà văn miêu tả “trông Đẩu rất nghiêm nghị ra”, “lúc này trông Đẩu và đầy suy nghĩ”. Anh chị thử phán đoán, Đẩu rất nghiêm nghị và đầy đang suy nghĩ điều gì và đã nhận ra điều gì khi suy nghĩ” nghe câu chuyện của người đàn bà?. => Vị chánh án hiểu ra rằng cuộc đời người đàn. Hs thảo luận trả lời theo từng nhóm nhỏ.. bà không hề đơn giản và. GV định hướng và khắc sâu kiến thức.. giải pháp bỏ chồng là. GV hỏi học sinh:. không ổn. Đẩu hiểu ra. Từ đó em nhận thấy Đẩu là con người như thế cuộc sống nhọc nhằn khó nào? Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu là gì?. khăn lam lũ khiến họ phải. Hs trả lời.. chấp nhận những nghịch. GV định hướng và diễn giảng: Người đàn bà đau cảnh khổ đã từ chối việc li hôn theo lời khuyên của =>Đẩu cũng nhận thức Đẩu. Anh từng không hiểu "thế nào là nỗi vất vả được chính mình, để từ bỏ của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có cái nhìn đơn giản về cuộc đàn ông", không hiểu cái lí của sự cam chịu ở sống và con người những con người sống trong vòng vây của đói → Đẩu là người tốt, sẵn nghèo và lạc hậu, cũng không hiểu sự đan cài rối sàng bảo vệ công lí nhưng rắm giữa tình thương và hành động tàn nhẫn, chưa thấu hiểu bản chất giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình... sâu xa uẩn khuất của cuộc Việc nghe chuyện của người đàn bà thuyền chài đời. đã khơi lên trong anh cuộc đối thoại gay gắt giữa thói quen suy nghĩ một chiều và thái độ chấp nhận tính phức tạp muôn thuở của cuộc sống. Cuối cùng "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Rồi Đẩu có đưa ra được giải pháp mới nào không để giải quyết "sự vụ" của gia đình thuyền chài ấy? Hs trả lời..
<span class='text_page_counter'>(30)</span> GV khái quát: Lòng tốt thì đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng phải đi sâu vào đời sống. Không thể có cách nghĩ giản đơn dễ dãi trong cái nhìn về đời sống vì cuộc đời thì đa đoan và con người thì đa sự, luôn luôn có những nghịch lí. Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu: con người cần phải từ bỏ lối nghĩ đơn giản dễ dãi, để nhìn thấu cái phức tạp của hiện thực cuộc đời……. GV dẫn dắt học sinh:. c/ Nhận thức của Phùng. Từ phát hiện cảnh thuyền và biển vào lúc bình + Hiểu về người đàn bà minh. Cảm nhận của Phùng như thế nào? Em hãy làng chài và hiểu vì sao bà so sánh thái độ và cảm xúc của Phùng khi chứng cam chịu nhẫn nhục sống kiến người đàn ông đánh đập người đàn bà làng với người chồng vũ phu. chài. Phùng đã có hành động nào?. + Hiểu về người đàn ông. Hs trả lời.. lúc còn trẻ cục tính nhưng. Gv định hướng.. hiền lành không bao giờ đánh vợ. Do cuộc sống. GV khái quát qua câu hỏi:. khó khăn, giải tỏa những. Khi nghe câu chuyện của người đàn bà làng chài. khổ cực lên người đàn bà. Phùng đã có sự nhận thức như thế nào? Tác giả Cần cảm thông, chia sẻ gửi đến thông điệp gì từ nhận thức của Phùng?. nhưng cũng phải lên án tố. Hs thảo luận trả lời.. cáo.. Gv định hướng: Câu chuyện của người đàn bà ở + Phùng như thấy chiếc tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lý trong thuyền nghệ thuật thì ở cái tưởng như nghịch lý ở gia đình thuyền chài. ngoài xa, còn sự thật cuộc Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính đời lại ở rất gần. mình…….. + Hiểu về chánh án Đẩu… *Tiểu kết: Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể.
<span class='text_page_counter'>(31)</span> dễ. dãi, đơn giản trong. việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái quát về d/ Người đàn ông hình ảnh người đàn ông.. - Ông vừa là nạn nhân vừa. + Em có nhận xét như thế nào về người đàn. là thủ phạm…Do cuộc. ông?. sống mưu sinh khó khăn,. + Người đàn ông hàng chài xuất hiện như thế ông trút những khó khăn nào? Ngoại hình, hành vi?. bằng cách đánh đập người. + Tính cách của người đàn ông được khắc họa đàn bà………… qua những điểm nhìn nào?. - Ông là người trụ cột. GV gợi ý: Cách nhìn nhận người đàn ông vũ phu trong. gia. đình. nhưng. của người đàn bà có gì khác so với cách nhìn không thể lo cho gia đình nhận của Phùng và Đẩu? HS trình bày sự cảm nhận của mình. cuộc sống ấm no, gánh nặng trên vai mỗi ngày một nhiều, công việc làm. GV định hướng:. ăn càng ngày càng khó….. + Đẩu và Phùng đều cho rằng người đàn ông này =>Cách giải tỏa của ông là thủ phạm gây ra bao đau khổ cho vợ con, cần là tiêu cực, đáng bị lên án lên án. Thái độ đối với lão đàn ông là cần phản nhưng cũng cần được cảm đối, lên án. + Trong khi đó người đàn bà nhìn nhận người chồng của mình một cách toàn diện hơn. Người đàn bà hàng chài lại cho rằng người đàn ông có hoàn cảnh, đáng cảm thông, và chia sẻ. Có lẽ cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ như để giải tỏa uất ức. Trong đời vẫn có những kẻ như thế. Nói như nhà văn Nam Cao “chúng tự cho mình. thông chia sẻ..
<span class='text_page_counter'>(32)</span> cái quyền được hành hạ người khác để giải tỏa những bực dọc trong lòng”. -Trong quá trình đàm thoại, học sinh có thể đưa ra ý kiến: + Tại sao người đàn ông không dùng cách nào khác để giải quyết bi kịch của mình mà trút nỗi bực dọc vào việc đánh vợ một cách tàn nhẫn? GV dùng chính tình huống này để hỏi lại học sinh: Nếu là người đàn ông anh chị sẽ hành xử và cư xử như thế nào? GV đặt tình huống giả định: Nếu người chồng vũ phu ấy được sống trong môi trường khác thuận lợi và tốt đẹp hơn thì liệu người chồng ấy sẽ hành động ra sao? HS nêu lên suy nghĩ và cảm nhận riêng. HS có thể trả lời từ những vấn đề giả định: Nếu cuộc sống của người đàn ông không nghèo khó, không bị những lo toan về cuộc sống bủa vây, thì có lẽ người đàn ông ấy không phải là một người chồng tha hóa về nhân cách và đạo đức. Ông sẽ trở thành một con người đúng nghĩa, sống đúng với phẩm chất và tính cách của chính mình. =>Tác giả đặt ra vấn đề là. ( Phần này tùy thuộc vào khả năng nắm bắt của không thể nhìn đời, nhìn học sinh mà giáo viên có cách dẫn ý phù hợp). người một phía, phải tìm. GV định hướng .. hiểu những nguyên nhân. + GV nêu vấn đề: Từ sự khác biệt trong hai sâu sa dẫn đến hành vi của điểm nhìn, đặc biệt là cách nhìn nhận của người con người và làm sao cải đàn bà hàng chài giúp ta hiểu rõ thêm điều gì? thiện cái phần người trong Thông điệp tác giả gửi tới người đọc từ hình ảnh những kẻ thô bạo ấy. người đàn ông?.
<span class='text_page_counter'>(33)</span> HS nêu lên suy nghĩ của mình. GV định hướng. Gv hướng dẫn học sinh nhận thức vấn đề bằng hệ e/ Nhân vật Phác thống câu hỏi:. - Phác đáng mến ở tình. + Nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với Bố?. thương đối với mẹ, đáng. + Hãy hóa thân vào nhân vật để thấy được cảm trách ở hành vi đối với bố, xúc và suy nghĩ của Phác khi thấy mẹ bị bố đánh nhưng cũng rất thương đập?. cảm khi Phác phải chịu. + Suy nghĩ của anh chị về nạn bạo hành gia cảnh bạo hành gia đình. đình?. - Qua nhân vật Phác, nhà. Hs tiến hành thảo luận, thuyết trình. Nhóm khác văn bày tỏ nỗi lo âu đầy phản biện. trách nhiệm về tương lai. Gv định hướng.. của trẻ em trong nạn bạo hành gia đình. GV chuyển ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Tấm 3/ Tấm ảnh được chọn ảnh trong bộ lịch năm ấy.. trong bộ lịch năm ấy:. GV nêu vấn đề: Khi nhìn lại bức ảnh được chọn, + Tấm ảnh “hiện lên cái nghệ sĩ Phùng đã nhìn thấy gì sau bức ảnh đó? Ý màu hồng của ánh sương nghĩa biểu tượng của hình ảnh ấy và phát biểu tư mai” → đó chính là chất tưởng nghệ thuật của nhà văn? Những hình ảnh thơ, là vẻ đẹp lãng mạn ấy có ý nghĩa tượng trưng như thế nào? Từ đó tác của cuộc đời, là biểu giả khái quát lên điều gì?. tượng của nghệ thuật. Hs suy nghĩ trả lời.. + Khi nhìn lâu hơn “bao. GV có thể dùng phiếu học tập yêu cầu học sinh giờ anh cũng thấy người khái quát (theo từng nhóm học tập). đàn bà ấy đang bước ra. GV định hướng.. khỏi tấm ảnh”→ hiện thân cho những lam lũ, khốn khó và cũng là sự thật trần trụi của cuộc đời. + Ý nghĩa: - Đừng vì nghệ thuật mà.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> quên cuộc đời vì nghệ thuật chân chính luôn hướng tới cuộc đời. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời. - Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người sẵn sàng khám phá để thấu hiểu, biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống. GV hướng dẫn học sinh khái quát phần tổng kết.. xứng đáng với con người. III/Tổng kết 1/ Nghệ thuật - Tình huống truyện độc. Anh chị có nhận xét như thế nào về nghệ thuật đáo mang ý nghĩa khám xây dựng cốt truyện? Trong truyện, tác giả đã phá và phát hiện về đời chọn người kể chuyện là nhân vật Phùng, xưng sống “tôi”. Có ý kiến cho rằng tác giả nên là người kể - Tác giả lựa chọn ngôi kể, chuyện thì ý nghĩa câu chuyện sẽ hay hơn. Ý điểm nhìn thích hợp nên kiến của anh chị như thế nào?. câu chuyện trở nên gần. Hs trình bày.. gũi, khách quan, chân. GV vừa kiểm tra kiến thức của học sinh, vừa thực, có sức thuyết phục khái quát giúp học sinh hiểu chính xác nội dung hơn. bài học.. - Ngôn ngữ của nhân vật. Từ những phân tích ở trên. Anh chị hãy phát biểu sinh động, phù hợp với ý nghĩa tác phẩm?. tính cách, lời văn giản dị. Hs phát biểu.. mà sâu sắc, đa nghĩa.. Gv định hướng. - Nhan đề mang tính biểu.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> GV hướng dẫn học sinh hiểu thêm về giá trị hiện tượng. thực và nhân đạo của tác phẩm + Giá trị hiện thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách mạng, của cộng đồng. 2/ Ý nghĩa văn bản - Thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời. - Người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và. + Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác con người một cách toàn giả với những số phận đau khổ tủi nhục của diện. những người lao động vô danh đông đảo trong xã - Tác phẩm cũng rung lên hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn hồi chuông báo động về tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. của nó. Hướng dẫn tự học: 1/ Nhân vật nào để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất? 2/ Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” 4. Củng cố: Cần nắm vững những nội dung kiến thức cơ bản đã nêu thành đề mục trong phần đọc - hiểu văn bản. 5. Dặn dò: + Viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận sâu sắc nhất về một nhân vật trong tác phẩm. + Tìm đọc tác phẩm "Bức tranh" của Nguyễn Minh Châu và tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhà văn qua hai tác phẩm. + Tiết sau học Tiếng Việt..
<span class='text_page_counter'>(36)</span> C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ I. TÍNH HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI - Quá trình ứng dụng đề tài vào dạy học trong năm học 2011 – 2012 cho các lớp: 12S2; 12S4; 12S6 đạt một số hiệu quả sau: Đáp ứng được phương pháp dạy học tích cực. Tạo được hứng thú, phản ứng nhanh nhạy cho học sinh hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu đúng về tác phẩm tự sự Học sinh hứng thú trong quá trình học tập. Nhận thức được vấn đề theo từng mức độ. Khắc sâu kiến thức kĩ năng bài học qua việc giáo viên sử dụng phương pháp nêu vấn đề, với những câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với năng lực của học sinh. Giáo viên phát huy tích cực vai trò của mình như: là người hướng dẫn học sinh nắm bắt tác phẩm Từ những hiệu quả của đề tài mang lại, bản thân tôi đạt một số kết quả trong năm học 2011 – 2012 như sau: - Thống kê kết quả làm bài thi học kì II trong hai đợt thi kiểm tra chung của toàn trường. Có thể nói rằng, cách thực hiện như trên đã phần nào cải thiện được chất lượng học tập của học sinh..
<span class='text_page_counter'>(37)</span> Năm học 2011-2012 HỌC KÌ II. KIỂM TRA GIỮA KÌ II. KIỂM TRA HỌC KÌ II. > 5 Tỉ lệ(%) <5 Tỉ lệ(%) >5 Tỉ lệ(%) <5 Tỉ lệ(%). Lớp 12S2 25 59,5. Lớp 12S4 30 73,2. Lớp 12S6 30 66,6. Toàn trường. 17 40,6. 11 26,8. 15 34. 57,6. 28 66,6. 31 75,6. 32 71,1. 37,9. 10 33,4. 10 24,4. 13 28,9. 62,1. 42,4. VII. KẾT LUẬN Phương pháp nêu vấn đề có ưu thế trong việc giảng văn giúp học sinh bộc lộ vai trò chủ động tích cực, tự mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tham gia vào quá trình cảm thụ tác phẩm văn học. Như vậy càng thấy rõ hơn tầm quan trọng cũng như vai trò hướng dẫn của người thầy trong giờ giảng văn, giúp học sinh tích cực chủ động trong việc học. Để làm được việc này đòi hỏi kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Phương pháp này đã xây dựng cho các em khả năng tự học, đánh thức tư duy nghiên cứu độc lập, tạo dựng khả năng liên kết nhóm, sự tự tin và kĩ năng thuyết trình vấn đề…… Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu. Để có thể dạy - học văn một cách hiệu quả cần phải áp dụng đồng bộ các phương pháp khác nhau. Thật không dễ dàng để có một phương pháp nào toàn vẹn, thỏa mãn được tất cả các học sinh, các yêu cầu dạy và học môn Ngữ Văn. Điều quan trọng là giáo viên phải biết lựa chọn, kết hợp các phương pháp để phát huy những thế mạnh của từng phương pháp để đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Tuy nhiên việc định hướng, gợi mở và tôn trọng những tìm tòi sáng tạo của học sinh là cách thức hữu hiệu nhất tạo ra cho các em niềm say mê với thế giới văn chương phong phú, nhiều màu sắc. Muốn được như vậy, người thầy phải có “nghệ thuật đổi chỗ”. Thầy “đổi chỗ” vào vị trí của học sinh, đọc tác phẩm với con mắt của học trò, suy nghĩ và cảm xúc bằng cảm xúc của học trò...Từ đó tiên liệu trước.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> những chi tiết khó hiểu, nhàm chán mà học sinh vướng mắc và vận dụng phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Người thầy sẽ tìm ra cách thuyết phục học sinh cái hay, cái đẹp của tác phẩm từ những câu hỏi nêu vấn đề. Và quan trọng hơn, trên cơ sở đó, giáo viên sẽ hình thành trong nhận thức của học sinh một phương pháp luận cảm nhận, đánh giá khoa học khi đứng trước bất cứ một tác phẩm văn học nào. Điều đó cũng có nghĩa là, dạy cho học sinh biết cách “câu cá” thay vì đưa “con cá”. Tôi đưa ra chuyên đề này cũng chỉ mang tính chất chủ quan từ kinh nghiệm và cách nhìn nhận đánh giá của bản thân và rất mong nhận được sự góp ý của bạn bè, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngữ Văn 12 (tập 1, 2) NXBGD 2. Sách giáo viên Ngữ Văn 12 Nâng cao (tập 1,2) 3. Sách giáo viên Ngữ Văn 12 (tập 1, 2) NXBGD 4. Phan Trọng Luận -Thiết kế bài học Ngữ Văn 12 NXBGD 5. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ Văn 12, NXBGD 6. Phan Thiều dịch , Phương pháp luận dạy học văn học ( NXBGD) 7. Phan Trọng Luận –Nguyễn Than Hùng (1988) Phương pháp dạy học văn tập 1 NXBGD 8. Nguyễn Kì (1995) Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm NXBGDHN 9. Lê Nguyên Long (1998) Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả , XNBGD 10.Vũ Nho (1999) Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn ở trường THCS , NXB GD 11.Nguyễn Thị Ngân (2001) Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở trường THPT 12.Carl Rogers, Phương pháp dạy và học hiệu quả, NXB Trẻ, 2001. 13.Nguyễn Viết Chữ (2003)Vấn đề câu hỏi trong dạy học văn 14.Bộ Giáo dục và đào tạo (2006) Tài liệu đổi mới về phương pháp dạy học môn Ngữ Văn 15.Nguyễn Viết Chữ (2006) Phương pháp dạy học tác phẩm theo đặc trưng loại thể NXBĐHSP 16.Hồ Ngọc Đại (2007) Tâm lí học dạy học NXBGD.
<span class='text_page_counter'>(40)</span>