Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 1a2 trong giờ học chính khóa của công tác chủ nhiệm lớp trường tiểu học dliêya, xã dliêya, huyện krông năng, tỉnh đăklăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.1 MB, 28 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Như chúng ta đã biết rằng: Đảng và Nhà nước ta ln nêu cao vai trị:
Giáo dục và Đào tạo là Quốc sách hàng đầu; mà trong đó bậc tiểu học là bậc
học nền tảng. Trích trong Luật giáo dục 2019 đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục
nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng
dân; có lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.
Tôi thiết nghĩ để mục tiêu giáo dục được thành cơng thì việc thực hiện nhiệm
vụ giáo dục trong các trường phổ thông là rất quan trọng. Đặc biệt là bậc học
tiểu học, được xem là bậc học nền tảng góp phần tạo tiền đề và nền móng
vững chắc cho các cấp học sau.Và đó cũng là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy
thắng lợi mục tiêu của nền giáo dục. Yếu tố quyết định quan trọng để thực
hiện được có hiệu quả và thắng lợi mục tiêu của giáo dục là vai trị của những
thầy cơ giáo. Đặc biệt là vai trò của những giáo viên làm chủ nhiệm lớp. Như
chúng ta biết rằng: Thầy cô làm chủ nhiệm lớp không chỉ có trách nhiệm quản
lí việc học tập của các em học trị của mình đồng thời phải có trách nhiệm với
việc hình thành và phát triển những tính cách của phẩm chất của trị. Cho nên
mỗi thầy cơ giáo phải là người có tri thức về mọi mặt, có kiến thức về tâm
sinh lí của trẻ ở lứa tuổi tiểu học, đồng thời phải có kĩ năng sư phạm tốt để
ứng xử và xử lí các tình huống sư phạm một cách phù hợp và hiệu quả nhất
trong mọi hoạt động tổ chức dạy học hằng ngày vẫn diễn ra. Thầy cơ làm chủ
nhiệm lớp muốn quản lí được trị trong các giờ học chính khóa cần có biện
pháp thực hiện khác nhau, trong đó biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với
học sinh là biện pháp đem lại hiệu quả tác động tốt đến việc tiếp thu kiến
thức và rèn luyện của người học. Giáo dục kỉ luật tích cực là một biện pháp
thực hiện dựa vào những lợi ích phù hợp với trị , chính đáng nhất của trò.



2

Và biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực khơng ảnh hưởng đến sức khỏe
của bản thân trò cũng như khơng làm tâm lí của trị sợ sệt hay lo lắng, bất an.
Xong ở thực tế hiện nay của xã hội, đặc biệt là trong môi trường giáo dục
tôi vẫn thấy đâu đó vẫn cịn khơng ít giáo viên cịn chưa thay đổi về tư duy,
còn chưa thay đổi bản thân để sẵn sàng đáp ứng có hiệu quả việc đổi mới giáo
dục về chương trình. Nhiều thầy cơ chủ nhiệm lớp chưa coi trọng việc giáo
dục kỉ luật tích cực đối với trò, đặc biệt là đối với các em đầu cấp tiểu học.
Thầy cơ cho rằng trị lớp 1 đang còn quá nhỏ nên chưa đặt nặng về vấn đề
giáo dục kỉ luật tích cực với các em. Việc cư xử giữa thầy và trò trong lớp học
chưa tạo ra được sự tương tác tích cực, thân thiện. Đâu đó khoảng cách giữa
thầy và trị vẫn cịn có sự rào cản nhất định. Vẫn còn nhiều giáo viên ít quan
tâm tới tâm sinh lí của học sinh cũng như những khó khăn của các em….mà
cho rằng chỉ cần thực hiện dạy học đúng, đủ chương trình đề ra và dạy hết
kiến thức của bài là được. Đâu đó trong giáo dục vẫn cịn thấy tình trạng bạo
lực giữa thầy cô với học sinh. Việc này là một nổi đau đối với những người
làm công tác giáo dục. Là một người giáo viên, tôi cảm thấy rất trăn trở làm
sao để tình trạng này khơng cịn xảy ra trong môi trường giáo dục. Để các em
học sinh đến trường các em cảm thấy mỗi ngày là một niềm vui. Để các em
hăng say tích cực tiếp thu bài học và chăm chỉ trong rèn luyện, phát huy hết
năng lực của bản thân mỗi học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả học tập và
rèn luyện của trò mỗi ngày. Làm giảm bớt phần nào gánh nặng về chất lượng
học tập của lớp mình chủ nhiệm, của trường và của tồn ngành giáo dục. Các
em thấy rằng khơng cần phải dùng hình thức trừng phạt nặng nề có phần chưa
tích cực mà các em vẫn nhận thức được những sai lầm của bản thân, những
điều chưa đúng với chuẩn mực. Các em vẫn có thể chấp hành kỉ luật và xây
dựng cho mình một tác phong học tập và rèn luyện theo một kỉ luật nhất định.
Đó cũng là lí do mà bản thân đã tiến hành nghiên cứu và tìm ra các giải pháp

để thực hiện đề tài:


3

“Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 1A2 trong giờ
học chính khóa của cơng tác chủ nhiệm lớp trường tiểu học Dliêya, xã
Dliêya, huyện Krông Năng, tỉnh ĐăkLăk.”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Thực hiện “Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 1
trong giờ học chính khóa của công tác chủ nhiệm lớp…” nhằm đúc kết
những kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục kỉ luật tích cực đối với
học sinh lớp 1 trong giờ học chính khóa của cơng tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu
quả nhằm giúp học sinh có tính kỉ luật tích cực trong học tập và rèn luyện.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và rèn luyện của học sinh trong lớp
của tơi chủ nhiệm nói riêng và của trường nói chung. Đồng thời khắc phục
được tình trạng dạy học khơng dùng những biện pháp tiêu cực để phạt học
sinh, góp phần làm cho trường học ngày một lành mạnh, tạo niềm tin cho phụ
huynh an tâm hơn khi gửi gắm con mình vào trường để học tập và rèn luyện.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 1 trong giờ học
chính khóa của cơng tác chủ nhiệm lớp trường tiểu học Dliêya, xã Dliêya. Với
khách thể nghiên cứu là:
- Học sinh Lớp 1A3 năm học: 2018 – 2019
- Học sinh Lớp 1A2 năm học: 2019 – 2020

Trường tiểu học Dliêya

- Học sinh Lớp 1A2 năm học: 2020 – 2021
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Giới hạn về quy mô: nghiên cứu về giáo dục kỉ luật tích cực đối với học
sinh trong giờ học chính khóa của cơng tác chủ nhiệm lớp.
Giới hạn về khách thể nghiên cứu: các em học sinh lớp 1A3, 1A2, 1A2
Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: trường tiểu học Dliêya, xã Dliêya, huyên
Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.
Giới hạn về thời gian: Từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 2 năm 2021
5. Phương pháp nghiên cứu.


4

Để hồn thành đề tài này bản thân tơi đã kết hợp và sử dụng một số
phương pháp sau:
Các phương pháp chính:
Phương pháp nghiên cứu lí luận
Để làm rỏ cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thống kê tốn học
Nhằm xử lí số liệu khảo sát thực trạng và thực nghiệm.
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Được sử dụng để nghiên cứu các văn kiện Đảng, Luật giáo dục, .
Phương pháp điều tra
Điều tra thực trạng trong công tác giáo dục tính kỉ luật tích cực cho học
sinh lớp 1 trường tiểu học Dliêya.
Phương pháp bổ trợ:
Phương pháp đàm thoại
Phương pháp quan sát
Phương pháp thực nghiệm


5


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Hiện nay nền giáo dục của nước ta đã và đang thực hiện đổi mới một cách
toàn diện: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,
được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và
bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”.( Trích từ quan
điểm chỉ đạo về định hướng đổi mới căn bản toàn diện giáo dục , đào tạo.
Theo nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám của ban chấp
hànhTtrung ương Đảng khóa 11). Qua đó nhằm giúp các em học sinh thân
yêu biết vận dụng những vốn tri thức đã có và các kĩ năng một cách sáng tạo
vào trong cuộc sống xã hội thực tiễn. Bác Hồ đã dạy:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Câu nói ấy đã thấm nhuần vào đường lối của Đảng và Nhà nước ta nhất là
áp dụng trong ngành giáo dục. Với vai trò và trách nhiệm ấy, mỗi người giáo
viên chủ nhiệm cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm về vai trò của người
thầy trong lớp học. Người giáo viên chủ nhiệm vừa thực hiện chương trình
giáo dục phổ thơng cấp tiểu học và kế hoạch giáo dục của nhà trường vừa chủ
động thực hiện và chịu trách nhiệm về kế hoạch giáo dục, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và chất lượng, hiệu quả giáo


6


dục từng học sinh của lớp mình phụ trách, bảo đảm quy định của chương trình
giáo dục, phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của nhà trường.
Giáo viên biết xây dựng mối quan hệ thân thiện, dân chủ giữa giáo viên với
học sinh, với cha mẹ học sinh và cộng đồng, giúp học sinh chủ động, sáng
tạo, tự tin, tự chủ trong các hoạt học tập và rèn luyện. Bên cạnh đó, người
giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng, gương mẫu trước các em học
sinh. Giáo viên phải đối xử với các em học sinh một cách công bằng, phải biết
yêu thương và tơn trọng các em học sinh của mình. Giáo viên phải biết bảo
vệ những quyền lợi của các em học sinh. Chủ động nắm bắt thông tin từng
học sinh của lớp được phân công làm công tác chủ nhiệm, xây dựng các hoạt
động giáo dục của lớp thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, cách thức giáo dục phải
đảm bảo tính khoa học, khả thi phù hợp với các em có đặc điểm của lứa tuổi
học sinh lớp 1. Và đặc biệt nội dung giáo dục, kế hoách giáo dục áp dụng phải
phù hợp với tình trạng thực tế của lớp và đối tượng, hoàn cảnh của người học.
Nhằm mục đích là tạo cơ hội cho học sinh tiến bộ mỗi ngày trong học tập và
rèn luyện. Để thực hiện tốt được vai trị đó thì trước hết địi hỏi mỗi thầy cơ
giáo nói chung và giáo viên làm cơng tác chủ nhiệm lớp nói riêng phải ln
nhẫn nại, nhiệt tình và làm việc có tâm. Việc hình thành nhân cách học sinh
về rèn kĩ năng sống ban đầu cho các em là không thể thiếu được. Các em học
sinh lớp 1 có trình độ nhận biết cịn nhiều hạn chế cùng với tâm sinh lí và vốn
sống của các em chưa phát triển nhất định. Vì vậy người giáo viên chủ nhiệm
lớp không chỉ thực hiện dạy học cho các em vốn kiến thức, văn hóa xã hội mà
cịn dạy cho các em các kĩ năng, giáo dục cho các em những phẩm chất tốt
đẹp, cách sống, cách làm người để đáp ứng con người của xã hội chủ nghĩa.
“ Giáo dục kỉ luật tích cực là các biện pháp kĩ thuật khơng mang tính bạo
lực, tơn trọng học sinh ,cung cấp cho học sinh những thông tin biết để không
vi phạm, chấp hành và ý thức tự giác. Giúp cho các em sự tự tin khi đến
trường học và rèn luyện. Giáo dục kỉ luật tích cực là phương pháp giáo dục
đạo đức giúp học sinh tiến bộ hơn trên cơ sở học sinh tự tìm, tự nhận ra và tự

sửa chữa những khuyết điểm của mình”. (trên đây là khái niệm giáo dục kỉ


7

luật tích cực - trích từ tạp chí giáo dục số đặc biệt tháng 3/2017). Chính vì
vậy để thực hiện thành cơng việc giáo dục kỉ luật tích cực cho học sinh địi
hỏi người giáo viên phải có những biện pháp phù hợp, có những tri thức cơ
bản về tâm lí học giáo dục và phải có hàng loạt kĩ năng sư phạm như: kĩ năng
tiếp cận đối tượng học sinh, kĩ năng nghiên cứu tâm lí lứa tuổi, xã hội, kĩ năng
đánh giá, kĩ năng lập kế hoạch chủ nhiệm lớp và phải có nhạy cảm sư phạm
để có dự đốn đúng, chính xác sự phát triển nhân cách của học sinh. Giáo
viên chủ nhiệm lớp cần đặc biệt quan tâm tới việc học tập, sự hình thành và
phát triển nhân cách của các em học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
Trường tiểu học Dliêya nằm ở địa bàn trung tâm của xã Dliêya. Trường
tiểu học Dliêya đã được công nhận là Trường chuẩn quốc gia ở mức độ 1 vào
năm 2011. Về cơ sở vật chất và cảnh quan trường học khá đầy đủ và đẹp, đáp
ứng được khá đầy đủ nhu cầu học tập và rèn luyện của học sinh.
Được sự quan tâm của lãnh đạo Phịng giáo dục, lãnh đạo ở địa phương
ln tạo mọi điều kiện tốt nhất cho nền giáo dục của trường. Giáo viên của
trường phần lớn có tuổi đời khá trẻ, trình độ chun mơn đạt chuẩn và trên
chuẩn. Phần lớn các giáo viên trong trường ln tích cực sáng tạo trong giảng
dạy, sẵn sàng học hỏi và tiếp thu ý kiến để sửa đổi bản thân đáp ứng tốt và
hiệu quả chương trình của giáo dục mới. Những năm gần đây nhà trường đã
có nhiều kết quả tốt đẹp về hoạt động chuyên môn và các phong trào dành cho
học sinh và giáo viên do các cấp phát động. Học sinh của trường nhìn chung
là các em đều ngoan ngỗn, có ý thức chấp hành tốt nội quy. Mặc dù trường
có số lượng học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ là 436 em/ 878 em, chiếm
49,66% so với học sinh của toàn trường nhưng ý thức học tập và rèn luyện

của các em khá tốt....Nhận thức của phần lớn phụ huynh về giáo dục cũng dần
thay đổi, họ quan tâm hơn đến vấn đề học tập của con mình.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì nhà trường vẫn cịn một số khó khăn
nhất đinh cụ thể như:


8

Mặc dù cơ sở vật chất của trường hiện tại tương đối đầy đủ tuy nhiên để
đáp ứng với chương trình giáo dục 2018 thì vẫn chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu
học tập và rèn luyện của học sinh theo chương trình mới. Đội ngũ giáo viên
một số ít thầy cơ giáo lớn tuổi vẫn cịn ngại thay đổi tư duy, ít năng động, ít
sáng tạo, chưa thực sự học hỏi thay đổi phương pháp giáo dục và áp dụng
công nghệ thông tin vào các tiết dạy hằng ngày. Chính vì vậy nên trong q
trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục người giáo viên chưa thực sự phát huy
được về vai trị và lợi ích của việc sử dụng biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực
đối với học sinh. Thầy cơ cịn mang nặng suy nghĩ khi học sinh mắc lỗi thì
hình thức phạt là phải nặng, phải răng đe cho học sinh sợ, chưa mềm mỏng
trong cách giáo dục đối với các em. Đâu đó một số giáo viên còn theo quan
niệm: “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.” Hay “miếng ngon
nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Có thể nói đó là một lối tư duy lạc hậu đã làm
hạn chế sự phát triển, năng động và sáng tạo của các em học sinh. Mặt khác,
học sinh vẫn cịn có một số ít vẫn chưa có ý tự giác trong việc và trong rèn
luyện. Ở trường học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm tỉ lệ 49,66% so với
học sinh toàn trường nên sự tiếp thu tiếng Việt của các em còn gặp nhiều trở
ngại.
Các em do sử dụng ngơn ngữ của mình khi đến trường nên việc tiếp cận trong
dạy và học giữa thầy cơ và trị cịn gặp khó khăn nhất định. Một số ít phụ
huynh học sinh chưa quan tâm đến việc học hành của con do nhận thức còn
chưa cao, phụ huynh giao hết trách nhiệm gióa dục con em mình cho nhà

trường mà khơng nghĩ sự gióa dục của gia đình rất quan trọng. Từ thực trạng
trên bản thân tơi có nhận định về một số ngun nhân, yếu tố tác động đến
giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 1A2 trong giờ học chính khóa
của cơng tác chủ nhiệm lớp như sau:
Trong dạy học và giáo dục người giáo viên chưa thực sự có cách cư xử
khéo léo, mềm dẻo cũng như chưa có sự thân thiện, chưa tạo được sự thoải
mái cho học sinh trong giờ học nên chưa thúc đẩy học sinh có cách cư xử,
hành vi phù hợp trong học tập và quá trình rèn luyện trên lớp.


9

Thầy cơ chưa có sự đổi mới về suy nghĩ trong việc dạy học nên chưa biết
lựa chọn và sử dụng những biện pháp phương pháp dạy học nhằm phát huy
được sự tích cực, sáng tạo của học sinh, chưa phát triển được năng lực học
tập, phẩm chất của người học.
Trước mặt học sinh đôi khi thầy cô giáo chủ nhiệm cịn chủ quan trong lời
nói và hành động nên dẫn đến không tạo được tấm gương sáng cho học sinh
noi theo. Giáo viên chưa có những hình thức khen thưởng, động viên học sinh
trong từng hoạt động một cách kịp thời nên chưa phát huy tối đa khả năng học
tập cũng như rèn luyện của các em.
Nhiều giáo viên mặc dù dạy học trò là dân tộc thiểu số tại chỗ nhưng
không biết về tiếng mẹ đẻ của các em, về tập tục văn hóa dân tộc của các em
nên trong q trình dạy học cịn gặp khơng ít khó khăn dẫn tới việc dạy học
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Nhiều giáo viên chủ nhiệm lớp chưa thực sự để ý hồn cảnh của trị và
chưa quan tâm đến những mong muốn và những vướng mắc của các em để
kịp thời giúp đỡ, động viên.
Thầy cô chủ nhiệm lớp chưa có sự gắn kết giữa giáo viên bộ mơn, các tổ
chức trong nhà trường để góp phần thúc đẩy việc giáo dục học sinh ngày một

có hiệu quả hơn.
Với phụ huynh giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp chưa có sự phối hợp
cao, đúng mực để cùng giáo dục các em học sinh.
Lứa tuổi lớp 1 là lứa tuổi nhỏ nhất của bậc tiểu học nên học sinh chưa thể
ý thức cao trong việc xác định nhiệm vụ của mình đến trường là để học tập và
tích cực rèn luyện. Việc sử dụng tiếng Việt của các em lớp 1còn chưa thạo đặc
biệt là đối với các em dân tộc thiểu số tại chỗ còn gặp nhiều khó khăn, trở
ngại nhất định.
Từ những thực trạng như vậy, bản thân rất trăn trở làm thế nào để thay
đổi được lớp học. Làm thế nào để các em học sinh thực sự mạnh dạn, tự tin,
có ý thức tự giác hơn trong các hoạt động. Các em chấp hành tốt các nội quy
của trường, của lớp một cách tích cự và tự giác…. Tơi đã bắt tay vào khảo sát


10

định tính các em học sinh lớp 1a3 vào giữa học kì I của năm 2018-2019. Dưới
đây là bảng kết quả khảo sát tôi thu được:
Bảng khảo sát đánh giá giáo dục giữa học kì I, năm học 1028-2019, lớp

1A3.

Bảng 1: Các môn học và hoạt động giáo dục

Ghi chú:. T: hoàn thành tốt; H: hoàn thành; C chưa hoàn thành.)
( Ghi chú: T: tốt; Đ: đạt; C: Cần cố gắng)
( Ghi chú: T: tốt; Đ: đạt; C: Cần cố gắng)

Qua việc khảo sát được kết quả trên, tôi nhận thấy rằng các em học
sinh cần phải có những cách giáo dục tích cực, để các em cảm thấy rằng mình

cịn có được sự quan tâm của mọi người, các em thấy rằng mình cũng có thể
làm được những việc mà mình nghĩ là sẽ khơng bao giờ làm được. Để có
được như vậy thì trước hết giáo viên phải suy nghĩ lại cách giáo dục các em


11

để các em có thêm động lực. Giáo viên phải có kế hoạch giáo dục đối với lớp
mình ngay từ ban đầu. Học sinh không biết xác định nhiệm vụ học tập. Các
em chưa được tham gia nhiều vào hoạt động học tập nên các em chưa phát
huy hết khả năng tiềm ẩn của mình. Bên cạnh đó giáo viên chưa nắm rõ được
đối tượng cũng như những suy nghĩ, nguyện vọng của từng học sinh dẫn đến
chưa có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Có thể là do phụ huynh chưa quan
tâm đến con em mình trong học tập, phụ huynh chưa rèn cho các em thói
quen học tập đúng đắn. Các bậc phụ huynh học sinh còn giáo hết trách nhiệm
cho nhà trường, cho giáo viên chủ nhiệm lớp. Sự giáo dục ở nhà và ở trường
đôi khi cịn chưa có sự thống nhất với nhau. Các em học sinh lớp 1 còn rất dại
khờ, đáng yêu hay bắt chước những hành động của người xung quanh. Học
sinh các em rất dễ bị sa đà, lôi cuốn vào những việc xấu hoặc những hành vi
nhận thức xấu, chưa đúng chuẩn mực đạo đức. Cho nên bản thân giáo viên
phải chuẩn trong mọi hoạt động, lời nói để là tấm gương sáng cho các em noi
theo. Hiện nay, trong thời đại phát triển bùng nổ của mạng internet thời đại
công nghệ 4.0. Đi bất cứ nơi đâu trong cuộc sống đời thường, chúng ta cũng
và đã bắt gặp những hình ảnh: mỗi một đứa trẻ phụ thuộc quá nhiều vào chiếc
điện thoại smart phon với nhiều tính năng để chơi game, xem hoạt hình... Các
em khơng cịn khoảng thời gian giành cho mình tham gia vào những hoạt
động, những trị chơi dân gian bổ ích. Cho nên kĩ năng sống của các em chưa
có, đồng thời kĩ năng giao tiếp của mình cịn hạn chế..
Qua khảo sát và nghiên cứu thực trạng, bản thân tôi rất trăn trở và suy nghĩ
tìm hiểu kĩ những đặc điểm tình hình chung của lớp phụ trách để đưa ra

những giải pháp phù hợp nhất. Nhằm khắc phục những mặt còn hạn chế và
đồng thời phát huy những mặt mạnh, mặt tích cực của lớp, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục của lớp mình ngày một có kết quả tốt hơn, học sinh có
nhiều khả năng để phát triển về phẩm chất và năng lực của mình, đồng thời
góp phần để giảm bớt phần nào gánh nặng về chất lượng của nền giáo dục và
hướng đến thực hiện thành công Mục tiêu giáo dục của chương trình mới là
dạy học theo hướng phát triển về năng lực và phẩm chất cho người học. Đồng


12

thời giáo viên tạo được môi trường lành mạnh trong giáo dục, khơng cịn tình
trạng giữa thầy và trị có sự sung đột, bạo lực, giữa cô giáo với học sinh có sự
thân thiện, gần gũi, sự quan tâm chăm sóc của cơ đối với trị. Để trường học là
nơi mà ở đó các em học sinh được dạy dỗ và rèn luyện một cách hiệu quả và
tốt nhất. Xây dựng được niềm tin với các bậc phụ huynh và giúp họ khơng
cịn lo lắng điều gì khi gửi con mình đến học và rèn luyện phát triển bản thân.
3. Nội dung và hình thức của các giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp.
Thực hiện áp dụng các giải pháp của biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực
nhằm mục tiêu là đưa ra một cách giáo dục không dùng biện pháp tiêu cực mà
học sinh vẫn có được một kỉ luật nhất định, các em vẫn có thể xác định được
nhiệm vụ của mình là học tập, giúp các em tự tin, tích cực, yêu thích hơn
trong việc học và rèn luyện. Tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh,
được sự đồng tình ủng hộ của phụ huynh học sinh và của xã hội. Từ đó giáo
dục cho các em những phẩm chất đáng quý của một người cơng dân, có đủ
trình độ năng lực cho bản thân để đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội trong giai
đoạn hiện nay.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Từ những thực trạng trên bản thân tôi đã tiến hành nghiên cứu và thực

hiện các giải pháp sau:
Giải pháp thứ nhất: Giáo viên phải thay đổi cách cư xử giữa giáo viên
và học sinh trong lớp học nhằm tạo nên sự thân thiện cởi mở, gần gũi
giữa học sinh với giáo viên. Giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong
hoạt động học tập và rèn luyện.
Thay đổi cách cư xử của giáo viên là cô giáo dựa trên việc động viên,
khen thưởng khích lệ học sinh, đồng thời nêu gương để nhằm thúc đẩy các em
học sinh có cách cư xử đẹp, đúng với chuẩn mực. Người giáo viên phải xây
dựng các nội quy của lớp một cách cụ thể, rõ ràng trong giờ học chính khóa.
Giáo viên chủ nhiệm phải có hình thức phạt phù hợp đối với những cá nhân
học sinh đã vi phạm nội quy, quy chế của lớp đề ra. Để từ đó các em biết được


13

là những việc bản thân mình làm là khơng đúng, chưa phù hợp. Và các em sẽ
tự biết sửa chữa cách cư xử của mìn cho đúng với chuẩn mực đạo đức hơn.
Giáo viên chủ nhiệm phải đồng thời xử phạt kết hợp với khen thưởng một
cách linh hoạt, công bằng với mọi học sinh. khơng có trường hợp nào ngoại
lệ. Giáo viên không nên trách phạt học sinh của mình vì những lỗi do khách
quan mang lại. Giáo viên phải ln tạo ra bầu khơng khí lớp học thoải mái
giúp cho các em học sinh tiếp thu bài học một cách tốt nhất, hăng say xây
dụng bài và tự tin học tập. Giáo viên phải là người gương mẫu, có phẩm chất
đạo đức tốt, biết ứng xử linh hoạt trong mọi tình huống vì mọi hành động của
co thầy giáo ảnh hưởng đến trẻ rất nhiều. Giáo viên ứng xử tích cực sẽ góp
phần làm cho học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỉ luật, qua đó sẽ giảm bớt
áp lực quản lí lớp học. Đồng thời tạo ra một không gia học tập lành mạnh,
trong sáng, thân thiện. Ở đó có cách dạy dỗ tích cực, học sinh được phát huy
hết khả năng của mình.


Học sinh lớp 1a2 sơi nổi tham gia trị chơi khởi động, mơn Tiếng Việt những tuần đầu, năm
học 2020-2021.

Giải pháp thứ hai: Giáo viên cần và luôn phải tạo cơ hội cho học sinh
được tham gia vào các hoạt động học tập và rèn luyện để mỗi học sinh có
thể phát huy khả năng của mình.


14

Giáo viên chủ nhiệm trước hết phải hiểu thế nào là tạo cơ hội cho học
sinh tham vào các hoạt động học tập. Phải xác định được lợi ích của việc học
sinh được tham vào các hoạt động học tập. Các em học sinh được nêu ý kiến
để xây dựng bài trong các giờ học chính khóa là các em được nói lên quan
điểm của bản thân trước một vấn đề trong cuộc sống. Các em được thảo luận
sôi nổi, được tranh luận với nhau, các em nêu những thắc mắc của bản thân.
Việc tạo cho các em học sinh được tham gia vào các hoạt động học tập và rèn
luyện giúp các em tự tin hơn khi nêu hoặc đưa ra một vấn đề nào đó. Đồng
thời giúp các em có trách nhiệm với bản thân cũng như để phát huy khả năng
trình bày, lập luận của mình. Giáo viên là người phải biết tạo nên khơng khí
thi đua giữa các em học sinh một cách tích cực trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh
đó để các em được vui trong học tập thì người thầy người cơ phải biết tổ chức
những hoạt động, trị chơi vui và có ích cho các em tham gia, giúp các em
được trải nghiệm thực tế. Học sinh sẽ nhận thấy được rằng bản thân mình
cũng được sự quan tâm , yêu thương đùm bọc của thầy cô như người mẹ
người cha thứ hai của mình. Nếu các em làm gì chưa đúng thì giáo viên nhẹ
nhàng phân tích, nhắc nhở để học sinh nhận ra được cái chưa đúng và từ đó
các em sẽ thực hiện tốt hơn nội quy hơn. Các em sẽ tự giác hơn, tích cực hơn
trong mọi hoạt động.



15

( Em Bảo Châu học sinh lớp 1a2 trường tiểu học Dliêya tự tin trình bày kết
quả bài làm trước lớp mơn Tốn tuần 17 bài ơn tập phép cộng, trừ trong
phạm vi 10, năm học 2020-2021)


16

(Hình ảnh lớp1A2 trường tiểu học Dliêya được nhận cờ thi đua giải nhất tuần
trong tiết chào cờ tuần 5 của năm học 2020-2021)

( Thành tích của cơ và trị lớp 1a2 – trường tiểu học Đliêya, kết quả khen
thưởng của các em học sinh qua quá trình rèn luyện. Cuối năm học 20192020)


17

( Thành tích của cơ và trị lớp 1a2 – trường tiểu học Dliêya, kết quả khen
thưởng của các em học sinh qua quá trình rèn luyện. Cuối năm học 20192020)

( Học sinh lớp 1a2, trường tiểu học Dliêya tham gia văn nghệ tại hội thi “
giai điệu tuổi hồng” tổ chức cấp trường vào tháng 10, năm học 2020-2021)


18

(Học sinh lớp 1a2 sôi nổi tham gia xây dựng bài “Bạn của gió” mơn Tiếng
Việt tuần 19, họ kì II, năm học 2020-2021)

Giải pháp thứ ba: Giáo viên giúp học sinh tiến bộ trong học tập và
rèn luyện có hiệu quả thì cần sử dụng biện pháp nêu gương và khen
thưởng.
Các em học sinh lớp 1, như một trang giấy trắng. Các em có suy nghĩ cịn
non nớt, chưa tự chủ được về những việc làm cũng như lời nói của mình. Ở
lứa tuổi này các em thường hay làm theo những hành động của những người
xung quanh. Các em chưa thể nào chọn cho mình việc nào nên bắt chước làm
theo, việc nào không nên bắt chước làm theo. Cho nên cơng việc dạy dỗ ở
lớp thì người giáo viên chủ cần hướng các em vào những hành vi tốt đẹp,
hành động đẹp. Phương pháp tôi thấy hiệu quả nhất và tác động nhanh nhất
đến với học sinh trong quá trình phát triển kiến thức – năng lực, phẩm chất
của học sinh lớp 1 nói riêng đó là sử dụng biện pháp nêu gương. Chúng ta
hiểu thế nào là nêu gương? Tơi cho rằng nêu gương chính là người giáo viên
sử dụng những mẫu mực cụ thể, những tấm gương người tốt, việc tốt gần gũi
với các em để các em thấy được qua những tấm gương ấy, bản thân mình đã
tốt chưa. Các em tự đánh giá lại hoạt động của bản thân và từ đó các em sẽ tự
hồn thiện bản thân mình cho ngày một tốt hơn. Trong việc dạy dỗ hằng ngày
của mình, tấm gương tốt nhất có ảnh hưởng lớn đối với học sinh đó chính là
thầy cơ giáo dạy các em. Chính vì thế người cơ, người thầy phải gương mẫu
trong tất cả hoạt động và công việc. Giáo viên phải chú ý đến từng lời ăn,
tiếng nói cũng như cách cư xử của mình khi đứng trước học sinh. Vì các em
học sinh cho rằng cơ giáo của mình là số một. Đơi khi bố mẹ nói chưa chắc
các em nghe. Nhưng chỉ cần cơ giáo nói một tiếng là các em đã nghe và thực
hiện theo.
Phương pháp nêu gương này có tác động mạnh đến việc hình thành phẩm
chất cũng như năng lực của các em học sinh. Trong các tiết học đòi hỏi giáo
viên cần nghiên cứu, sưu tầm những tấm gương tốt ngoài đời thường để giáo
dục các em. Học sinh trong lớp nhặt được của rơi trả lại người đánh mất, cô



19

giáo cần nêu gương tại lớp và khen thưởng kịp thời đối với những em học
sinh đó. Những tấm gương có năng lực tốt trong học tập và rèn luyện của lớp
cô cũng nêu ra và tuyên dương trước lớp, qua tấm gương học tập của em ấy
cô muốn các bạn học sinh trong lớp cùng nhau học tập. Và bản thân học sinh
đó được cơ nêu gương cũng cảm thấy rất hạnh phúc và có ý phấn đấu tốt hơn
nữa.
Trong từng giờ học giáo viên thường nêu ra những tấm gương người tốt
việc tốt phù hợp với học sinh các em sẽ học tập theo. Giáo viên cần phải sang
lọc kĩ càng những tấm gương cần cho học sinh học tập. Đặc biệt là bản thân
cô giáo cũng cần chú ý tới mọi hành động, ứng xử trước học sinh sao cho
chuẩn mực vì có ảnh hưởng lớn đối với các em. Bên cạnh nêu gương, giáo
viên cần động viên, khen thưởng nhanh và đúng đối với học sinh cũng rất cần
thiết, các em tuổi còn nhỏ nên chỉ cần khen khi các em làm được việc tốt thì
các em sẽ rất thích và ý thức hơn với những hành động và việc làm của mình.
Các em cần được khen trong cả học học tập và trong các phong trào rèn
luyện.
Giải pháp thứ tư: Giáo viên không ngừng học hỏi nâng cao năng lực
chuyên môn, năng lực sử dụng tiếng dân tộc ( tiếng ê đê) nhằm có sự gắn
kết, gần gũi và hiểu học sinh hơn.
Nâng cao chuyên mơn của bản thân giáo viên để có những kinh nghiệm
giảng dạy, học hỏi những phương pháp và hình thức tổ chức tiết dạy sao cho
sinh động, hấp dẫn giúp các em tham gia học tích cực, đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo viên mà biết được tiếng của học sinh dân tộc thiểu số thì sẽ dễ dàng hơn
trong bày vẽ hướng dẫn cho các em học tập. Từ đó các em cảm thấy gần gũi
hơn với giáo viên của mình.


20


(Cô Dương Hiền trường tiểu học Dliêya dự giờ đồng nghiệp môn Tiếng Việt tiết 2 ngày
thứ ba tuần 17 để học hỏi kinh nghiệm chuyên môn. Năm học 2020-2021.)
Giải pháp thứ năm: Những hồn cảnh đặc biệt khó khăn trong lớp , giáo
viên phải gần gũi, quan tâm hơn.
Thầy cô chủ nhiệm lớp là luôn gần gũi nhất với học sinh. Thầy cô chủ
nhiệm lớp phải hiểu được những khó khăn của học sinh trong việc học và rèn
luyện.
Có thể vì một lí do nào đó học sinh gặp phải trong cuộc chưa biết xử lí như
thế nào dẫn đến các em xử lí chưa đúng thì thầy cơ phải khun bảo và có
cách xử lí sao cho đúng để giúp học sinh khắc phục được những khó khăn
nhất định. Cho nên giáo viên cần phải nắm rõ về thông tin về học sinh bằng
cách cho phụ huynh điền vào phiếu thông tin được phát về nhà với các nội
dung sau: Họ và tên học sinh; ngày tháng năm sinh; quê quán; địa chỉ thường
trú; tên bố, tên mẹ; số điện thoại liên lạc; điều kiện về gia đình; học sinh là
con thứ mấy trong gia đình; học sinh thích gì nhất ; giáo viên cần đặc biệt chú
ý điều gì đối với học sinh.
Giáo viên phải biết lắng nghe tâm tư, nguyện vọng cũng như tâm sự của
các em để có thể hiểu các em hơn. Giáo viên đồng thời phải luôn chia sẻ, biểu
lộ sự cảm thông đối với những khó khăn của trị. Cơ thầy khơng dùng những
lời chỉ trích gây tổn thương cho học sinh. Cùng lắng nghe, phân tích để giúp
các em tháo gỡ vướng mắc của bản thân cho phù hợp. Mà đặc biệt là các em


21

lớp 1 dễ xúc động, dễ giận hờn và thường có thái độ, cử chỉ khơng đúng khi
cơ giáo, thầy giáo khơng hiểu mình. Hay là khi giáo viên dùng nói to tiếng
hay trách phạt các em các em rất dễ bị tổn thương dẫn đến các em có những
thay đổi về tâm lí. Có thể các em học sinh sẽ có những hành động và những

việc làm khơng phù hợp với thầy cô như không chịu hợp tác với giáo viên
trong các hoạt động học tập và rèn luyện. Đối với sự lễ phép, tôn trọng các
thầy cô giáo khơng cịn trong thời gian đó. Chính vì thế cho nên người giáo
viên phải có tri thức về tâm lí học sinh, thật sự hiểu rõ về tâm lí lứa tuổi học
sinh. Tạo ra được mối quan hệ thầy trò thật thân thiện như là người cha, người
mẹ, người anh, người chị của các em. Hay trò chuyện cùng với các em, nói về
ước mơ của học sinh. Làm thế nào chúng ta thực hiện được ước mơ đó… Để
các em cẩm thấy sự tin tưởng ở những người thầy cô.
Tạo được sự mạnh dạn và tự tin hơn trong việc học. Góp phần khắc phục
được hạn chế cịn tồn tại trong ngành giáo dục. Đặc biệt là đối với những em
tiếp kiến thức chậm hơn so với học sinh của lớp. Các em sẽ thấy tự ti vào bản
thân không bằng các bạn. Các em sẽ thấy chán nản, rồi dần dần khơng thích
học tập và khơng tham gia học tập. Các em sẽ tụt lại so với các bạn trong lớp.
Nếu như giáo viên không quan tâm, động viên và giúp đỡ các em, để học sinh
đó nhận thấy là bản thân cũng có thể thực hiện được các việc đó như những
học sinh khác. Các em cảm nhận được mình cũng có sự quan tâm, u thương
từ thầy cô và bạn bè trong lớp. Các em sẽ dần dần thay đổi mình để hịa đồng
cùng bạn bè.


22

(Cô Dương Thị Thu Hiền hướng dẫn học sinh chậm tiến của lớp 1a2 trường
tiểu học Đliêya trong giờ học Tiếng Việt, tuần 16 năm học 2020-2021)

(Cô Dương Thị Thu Hiền hướng dẫn học sinh chậm tiến của lớp 1a2 trường
tiểu học Đliêya trong giờ học Tiếng Việt tuần 7, năm học 2020-2021)


23


( Giáo viên Dương Thị Thu Hiền cùng Cô Hân Tổng phụ trách đến thăm và
tặng quà cho học sinh khó khăn: em H Hơng Mlơ của lớp1a2, bn Eatoa xã
Dliêya. Năm học 2018-2019)
Giải pháp thứ sáu: Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên
bộ môn, cùng các tổ chức khác trong nhà trường.
Giáo viên chủ nhiệm lớp hằng ngày luôn trao đổi đồng thời chia sẻ kinh
nghiệm giáo dục học sinh với giáo viên dạy các phân môn của lớp. Giáo
vieendayj bộ môn, tổng phụ trách không thể nắm bắt rõ đối tượng học sinh
của lớp như cơ chủ nhiệm được. Chính vì thế nên trong việc giáo dục trị cần
có sự két hợp một cách chu đáo giữa các tổ chức với giáo viên chủ nhiệm
nhằm giúp cho các em học sinh được dạy bảo một cách tốt nhất. Các em được
phát triển hài hòa nhất về học tập cũng như là rèn luyện. Giúp các em trở
thành những trò ngoan, biết nghe lời và luôn chấp hành kỉ luật, Biết giúp đỡ
bạn bè, yêu thương, chia sẻ những khó khăn của bạn trong lớp, trong trường.


24

Giải pháp thứ bảy: Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm lớp với
gia đình học sinh một cách đúng mực để cùng dạy dỗ học sinh học tập và
rèn luyện.
Các em học sinh được dạy dỗ ở trường là chưa đủ mà cần có sự giáo
dục kết hợp giữa gia đình học sinh nhằm giúp học sinh được phát triển tồn
diện hơn. Mà thầy cơ chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường với gia đình học
sinh. Hằng ngày giáo viên liên lạc với phụ huynh, nhắc nhở việc học tập của
con em. Đồng thời chia sẻ những cách dạy dỗ cho phụ huynh để nhờ phụ
huynh phối hợp cùng giáo viên thực hiện mục tiêu: “ Tất cả vì con em chúng
ta” “ tất cả là vì sự phát triển của học sinh”. Giáo viên tạo zalo nhóm của lớp
mời phụ huynh vào nhóm để cùng nhau xây dựng ý thức tự giác học tập cho

các em. Hoặc lập nhóm trên facebook, gọi điện cho phụ huynh là người ê đê
không sử dụng điện thoại thông minh. Đến nhà phụ huynh hỏi han, động viên
cùng phối hợp với giáo viên trong việc dạy bảo học sinh. Hình ảnh zalo theo
dõi việc học tập ở nhà của học sinh dưới sự kết hợp của phụ huynh học sinh.

( Hình ảnh của học sinh lớp 1a2 tự học ở nhà- phụ huynh quay video gửi về
zalo nhóm lớp cho cơ giáo kiểm tra. Năm học 2019-2020)


25

c. Mối quan hệ giữa các giải pháp:
Để thực hiện thành công của mục tiêu của đề tài đề ra, khơng có giải
pháp nào là vạn năng cả. Mà mỗi giải pháp đều có mặt ưu điểm và mặt hạn
chế. Cho nên người giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm trong nhà
trường bằng biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực thì phải biết kết hợp, vận dụng
một cách linh hoạt, mềm dẻo các giải pháp nêu trên trong hoạt động giáo dục
nhằm thúc đẩy chất lượng dạy học ngày một nâng cao, hồn thành tốt, có
hiệu quả nhiệm vụ, mục tiêu của nền giáo dục.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi
và hiệu quả ứng dụng
Sau khi nghiên cứu áp dụng biện giáo duc kỉ luật tích cực trong cơng tác
giáo dục của lớp mình phụ trách, lớp đã thu được kết quả học tập và rèn
luyện của các em học sinh như sau :
Bảng kết quả đánh giá giáo dục cuối học kì II của các lớp 1.
Bảng 1: Các môn học và hoạt động giáo dục

( Ghi chú: T: Hoàn thành tốt;H: hoàn thành; C: chưa hoàn thành)

Bảng 2: Bảng về Năng lực


( Ghi chú: T: tốt; Đ: đạt; C: cần cố gắng)

Bảng 3: Bảng về Phẩm chất


×