Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Vai trò của nhà máy xi măng bỉm sơn đối với quá trình hình thành và phát triển thị xã bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.17 KB, 73 trang )

Mục Lục
Phần A. Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 3
3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: ........................................................ 5
4. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu:........................................................... 6
5. Bố cục của khoá luận: .............................................................................................. 7
B. Nội Dung ...................................................................................................................... 8
Ch-ơng 1. Khái quát về Điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá, con ng-ời Bỉm Sơn ................................................................................ 8
1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................................. 8
1.1.1. Vị trí địa lý: ...................................................................................................... 8
1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên ................................................................................... 10
1.2. Truyền thống lịch sử - văn hoá con ng-ời Bỉm Sơn ......................................... 12
1.2.1. Truyền thống lịch sử: .................................................................................... 12
1.2.2. Ttruyền thống văn hoá ................................................................................... 17
Ch-ơng 2. Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy xi
măng Bỉm Sơn (1980 - 2004) ..................................................................................... 19
2.1. Chủ tr-ơng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn của Đảng và Nhà n-ớc. .. 19
2.2. B-ớc đầu xây dựng nhà máy (1968 - 1977) ....................................................... 20
2.2.1. Tiến hành công tác khảo sát thăm dò địa chất (1968 - 1974) ....................... 20
2.2.2. Chuẩn bị cơ sở vật chất (1974 - 1977)........................................................... 21
2.2.3. Tiến hành xây dựng nhà máy (1974 - 1977) .................................................. 22
2.3. Hoàn thành xây dựng nhà máy và đi vào sản xuất, phát triển (1982 - 2004).
..................................................................................................................................... 25
2.3.1. Hoàn thành xây dựng nhà máy: ..................................................................... 25
2.3.2. B-ớc đầu nhà máy đi vào tổ chức sản xuất : ................................................. 26
2.3.3. Nhà máy xi măng Bỉm Sơn trong thời kỳ đổi mới(1986 - 2003).................... 28
Ch-ơng 3. Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình
thành và phát triển thị xà Bỉm Sơn. ........................................................... 38
3.1. Bỉm Sơn - B-ớc phát triển từ thị trấn lên thị xÃ............................................... 38
3.2. Đóng góp của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với quá trình hình thành và


phát triĨn cđa thÞ x·. .................................................................................................. 45
3.2.1. Kinh tÕ - x· héi: ............................................................................................. 45
3.2.2.VỊ chÝnh trÞ - an ninh - qc phòng: ............................................................... 55
3.2.3. Văn hoá - giáo dục - y tế:............................................................................... 62
C. Kết luận ..................................................................................................................... 68
Tài Liệu Tham Khảo ................................................................................................... 72

1


Phần A.

Mở Đầu

1. Lý do chọn đề tài:
1.1 Nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử địa ph-ơng là một mảng đề tài luôn
thu hút sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu cũng nh- sinh viên chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam. Qua đó, góp phần làm phong phú hơn lịch sử dân
tộc cũng nh- làm rõ hơn những nét đặc thù, những đặc điểm riêng của lịch sử
địa ph-ơng, những đóng góp cuả địa ph-ơng trong sự phát triển chung của dân
tộc.Cho đến nay đà có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử các tỉnh, huyện,
xÃ, lịch sử Đảng bộ ...ở hầu hết các địa ph-ơng trong cả n-ớc. Tuy nhiên,
trong một thời gian dài, các đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào các đề tài
chính trị, lịch sử và cuộc đấu tranh giai cấp, ít đề cập đến các vấn đề kinh tế,
xà hội, hoặc nếu có cũng chỉ là để phục vụ cho các đề tài chính trị. Ngày nay,
trong công cuộc công nghiệp hoá - hiên đại hoá đất n-ớc, việc nghiên cứu về
các cơ sở kinh tế, các nhà máy, xí nghiệp ở địa ph-ơng cũng là một yêu cầu
cấp thiết để làm rõ những vấn đề kinh tế - xà hội, những thành tựu đà đạt
đ-ợc, những hạn chế. Qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất n-ớc phát triển, xây dựng

một n-ớc Việt Nam dân giàu, n-ớc mạnh, xà hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
1.2. Ngay trong hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
n-ớc, nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xà hội ở miền Bắc,
Đảng và Nhà n-ớc đà chủ tr-ơng xây dựng một nhà máy xi măng có công suất
lớn ở Bỉm Sơn, Thanh Hoá. Việc khảo sát thăm dò nguyên liệu và chuẩn bị
những điều kiện xây dựng đ-ợc tiến hành và càng đ-ợc đẩy mạnh hơn sau
chiến tranh. Ngày 4/3/1980, Chính phủ ra quyết định số 334BXD - TCCB
thành lập Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, đến ngày 1/9/1993, đổi tên là Công ty xi
măng Bỉm Sơn. Trải qua hơn hai m-ơi năm xây dựng và phát triển, Nhà máy

2


xi măng Bỉm Sơn đà đạt đ-ợc nhiều thành tựu to lớn, có nhiều đóng góp đối
với sự phát triển của đất n-ớc nói chung và tỉnh Thanh Hoá nói riêng trên con
đ-ờng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Ngày 4/3/2000, nhân dịp kỷ niệm 20
năm ra đời và phát triển, Công ty xi măng Bỉm Sơn vinh dự đ-ợc ®ãn nhËn
danh hiƯu "Anh hïng Lao ®éng''.
G¾n liỊn víi sù hình thành và phát triển của Nhà máy xi măng là quá
trình đô thị hoá trên mảnh đất Bỉm Sơn. Thị xà Bỉm Sơn ra đời và ngày càng
đổi mới, đạt đ-ợc những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế- xÃ
hội, văn hoá - giáo dục, chính trị- an ninh- quốc phòng. Trong quá trình đó,
cán bộ và nhân dân thị xà luôn thuấm nhuần khẩu hiệu hành động "thị xà Bỉm
Sơn từ xi măng mà đi lên, vì xi măng mà phục vụ". Nhà máy xi măng Bỉm
Sơn với những thành quả to lớn đà góp phần quan trọng trong việc tạo lập và
nâng cao vị thế thị xÃ, đ-a Bỉm Sơn phát triển thành cụm công nghiệp phía
Bắc Thanh Hoá.
Vì vậy, nghiên cứu về Nhà máy xi măng Bỉm Sơn để làm rõ vai trò của nó
đối với sự hình thành và phát triển của thị xà Bỉm Sơn không chỉ có ý nghĩa

khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn nhất định, gợi mở những vấn đề quan
trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá của n-ớc ta
hiện nay.
Với những lý do đó, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài "Vai trò của nhà máy xi
măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và phát triển thị xÃ"
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài "Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và
phát triển thị xà Bỉm Sơn" là một đề tài mới, cho đến nay ch-a có một công
trình chuyên khảo nào đề cập đến. Tuy nhiên, để thực hiện đề tài này, chúng
tôi đà kế thừa một số kết quả nghiên cứu d-ới những góc độ khác nhau của
các công trình sau:

3


2.1. Trong quyển "Lịch sử Đảng bộ thị xà Bỉm Sơn" của NXB Chính trị
Quốc gia đà giới thiệu, tuy còn sơ l-ợc, về chủ tr-ơng thành lập và quá trình
ra đời của nhà máy và lịch sử phát triển của Đảng bộ thị xà song ch-a đề cập
đến mối quan hệ mật thiết giữa nhà máy và thị xÃ, ch-a làm nổi bật vai trò của
nhà máy đối với thị xÃ.
2.2. Quyển "Xi măng Bỉm Sơn 10 năm xây dựng và tr-ởng thành" (1980 1990) do Ban Giám đốc th-ờng vụ Đảng uỷ, th-ờng vụ công đoàn nhà máy
xuất bản và l-u hành nội bộ, ra đời đà phản ánh về quá trình xây dựng, phát
triển sản xuất của tập thể cán bộ công nhân viên chức nhà máy trong 10 năm
với những thành tựu đáng ghi nhận, tuy ch-a thật là đầy đủ.
2.3. Quyển "Xi măng Bỉm Sơn 20 năm xây dựng và tr-ởng thành" (1980 2000) của NXB Văn hoá Dân tộc, năm 2000, đà giới thiệu những thành tựu
mà nhà máy đạt đ-ợc trong 20 năm qua.
2.4. Trong quyển "Xi măng tuổi trăng rằm" NXB Thanh Hoá cũng chỉ viết
lên đ-ợc những câu chuyện, những tâm sự về nhà máy xi măng, về quá trình
xây dựng của nó.
2.5. Các bản báo cáo sơ kết, tổng kết của Đảng uỷ, Ban Giám đốc nhà máy

qua các năm từ 1999 - 2004, những tập tranh ảnh, bìa hoạ báo ... đà giới thiệu
về truyền thống của nhà máy, những thành tựu trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh của nhà máy ...
Nhìn chung, các công trình trên đây chủ yếu đề cập đến nhà máy xi măng
Bỉm Sơn: về chủ tr-ơng, quá trình thành lập, về các giai đoạn phát triển, những
thành tựu to lớn mà nhà máy đà đạt đ-ợc. Tuy nhiên, để làm rõ những vấn đề
cơ bản về vai trò, tác động của nhà máy đối với sự hình thành và phát triển của
thị xÃ, những đóng góp to lớn của nhà máy đối với thị xà trên các ph-ơng diện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xà hội, quốc phòng, an ninh thì ch-a một đề tài
nào nghiên cứu đầy đủ, nếu có cũng chỉ phản ánh đ-ợc một vài nét khái quát,
ở mặt này hoặc mặt khác mà thôi.

4


Tuy nhiên những tài liệu trên đây sẽ là cơ sở, là nguồn t- liệu quan trọng
để chúng tôi tiến hành khoá luận của mình.
Mạnh dạn chọn đề tài "Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự
hình thành và phát triển thị xà Bỉm Sơn", chúng tôi muốn trình bày một
cách toàn diện và có hệ thống về quá trình hình thành, phát triển của nhà máy
xi măng Bỉm Sơn, những thành tựu đà đạt đ-ợc trong hơn hai m-ơi năm xây
dựng và tr-ởng thành. Qua đó góp phần làm rõ vai trò của nó đối với sự hình
thành và phát triển của thị xà Bỉm Sơn trên các mặt chính trị, kinh tế văn hoá,
xà hội...Từ đó rút ra những nhận xét, những bài học kinh nghiệm quý báu có ý
nghĩa thực tiễn trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất n-ớc hôm
nay.
3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
3.1. Đối t-ợng nghiên cứu
Với đề tài "Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành
và phát triển thị xà Bỉm Sơn", chúng tôi đê cập một cách toàn diện và có hệ

thống về quá trình hình thành và phát triển của nhà máy xi măng Bỉm Sơn,
cũng nh- các b-ớc phát triển đi lên của thị xÃ. Qua đó làm rõ vai trò to lớn
của nhà máy đối với thị xÃ. Để từ đó rút ra những tác động tích cực, cũng nhhạn chế của nhà máy đối với sự ra đời và phát triển của thị xà trên các mặt
kinh tế, xà hội, chính trị, văn hoá. Thực tiễn đó đà chứng tỏ sự đúng đắn trong
đ-ờng lối đổi mới của Đảng và công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết về sự phát triển đô thị,
vấn đề môi tr-ờng, về việc xây dựng nếp sống công nghiệp, văn minh công
nghiệp...nhằm đ-a đất n-ớc tiến kịp với các n-ớc trong khu vực và trên thế
giới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Để thực hiện đ-ợc mục đích của đề tài khoá luận của mình, tr-ớc hết chúng
tôi đề cập đến điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý cũng nh- truyền thống lịch sử

5


của vùng đất Bỉm Sơn. Những khó khăn và thuận lợi đặt ra khi thực hiện chủ
tr-ơng của Đảng và Nhà n-ớc là xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn. Quá
trình hình thành và phát triển của nhà máy và thị xà Bỉm Sơn trong mối quan
hệ khăng khít, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vai trò to lớn của nhà
máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và phát triển của thị xÃ, những
đóng góp của nhà máy trong việc đổi mới diện mạo cuả thị xà theo h-ớng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Qua đó, khẳng định một lần nữa sự đúng đắn,
sáng tạo của Đảng, Nhà n-ớc với chủ tr-ơng xây dựng và phát triển nhà máy.
Về thời gian: Đề tài giới hạn từ khi nhà máy thành lập 1980 - 2004,
t-ơng ứng với quá trình hình thành và phát triển của thị xÃ.
Về không gian: Đề tài đ-ợc xác định trong một không gian là thị xà Bỉm
Sơn, vì nhà máy đ-ợc xây dựng trên vùng đất Bỉm Sơn. Mặc dù vậy việc xác
định không gian và thời gian của đề tài chỉ mang ý nghĩa t-ơng đối, bởi lẽ thị
xà Bỉm Sơn chỉ là một thị xà trực thuộc tỉnh Thanh Hoá, mà đóng góp của nhà

máy xi măng Bỉm Sơn không chỉ riêng đối với khu vực Bỉm Sơn mà trên bình
diện cả n-ớc, vì vậy trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có đề cập đến các
mốc thời gian và không gian có liên quan đến đề tài.
4. Nguồn t- liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu:
4.1. Nguồn t- liệu:
Bên cạnh việc tham khảo các t- liệu nghiên cứu về nhà máy xi măng Bỉm
Sơn trên bình diện cả n-ớc và trong toàn tỉnh, chúng tôi chủ yếu tập trung khai
thác nguồn t- liệu lịch sử địa ph-ơng phục vụ trực tiếp cho đề tài, các báo cáo,
tổng kết, sơ kết hàng năm, các số liệu thống kê của nhà máy xi măng Bỉm Sơn
cũng nh- của thị xÃ, và các công trình nghiên cứu của một số tác giả khác.
Ngoài ra chúng tôi cũng đà trực tiếp về hiện tr-ờng khảo sát thực tế tại nhà
máy xi măng Bỉm Sơn, gặp gỡ các giám đốc cũ và mới, các công nhân, Uỷ
ban nhân nhân thị xà Bỉm Sơn, những thế hệ lÃnh đạo ... nhằm thu thập thêm
t- liệu phục vụ cho đề tài.

6


4.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu:
Ph-ơng pháp nghiên cứu mà chúng tôi sử dụng cho khoá luận này là
ph-ơng pháp lịch sử, ph-ơng pháp lôgic, ngoài ra còn sử dụng ph-ơng pháp
chuyên ngành nh-: Thống kê, đối chiếu, kết hợp với ph-ơng pháp điền dà s-u
tầm lịch sử địa ph-ơng.
5. Bố cục của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của khoá luận đ-ợc trình bày trong 3 ch-ơng sau:
Ch-ơng 1:

Khái quát điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử- văn hoá,


vùng đất con ng-ời Bỉm Sơn.
Ch-ơng 2:

Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy xi măng Bỉm

Sơn.
Ch-ơng 3: Vai trò của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đối với sự hình thành và
phát triển thị xà Bỉm Sơn.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn thị
Bình Minh đà nhiệt tình h-ớng dẫn tôi, cùng các thầy cô giáo trong khoa Lịch
sử, các phòng ban của Công ty xi măng Bỉm Sơn, Uỷ ban nhân dân thị xà Bỉm
Sơn đà giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này. Lần đầu tiên làm
quen với công tác nghiên cứu khoa học, mặc dù đà có nhiều cố gắng, song
chắc chắn khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận đ-ợc các ý
kiến đóng góp của các thày cô giáo và các bạn sinh viên.

7


B. Nội Dung
Ch-ơng 1. Khái quát về Điều kiện tự nhiên, truyền thống
lịch sử - văn hoá, con ng-ời Bỉm Sơn
1.1. Điều kiện tự nhiên.
1.1.1. Vị trí địa lý:
Bỉm Sơn - vùng đất nằm trên con đ-ờng thiên lý từ Bắc vào Nam, là điểm
địa đầu của tỉnh Thanh, nơi bắt đầu bằng những dÃy núi trùng điệp với hai
điểm mút đánh dấu, điểm đầu là Dốc Xây và điểm cuối là cầu Tống Giang thơ
mộng. Nằm ở phía nam dÃy núi Tam Điệp, thị trấn Bỉm Sơn (nay là thị xà Bỉm
Sơn) là một phần đất thuộc vùng cực bắc huyện Hà Trung tr-ớc kia. Đây là địa
bàn không chØ cã mét vÞ trÝ träng u trong lÞch sư đánh giặc của dân tộc ta,

mà còn giữ một vai trò quan trọng trong chiến l-ợc phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất n-ớc.
Bỉm Sơn nằm cách thành phố Thanh Hoá 34km về phía Bắc, cách thủ đô
Hà Nội 120km về phía Nam, là một vùng đồi núi trung du có nhiều dÃy núi đá
vôi trùng điệp, xen vào đó là những đồi núi thấp và thung lũng. Phía đông thị
xà Bỉm Sơn giáp huyện Nga Sơn, phía tây giáp huyện Hà Trung, phía Bắc giáp
thị xà Tam Điệp của tỉnh Ninh Bình
Thị xà Bỉm Sơn thuộc khu vực toạ độ địa lý 20 02' đến 2009' vĩ độ Bắc,
tổng diện tích tự nhiên là 6.681 ha, trong đó đất đô thị chiếm 5.099 ha, đất
ngoài đô thị là 1.582 ha, đất thổ c- chiếm 213, 44 ha.[1;11]. Đây là vùng đất có
địa hình thấp dần từ tây sang đông rất phức tạp, vừa mang đặc điểm của vùng
bán sơn địa, vừa mang đặc điểm của vùng chiêm trũng.
Đặc điểm địa chất của vùng Bỉm Sơn thuộc đới cấu tạo Sơn La phụ đới
Ninh Bình, đất đá của vùng đ-ợc tạo thành từ nguyên đại trung sinh kỷ Iơriat
cách ngày nay khoảng 300 triệu năm, trong lòng đất có nhiều hang động
Cácxtơ ngầm. Tuy diện tích không rộng, nh-ng Bỉm Sơn vừa có vùng đồng

8


bằng, vùng núi đá, vùng đồi và sông suối. ở phía nam có đồi Bỉm, phía tây có
đồi Trạch Lâm, đặc biệt phía Bắc có dÃy núi Tam Điệp sừng sững án ngữ quốc
lộ 1- con đ-ờng thiên lý x-a và nay là tuyến giao thông chiến l-ợc của cả
n-ớc.
Với vị trí địa lý trên, Bỉm Sơn vừa mang sắc thái văn hoá xứ Thanh vừa tiếp
nhận ảnh h-ởng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ tạo nên sự giao thoa văn hoá giữa
miền Bắc và miền Trung đặc sắc phong phú.
Cũng bởi vị thế chiến l-ợc lợi hại ấy, ngay từ những ngày đầu xây dựng và
phát triển quốc gia phong kiến dân tộc, trong các cuộc khág chiến chống giặc
ngoại xâm, Bỉm Sơn nhiều lần đ-ợc chọn làm căn cứ, nơi diễn ra những trận

đánh quan trọng để tiến công địch, cũng nh- là nơi bảo toàn lực l-ợng để
tránh thế mạnh ban đầu của giặc, chuẩn bị cho các cuộc phản công đánh bại
quân thù.
Năm 970 - 980, Lê Hoàn trấn áp xong các thế lực cát cứ đà lên lên ngôi
vua, tiếp tục sự nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, xây dựng quốc gia Đại Cồ Việt
phát triển.
Thế kỷ XV, nghĩa quân Lam Sơn đà chọn vùng đất Bỉm Sơn là nơi tập kích
lực l-ợng, là nơi trung chuyển l-ơng thực trong thời gian Bắc tiến đánh tan
ách thống trị của nhà Minh, giải phóng dân tộc.
Giáp tết 1789, Biện Sơn (Bỉm Sơn) - Tam Điệp là nơi hội quân của Nguyễn
Huệ và Ngô Thì Nhậm chuẩn bị cho cuộc hành quân thần tốc kéo quân ra Bắc
đập tan 29 vạn quân xâm l-ợc nhà Thanh.
Những địa danh nh- làng Gạo, Gò Ông Dụ, Đập Chắn, thôn Thao Tr-ờng
nơi luyện tập của t-ớng Phan Văn Lân...đà đi vào lịch sử nh- những minh
chứng cho vị trí chiến l-ợc quan trọng của vùng đất Bỉm Sơn trong sự nghiệp
dựng n-ớc và giữ n-ớc của dân tộc.

9


1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
Bên cạnh vị thế chiến l-ợc quan trọng đó, Bỉm Sơn còn là một vùng đất có
tiềm năng to lớn, nhiều tài nguyên khoáng sản, phục vụ cho công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế của đất n-ớc, đặc biệt trong ngành công nghiệp xây
dựng. ở Bỉm Sơn, diện tích mỏ đá là 1.186,8 ha chiếm khoảng 18% tổng diện
tích tự nhiên, trữ l-ợng đá vôi dự báo có vài tỷ m3[1;17]. Hiện nay l-ợng đá
vôi thăm dò là 600 triệu m3, chất l-ợng đá vôi ở đây có hàm l-ợng oxit
canxi(CaO) và oxit magiê(MgO) rất thích hợp cho sản xuất xi măng và là
nguyên liệu tôt để sản xuất các loại hoá chất nh-: Đất đèn, bột nhẹ làm chất
lọc đ-ờng và làm đá ốp lát, làm giấy làm thuỷ tinh...

Cùng với đá vôi, ở Bỉm Sơn đá phiến sét cũng có trữ l-ợng khá lớn.Trữ
l-ợng thăm dò hiện nay là hơn 300 triệu tấn nh-ng dự báo còn lên đến hàng tỷ
tấn.[1;18] Đá phiến sét đầu tiên đ-ợc phát hiện ở làng Cổ Đam, chất l-ợng
phù hợp để sản xuất xi măng thay thế hẳn cho loại đất sét dẻo. Đất phiến sét là
nguyên liệu chính xếp sau đá vôi để sản xuất xi măng Poóclăng. Đặc biệt theo
tài liệu thử sơ bộ đá phiến sét Bỉm Sơn có thể sản xuất "Keramzit" một loại cốt
liệu của bê tông nhẹ, theo đánh giá của các nhà địa chất trong các vùng đà xây
dựng nhà máy xi măng nh-: Hoàng Thạch, Bút Sơn, Nghi Sơn, Hà Tiên...
nh-ng nguyên liệu đá phiến sét ở Bỉm Sơn là dồi dào hơn cả.
Ngoài hai nguyên liệu trên, Bỉm Sơn còn có đất sét dẻo để làm gạch ngói ở
Đông thôn, Đoài thôn, Trạch Lâm với trữ l-ợng đủ để cho các nhà máy gạch
ngói có công suất 100 triệu viên/năm.
Với tiềm năng khoáng sản nh- trên, Bỉm Sơn hoàn toàn có khả năng phát
triển mạnh nền công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng từ thông th-ờng đến
cao cấp và ngành công nghiệp hoá chất.
Không chỉ nhiều tiềm năng khoáng sản để phát triển công nghiệp, mà Bỉm
Sơn còn có khả năng phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất nông nghiệp ở

10


đây có tới 2.105 ha. Trong đó hơn một nửa là đất rừng, đất v-ờn đồi, đất cồn
bÃi có thể trồng các cây l-ơng thực, thực phẩm, cây công nghiệp.
ở Bỉm Sơn, nguồn n-ớc ngầm trong lòng đất đà đ-ợc đoàn địa chất 47
thăm dò và xác định thuộc dạng n-ớc ngầm cácxtơ, trữ l-ợng khá phong phú
để phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Những dòng sông đ-ợc sử dụng phục vụ
đời sống nhân dân trong sinh hoạt và trong sản xuất nh- sông Hoạt chảy qua
địa phận xà Hà Lan một đoạn dài 720m, sông Tống nằm ở phía nam hai làng
Bỉm và Trạch Lâm (XÃ Quang Trung).
Đặc điểm vị trí địa lý, địa hình đà làm cho vùng Bỉm Sơn chịu ảnh h-ởng

của ba vùng khí hậu xen kẽ là Tây Bắc - Đông Bắc Bắc Bộ và cận Bắc Trung
Bộ. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,60C, l-ợng m-a trung bình hàng năm
đạt 1.514 mm/năm, năm cao nhất là 2.106 mm, năm thấp nhất đạt 776mm. Độ
ẩm không khí trung bình 80% chế độ gió biển chuyển theo mùa. Hàng năm có
gió Đông Nam thổi vào mùa hè, gió Đông Bắc thổi vào mùa đông, tạo nên khí
hậu nắng lắm m-a nhiều, rét sớm. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
đa dạng các loại cây trong phát triển nông nghiệp. Gió phơn Tây Nam khô
nóng trong các tháng 5, 6 lại tạo thuận lợi cho phơi sấy bảo quản sản phẩm.
Là vùng đất địa đầu của tỉnh Thanh và tuyến giao thông chiến l-ợc của đất
n-ớc, thị xà Bỉm Sơn có thế mạnh về giao thông vận tải, rất thuận lợi để phát
triển kinh tế, sự trao đổi, giao l-u giữa các vùng trong cả n-ớc.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, vào năm 1905, tuyến đ-ờng xe lửa Hà Nội - Thanh
Hoá đà chạy qua Bỉm Sơn. Ga Bỉm Sơn cũng đ-ợc xây dựng để làm nơi trung
chuyển hàng hoá. Từ năm 1911, chính quyền thuộc địa đà làm đ-ờng ôtô chạy
thông đến cửa Bạng. Sách "Đại Nam nhất thống chí" đà ghi nhận có cầu Tống
Giang và cầu Cổ Đam ở địa phận thuộc thị xà Bỉm Sơn bây giờ [1;12].
Ngày nay, Bỉm Sơn có trục đ-ờng sắt Bắc - Nam chạy qua dài 9,2km,
đ-ờng quốc lộ 1A chạy dài 9,8km, nối thị xà với các trung tâm kinh tế, chính
trị của tỉnh và của cả n-ớc. Bỉm Sơn có đ-ờng giao thông tỉnh lộ đoạn Đoài

11


Thôn đi Đa Nam 4,9km, và một phần đ-ờng 7 nối với các địa ph-ơng khác
trong tỉnh, trở thành đầu mối giao thông của vùng kinh tế động lực phía Bắc
của tỉnh Thanh Hoá. Hệ thống giao thông nội thị cịng ngµy cµng hoµn thiƯn
víi tỉng chiỊu dµi 159,7km trong đó có 28,87km đ-ờng nhựa và bê tông nhựa;
4,88km đ-ờng rải đá; 38,3km đ-ờng cấp phối; 87,8km đ-ờng đất và 3,8km
đ-ờng sắt chuyên dùng của nhà máy xi măng[1;21].
Là vùng trung tâm công nghiệp, có nền kinh tế đa dạng nằm kề các vùng

sản xuất nông - lâm nghiệp của vùng phía bắc tỉnh Thanh Hoá và vùng phía
nam tỉnh Ninh Bình, có đ-ờng giao thông thuận tiện, cùng với tài nguyên
thiên nhiên, khoáng sản, thị xà Bỉm Sơn có tiềm năng lớn không chỉ phát triển
công nghiệp, vật liệu xây dựng mà cả phát triển th-ơng nghiệp, dịch vụ.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và sự chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh
tế qua các kỳ Đại hội Đảng bộ thị xà khoá IV (1989), khoá V(1991), khoá
VI(1996) thì những tiềm năng ấy của Bỉm Sơn, dù là ở dạng tiềm ẩn, đà đ-ợc
khai thác và phát triển mạnh mẽ.
Đó cũng là những điều kiện thuận lợi trong quá trình phát triển đ-a thị xÃ
đi lên theo h-ớng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.2. Truyền thống lịch sử - văn hoá, con ng-ời Bỉm Sơn
1.2.1 Truyền thống lịch sử:
Bỉm Sơn là tên gọi của một vùng đất đà trải qua một quá trình phát triển lâu
dài, gắn liền với lịch sử dựng n-ớc và giữ n-ớc của dân tộc.Đầu thời kỳ Bắc
thuộc, Bỉm Sơn thuộc huyện D- Phát, quận Cửu Chân. Đến thời L-ơng Vũ Đế,
Bỉm Sơn thuộc huyện Nhật Nam, quận Cửu Chân rồi huyện Nhật nam, Châu
ái. Thời Lý, Trần, Bỉm Sơn nằm trong lộ Thanh Hoá. Năm 1397, phủ Thanh
Hoá đổi thành trấn Thanh Đô, Bỉm Sơn lúc này thuộc huyện Tống Giang,
Châu ái, trấn Thanh Đô. Đến thời Lê sơ, Bỉm Sơn thuộc về huyện Tống
Giang, phủ Hà Trung. Thời Lê Trung H-ng, BØm S¬n thc hun Tèng S¬n,

12


phủ Hà Trung, Thanh Hoa nội trấn. Thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ
12(1831), đổi trấn Thanh Hoa làm tỉnh Thanh Hoa. Năm Thiệu Trị thứ ba
(1843) đổi thành tỉnh Thanh Hoá.
Địa phận Bỉm Sơn vào thời Nguyễn có xà Trạch Lâm, thôn Cổ Đam, thôn
Cẩm La, trang Biển Sơn, trang Phú D-ơng, trang Đồng Căng, thôn Điền Lô,
trang Đa Nam, thôn Đoài thuộc xà Phú Điền, thôn Đông, trang Mỹ Quan

(tổng Đông Bạn). trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các làng xà ở Bỉm
Sơn không có gì thay đổi. Sau Cách mạng Tháng Tám, có sự thay đổi về hành
chính, Bỉm Sơn thuộc về hai xà Hoạt Giang và Tống Giang, huyện Hà Trung.
Đến năm 1954, Bỉm Sơn lại thuộc về hai xà Hà D-ơng và Hà Lan, huyện Hà
Trung. Ngày 8/3/1967, theo Quyết định số 89/NV của Bộ tr-ởng Bộ Nội vụ,
Thị trấn nông tr-ờng Hà Trung đ-ợc thành lập thuộc huyện Hà Trung. Tháng
6/1977, theo Quyết định số 140/BT của Bộ tr-ởng Phủ Thủ t-ớng, thị trấn Bỉm
Sơn ra đời trực thuộc tỉnh Thanh Hoá.Trải qua một quá trình phát triển, ngày
18/12/1981, theo Quyết định số 157/HĐBT, thị xà Bỉm Sơn đ-ợc thành lập
gồm thị trấn Bỉm Sơn, thị trấn Nông tr-ờng Hà Trung và các xà Hà Lan,
Quang Trung của huyện Trung Sơn. Tháng 9/1983, ba ph-ờng Ba Đình, Lam
Sơn, Ngọc Trạo đ-ợc thành lập. Tháng 2/ 1991, thị trấn Nông tr-ờng Hà
Trung đổi tên thành Ph-ờng Bắc Sơn. Hiện nay, thị xà gồm có bốn ph-ờng: Ba
Đình, Lam Sơn, Ngọc Trạo, Bắc Sơn và hai xà Hà Lan, Quang Trung.
Tên gọi Bỉm S¬n cã lÏ xt hiƯn ë nưa sau thÕ kû XIX. Trong sách Tổng ,
trấn xà danh bị lÃm (biên soạn đầu thế kỷ XX) không thấy địa danh Bỉm Sơn
mà chỉ thấy địa danh trang Biển Sơn. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có
ghi " xà Bỉm Sơn huyện Tống Sơn". Theo nhân dân làng Bỉm (xà Quang
Trung) cũng nói làng Bỉm ngày x-a đ-ợc gọi là trang Biển Sơn. Có lẽ Bỉm Sơn
chính là trang Biển Sơn tr-ớc đây. [1; 25]

13


Trong suốt hơn một nghìn năm đen tối d-ới thời Bắc thuộc, cùng với nhân
dân cả n-ớc, nhân dân Bỉm Sơn đà nhiều lần đứng lên chống lại ách đô hộ của
ngoại bang.
Năm 40, Bỉm Sơn đà hoà vào phong trào ủng hộ cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Tr-ng nổi lên ở vùng Lữu Châu (Thanh Hoá)
Năm 248, nhân dân các làng Bỉm Sơn lại tham gia tích cực vào cuộc khởi

nghĩa đánh đuổi giặc Ngô do nữ anh hùng Triệu Thị Trinh khởi x-ớng và lÃnh
đạo...
Bằng sự góp sức không mệt mỏi, các thế hệ nối tiếp nhau ở đây đà góp
phần vào việc giành lại quyền độc lập tự chủ, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc.
Truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân Bỉm Sơn tiếp tục đ-ợc kế thừa
và phát triển trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1284 -1285), nhân
dân Bỉm Sơn đà góp phần cùng nhân dân trong lộ Thanh Hoá bảo vệ an toàn
cho cơ quan đầu nÃo kháng chiến.
Vào thế kỷ XV, nhân dân Bỉm Sơn đà giúp cho khởi nghĩa của Lê Lợi tiêu
diệt quân Minh, mở đ-ờng Bắc tiến giải phóng cả n-ớc, dựng nên v-ơng triều
sáng giá nhất trong các triều đại phong kiến dân tộc- Nhà Lê.
Những địa danh đến nay vẫn còn nh- một minh chứng của lịch sử nh-:
Đình làng Gạo, đèo Ba Dội, Đồi Ông... là những chứng tích anh hùng của một
thời toàn dân Bỉm Sơn theo vua Quang Trung đi đánh giặc giữ n-ớc ở thế kỷ
XVIII.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm l-ợc n-ớc ta. Hèn nhát, bất lực
triều đình Nguyễn từng b-ớc nh-ợng bộ rồi can tâm thừa nhận ách thống trị
của đế quốc Pháp. Trong khi ngọn cờ dân tộc bị nhà n-ớc buông lơi thì lòng
yêu n-ớc, ý chí quật c-ờng đà thúc đẩy nhân dân ta từ Bắc tới Nam, trong đó
có nhân dân Bỉm Sơn đứng lên chống xâm l-ợc. Trong phong trào Cần V-ơng,
nhân dân Bỉm Sơn đà góp sức ng-ời sức của vào sự nghiệp chính nghĩa,đặc

14


biệt là đà xây dựng chiến luỹ Ba Đình (Nga Sơn) một trong những trung tâm
kháng Pháp nổi tiếng của cả n-ớc, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
Phong trào Cần V-ơng thất bại, thực dân Pháp ngày càng xiết chặt ách đô
hộ lên đất n-ớc ta. Nhân dân cả n-ớc, nhân dân Bỉm Sơn lầm than trong đói

nghèo, cơ cực, bị t-ớc đoạt quyền sống, quyền tự do, quyền m-u cầu hạnh
phúc. Sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai đà làm cho các
làng xà Bỉm Sơn ngày càng thêm xơ xác tiêu điều. Đúng nh- lÃnh tụ Nguyễn
ái Quốc đà nói " Sự áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đà làm cho
đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống không có cách mạng thì chết".
Với lòng yêu quê h-ơng đất n-ớc cùng ý chí quật c-ờng, nhân dân Bỉm Sơn
đà kế tiếp nhau đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền vào
mùa thu Tháng Tám 1945. Tiếp đó, d-ới sự lÃnh đạo của Đảng, nhân dân Bỉm
Sơn đà đứng lên tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng trong ba m-ơi năm
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm l-ợc, giải phóng miền Nam thống
nhất đất n-ớc.Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu n-ớc, cùng với
công cuộc xây dựng quê h-ơng, nhân dân Bỉm Sơn không những làm tròn
nhiệm vụ của hậu ph-ơng, mà còn góp phần cùng nhân dân miền Bắc đánh
thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Một trong những chiến
công vang dội của quân và dân Bỉm Sơn trong cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ là đà bắn rơi chiếc máy bay F4 của địch và bắt
sống tên giặc lái ngày 18/9/1967.[1;58]
Truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân Bỉm Sơn không chỉ thể hiện
trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà còn phát huy trong quá
trình lao động sản suất. Tr-ớc khi đất n-ớc thống nhất, Bỉm Sơn chỉ là một
làng quê nghèo, rừng núi hoang sơ, dân c- th-a thớt, ngành kinh tế chủ yếu là
trồng lúa n-ớc. Sau ngày thống nhất đất n-ớc, kinh tế Bỉm Sơn đà có sự
chuyển biến mang tính cách mạng, bởi sự ra đời của nhiều ngành kinh tế,
trong đó công nghiệp đóng vai trò nổi trội. Công cuộc đổi mới do Đảng khởi

15


x-ớng và lÃnh đạo làm xuất hiện nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều loại
hình kinh tế năng động ở Bỉm Sơn. Đặc biệt, sự ra đời của nhà máy xi măng

Bỉm Sơn đà đ-a Bỉm Sơn thành trung tâm công nghiệp, tận dụng những điều
kiện tiềm năng thuận lợi để xây dựng phát triển nhà máy, tạo công ăn việc làm
cho nhiều công nhân, làm thay đổi diện mạo của một vùng kinh tế mà tr-ớc
kia chủ yếu là nông nghiệp.
Là vùng đất giàu tiềm năng, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử
dân tộc, tích hợp và bảo tồn đ-ợc những giá trị văn hoá cao đẹp, Đảng bộ và
nhân dân Bỉm Sơn có đủ tinh thần và khả năng góp phần thực hiện thành công
đ-ờng lối đổi mới do Đảng khởi x-ớng và lÃnh đạo, để phát triển Bỉm Sơn
thành thị xà vững mạnh về mọi mặt, đầu tàu trong vùng kinh tế động lực phía
Bắc tỉnh Thanh Hoá.
Nh- vậy, đi lên từ khó khăn nghèo khổ, song các thế hệ của nhân dân Bỉm
Sơn, d-ới sự lÃnh đạo của Đảng, với tinh thần yêu n-ớc và cách mạng, đÃ
không ngừng v-ơn lên phát huy thế mạnh, khắc phục những hạn chế, để ngày
một đ-a thị xà phát triển, đi lên cùng đất n-ớc. Từ 1977, dân số Bỉm Sơn là
22.800 ng-ời, tính đến tháng 4 năm 1999 là 53.936 ng-ời và hiện nay dân số
là 55.940 ng-ời. Trong đó nam chiếm 50,5% và nữ chiếm 49,5%. Số ng-ời có
trình độ cao đẳng là trên 14%, trung học chuyên nghiệp là 22,5% so với tổng
số lao động. Thành phần dân c- gồm 12 dân tộc, trong đó đa phần là ng-ời
kinh
Nằm trên mảnh đất có nhiều tiềm năng, nhiều truyền thống quý báu trong
sự nghiệp dựng n-ớc và giữ n-ớc, con ng-ời Bỉm Sơn có phẩm chất chịu khó,
năng động tiếp thu nhanh những kỹ thuật tiên tiến áp dụng trong sản xuất.
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp xây dựng nhcơ khí chế tạo, dệt may và phát triển khu đô thị đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất n-ớc.

16


1.2.2. Bỉm Sơn - với truyền thống văn hoá
Nằm trong vùng có nền văn hoá lâu đời đà khá phát triển từ thời Hoa Lộc

(hậu kỳ đá mới),[1;34] lại là vùng đất địa đầu của xứ Thanh, c- dân Bỉm Sơn
đà sớm hình thành một nền văn hoá đa dạng vừa có tính dung nạp vừa có sức
lan toả. Là vùng đất của huyền thoại, Bỉm Sơn chứa nhiều truyền thuyết dân
gian nổi tiếng. Đó là truyền thuyết về công chúa Liễu Hạnh đà 3 lần giáng
trần, hiển thánh tại Sòng Sơn.[1;35] Truyền thuyết về chàng Từ Thức, ng-ời
làng Cẩm La, chán quan tr-ờng đi ngao du sơn thuỷ, sau đó nỗi nhớ quê
h-ơng đà từ già cõi tiên trở về cõi trần. Đời sống nội tâm phong phú, giàu sức
t-ởng t-ợng của nhân dân trong vùng đà làm cho nhiều tên làng, tên núi, tên
sông ở Bỉm Sơn trở thành cốt lõi lịch sử văn hoá của những câu chuyện dân
gian lý thú nh- chuyện ông tổ làng Cẩm La, chuyện Khe Tiễn...Đằng sau
những tình tiết ly kỳ thần bí của các truyền thuyết dân gian ấy là lòng yêu quê
h-ơng đất n-ớc tha thiết, là khát vọng chiến thắng đói nghèo, ghét bất công,
bạo ng-ợc và ẩn chứa tính t-ơng thân, t-ơng ái của ng-ời dân Bỉm Sơn.
Cũng nh- các làng quê khác, lễ hội là một trong những hoạt động văn hoá
tinh thần chủ yếu của ng-ời dân Bỉm Sơn nh- lễ hội đền Từ Thức ở làng Cẩm
La (Quang Trung), lễ hội ở đền Dốc Xây, đền Chín Giếng... Nh-ng lễ hội
đông vui nhất, đ-ợc cả n-ớc biết đến nhất vẫn là lễ hội đền Sòng Sơn (từ ngày
10 đến 26/2 âm lịch) với những nghi lễ nh- r-ớc kiệu long trọng. Lễ hội đền
Sòng Sơn nơi gắn kết giữa hiện thực và huyền thoại đà đi vào ca dao :
"Còn trời, còn n-ớc, còn non
Mùng m-ời r-ớc Mẫu ta còn đi xem
Ai về nhắn chị cùng em
Rủ nhau dắt ríu đi lên đền Sòng"
Hay:

"Nhất vui là hội Phủ Giày
Vui là vui vậy, không tày Sòng S¬n"[1;37]

17



Sự phong phú trong hoạt động văn hoá xen lẫn nhiều yếu tố tín ng-ỡng, tôn
giáo nh-: Mẫu, thần, phật,...đà thể hiện sinh động tính đa dạng trong tâm linh
của c- dân Bỉm Sơn. Bản sắc cùng với những di sản văn hoá vật chất và tinh
thần cũng chính là nguồn lực để nhân dân Bỉm Sơn v-ợt qua những thử thách
của lịch sử, những khắc nghiệt của thiên tai, xây dựng, phát triển quê h-ơng.

18


Ch-ơng 2. Quá trình hình thành và phát triển của nhà
máy xi măng Bỉm Sơn
2.1. Chủ tr-ơng xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn của Đảng và nhà
n-ớc.
Cuối thập kû 60, khi cuéc chiÕn tranh chèng Mü cøu n-íc của dân tộc
đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất thì Đảng và Nhà nứơc ta đà hoạch định một
chiến l-ợc xây dựng, để sau khi thống nhất đất n-ớc dân tộc ta bắt tay ngay
vào công cuộc xây dựng kiến thiết đất n-ớc. Trên cơ sở đó, Nhà n-ớc đÃ
hoạch định chiến l-ợc xây dựng một số công trình lớn nh- nhà máy thuỷ điện
Hoà Bình, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, cầu Thăng Long... Để đáp ứng một
phần nhu cầu về xi măng cho công cuộc xây dựng các công trình, Đảng và
Nhà n-ớc chủ tr-ơng xây dựng một nhà máy xi măng có công suất lớn tại khu
vực Bỉm Sơn.
Mục đích của chủ tr-ơng này là:
Thứ nhất: Sau khi xây dựng xong nhà máy đi vào hoạt động sản xuất sẽ
đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế, quốc phòng...cho đất n-ớc; mở ra một khu
công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng lớn nhất ở khu vực Bắc miền Trung,
cung cấp vật liệu xi măng cho cả n-ớc, phục vụ các công trình trọng điểm
quốc gia nh-: nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, cầu Thăng Long, nhiệt điện Phả
Lại. Song tr-ớc mắt nó phục vụ cho việc xây dựng lại hệ thống giao thông bị

huỷ hoại do chiến tranh, giải quyết nạn khan hiếm xi măng của đất n-ớc,
trong lúc chỉ có nguồn sản xuất ít ỏi của xi măng Hải Phòng và sau này có
thêm xi măng Hà Tiên.
Thứ hai: Giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn ng-ời, góp phần xây
dựng đội ngũ công nhân hiện đại, có trình độ kỹ thuật cao, nắm bắt đ-ợc các
thành tựu kỹ thuật. Nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật sản xuất xi măng, làm chủ
tốt các công đoạn sản xuất của một nhà máy hiện đại, tiếp thu công nghệ và
kỹ thuật do Liên Xô gióp ®ì

19


Thứ ba: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn là khu công nghiệp lớn tạo nên một
trung tâm kinh tế phía Bắc tỉnh Thanh Hoá, đồng thời thu hút nguồn nhân lực
dồi dào của tỉnh và các tỉnh phía Bắc miền Trung, góp phần nhanh chóng đô
thị hoá vùng đồi núi Bỉm Sơn.
Thứ t-: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn còn là công trình mang ý nghĩa lịch sử
lớn nhất trong chiến tranh và trong xây dựng, thể hiện tình đoàn kết, hữu nghị
giữa nhân dân Liên Xô và nhân dân Việt Nam
Với những ý nghĩa to lớn ấy, Đảng và Nhà n-ớc ta đà nhanh chóng chỉ đạo
các cấp, các ngành tập trung bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà
máy xi măng Bỉm Sơn [14;17]
2.2. B-ớc đầu xây dựng nhà máy (1968 - 1977)
2.2.1. Tiến hành công tác khảo sát thăm dò địa chất (1968 - 1974)
Ngày 15/10/1968, ngay khi khu IV đang là trọng điểm đánh phá ác liệt của
đế quốc Mỹ, đ-ợc sự đồng ý của Nhà n-ớc, Tổng cục địa chất đà quyết định
giao nhiệm vụ cho Đoàn 306 (tr-ớc kia là Đoàn 46) tiến hành khảo sát thăm
dò địa tầng khu vực Bỉm Sơn - Tam Điệp, nhằm xác định tài nguyên khoáng
sản để chuẩn bị cho việc xây dựng một nhà máy xi măng.
Ngày 10/2/1969, cuộc khảo sát thăm dò đ-ợc bắt đầu triển khai ở mỏ đá

vôi Yên Duyên, mỏ đá phiến sét Cổ Đam, mỏ puzơla Long Khê và địa tầng
nhiều vùng thuộc khu vực Bỉm Sơn trên phạm vi 10km2.
Khi đoàn khảo sát đang thực hiện nhiệm vụ, thì tại khu vực Bỉm Sơn
những nhà máy mới đ-ợc xây dựng. Từ ngày 24/7/1971, xí nghiệp gạch Bỉm
Sơn, kế tiếp đó là các cơ sở gạch Ba Lan, gạch Bungari, gạch plôc, gạch lát
Hung, đ-ợc thành lập. Năm 1972, đồng chí Đỗ M-ời, Chủ nhiệm Uỷ ban Xây
dựng Nhà n-ớc về Bỉm Sơn thị sát, kiểm tra thực địa. Đến khoảng cuối năm
1973, các kết quả nghiên cứu khảo sát của đoàn địa chất 46 cho thấy vùng
Bỉm Sơn có nguồn đá vôi và đá phiến sét chất l-ợng tốt ®đ ®iỊu kiƯn ®Ĩ x©y

20


dựng một nhà máy xi măng với công suất 2 triệu tấn / năm. Ngoài nguyên liệu
chính là đá vôi và đất sét dùng sản xuất vôi và xi măng rất tốt còn có thể sản
xuất một số sản phẩm khác nh- Sôđa, đất đèn, làm phụ gia, làm giấy, làm
thuỷ tinh.
Ngày 16/3/1974, trên cơ sở những cứ liệu khoa học về tài nguyên và vị trí
của Bỉm Sơn, Đảng và Nhà n-ớc quyết định xây dựng trên khu vực này một
nhà máy xi măng hiện đại có công suất lớn nhất n-ớc ta.[1;63]
2.2.2. Chuẩn bị cơ sở vật chất (1974 - 1977)
B-ớc đầu chuẩn bị cơ sở vật chất:
Sau khi khảo sát thăm dò địa chất vùng đất Bỉm Sơn, ph-ơng án xây dựng
nhà máy xi măng Bỉm Sơn đ-ợc hoạch định. Đồng thời, vị trí mặt bằng xây
dựng cùng nguồn nguyên liệu cung cấp cho nhà máy đà đ-ợc chính thức xác
định.
Về vị trí: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đ-ợc đặt cách ga xe lửa Bỉm Sơn
khoảng 3km về phía đông bắc chiếm diện tích chừng 50ha trong điạ hình
thung lũng đá vôi và đất sét là hai nguyên liệu chính với trữ l-ợng rất lớn.
Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đ-ợc thiết kế ở vị trí trung tâm một thị tr-ờng

tiêu thụ gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Thái Bình, Ninh Bình, Nam Hà.
Về mặt vị trí địa lý nhà máy xi măng Bỉm Sơn có những đặc điểm nh-:
-Nhà máy nằm sát vùng nguyên liệu chính:
+ Đá vôi: Thuộc dÃy núi Tam Điệp và các vùng phụ cận trữ l-ợng 270 triệu
tấn, có hàm l-ợng MgO và SiO2 cao thuận lợi để sản xuất vôi, xi
măng.[13 ;43]
+ Đất sét làm xi măng chạy dọc theo trục đ-ờng B từ ngà t- ga đến khu
chuyên gia, trữ l-ợng 64 triệu tấn, đ-ợc khai thác từ mỏ Cổ Đam cách nhà
máy gần 2km.[13;43]
Ngoài hai nguyên liệu chính ở trên trong phối liệu còn sử dụng xỉ pirit làm
nguyên liệu điều chỉnh. Xỉ pirit là chất thải của nhà máy Supe - Phốt phát Lâm

21


Thao tỉnh Phú Thọ. Xỉ pirit đ-ợc vận chuyển về nhà máy bằng đ-ờng sắt.
Thạch cao mua ở Lào và vận chuyển từ Quảng Trị ra Bỉm Sơn.
Về nhiên liệu, nhà máy sử dụng than cám số 3 Hòn Gai, than đ-ợc vận
chuyển bằng đ-ờng thuỷ từ Quảng Ninh về cảng Ninh Phúc tỉnh Ninh Bình
bằng đ-ờng sắt trực tiếp về nhà maý, than Na D-ơng loại 1 đ-ợc khai thác ở
Lạng Sơn đ-ợc vận chuyển bằng đ-ờng sắt về Bỉm Sơn.
Xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Đảng và Nhà n-ớc ta nhận đ-ợc sự
hợp tác giúp đỡ to lớn của nhân dân Liên Xô. Theo ký kết thảo thuận giữa hai
chính phủ Việt Nam và Liên Xô thì Liên Xô sẽ giúp ta toàn bộ công nghệ và
trang thiết bị hiện đại, thiết kế kỹ thuật để xây dựng nhà máy với hai dây
chuyền sản xuất xi măng có công suất 1,2 triệu tấn/năm. Không những thế,
Liên Xô còn giúp đỡ trực tiếp và toàn diện từ khâu thiết kế đến trang thiết bị
kỹ thuật máy móc tiên tiến. Đồng thời Liên Xô đ-a sang Việt Nam một tập
thể chuyên gia có trình độ chuyên môn cao giúp ta lắp đặt, xây dựng, vận
hành và hiệu chỉnh nhà máy.

Nh- vậy, việc xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đà hội tụ trên một vị
thế thuận lợi về 4 ph-ơng diện cơ bản là thị tr-ờng tiêu thụ rộng lớn, nguồn
nguyên vật liệu phong phú, giao thông thuận lợi và nguồn nhân lực sản xuất
dồi dào, sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Liên Xô. Đó là những điều
kiện thuận lợi cơ bản có tính chiến l-ợc của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn.
2.2.3. Tiến hành xây dựng nhà máy (1974 - 1977)
Sau khi hoàn thành công việc xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho nhà
máy, công tr-ờng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn b-ớc sang giai đoạn
mới, giai đoạn tổ chức thi công lắp đặt tiến hành xây dựng nhà máy.
Giai đoạn này bắt đầu từ tháng 2/1977 đến tháng 2/1982, nhằm thi công
xây dựng các hạng mục chủ yếu của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn. Nhiệm vụ
đặt ra của cán bộ, công nhân công tr-ờng là khẩn tr-ơng, nhanh chóng xây
dựng 9 cụm công trình cơ bản của nhà máy trên phạm vi 50ha,[14;20] hoàn

22


thành và đ-a dây chuyền sản xuất số 1 vào hoạt động. Cuộc xây dựng thi công
các cụm hạng mục chủ yếu nh-:
- Cụm công trình mỏ và đ-ờng vào mỏ bao gồm xây dựng một con đ-ờng
nhựa hiện đại có sức chịu tải cao. Xây dựng khu mỏ đá đủ sức khai thác hàng
năm từ 1,5 đến 2 triệu tấn đá vôi sạch ít tạp chất [13;52]
- Cụm nguyên liệu gồm nơi nghiền và phân loại nguyên liệu. Lắp đặt hai hệ
thống máy nghiền lu có kích th-ớc 4x13,5m công suất 160 tấn/giờ.[13;53]
Hai hệ thống máy nghiền sấy than làm việc theo chu trình khép kín, với công
suất 26,5 tấn/giờ, cùng hệ thống vận chuyển đá phiến sét, đất bùn, xỉ pi-rit...
- Cụm thành phần bao gồm hệ thống xi lô chứa xi măng rời, hệ thống đóng
bao xi măng và xuất xi măng rời.
- Cụm năng l-ợng gồm hai trạm biến thế cỡ lớn 110/63kw, mỗi máy có
công suất 40.000KVA. Ngoài ra có các trạm phân phối, hệ thống cáp ngầm.

Điện dùng cho Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đ-ợc lấy từ đ-ờng dây tải điện
quốc gia 110KV từ Ninh Bình đi Thanh Hoá.
Bên cạnh đó còn có các cụm công trình vận chuyển, cụm công trình phụ
trợ...
Đầu năm 1977, theo kế hoạch đà định, Liên Xô cử các chuyên gia đến
công tr-ờng trực tiếp giúp đỡ thi công và xây dựng nhà máy. Lúc đầu đoàn
chuyên gia Liên Xô có hơn 100 ng-ời, sau đó có 263 ng-ời do đồng chí Tahu
làm tr-ởng đoàn. Đoàn chuyên gia Liên Xô bao gồm những ng-ời có ngành
nghề khác nhau trong lĩnh vực xây dựng, đây là những chuyên gia lành nghề,
có trình độ kỹ thuật cao.
Tháng 2/1977, toàn công tr-ờng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn b-ớc
vào thời kỳ làm việc sôi nổi, mục tiêu thi đua của các đơn vị trên công tr-ờng
là hoàn thành việc xây dựng nền móng của các hạng mục công trình, lập thành
tích chào mừng 60 năm Cách mạng Tháng M-ời Nga vĩ đại.

23


Cũng trong thời gian này, giữa năm 1977, quá trình xây dựng Nhà máy xi
măng Bỉm Sơn cũng gặp một số khó khăn nh-: Trong khi công tr-ờng thi
công đào móng lò nung số 1 và bể bùn thì gặp phải hang động Cacxtơ, một
hiện t-ợng địa chất phức tạp. Đây là những khó khăn b-ớc đầu của ta trong
quá trình xây dựng, khi kinh phí thì ít, kinh nghiệm xư lý ch-a cã. Song víi
khÈu hiƯu " B¾t hang động phải cúi đầu cho nhà máy mọc lên", [13;54]v-ợt
qua nắng lửa gay gắt, m-a bÃo luôn xảy ra, các cán bộ, công nhân, kỹ s- của
các đoàn địa chất 306, xí nghiệp khảo sát xây dựng số 2, xí nghiệp khai thác
n-ớc...đà khắc phục đ-ợc sự cố đó. Với sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nhà n-ớc
Liên Xô và Việt Nam, đầu năm 1978 một đoàn chuyên gia Liên Xô do giáo
s-, viện sỹ Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô A.Bramốp dẫn đầu sang Việt
Nam. Bằng ph-ơng pháp "Đào móng đến đá gỗi và sử lý bằng bê tông đòn",

hiện t-ợng Cáctơ ngầm đà đ-ợc xử lý.
Sang năm 1979, hơn 13.000 cán bộ, công nhân, bộ đội và tập thể chuyên
gia Liên Xô trên công tr-ờng tập trung thi công phần ngầm và xây lắp xen kẽ
phần nổi của dây chuyền công nghệ số 1.[13;58] các đơn vị xây dựng và lắp
máy hoàn thành lắp ráp lò nung số 1 và phần xây cụm công trình cáp điện.
B-ớc sang năm 1980, tuy gặp nhiều khó khăn về vật t- thiết bị, lại bị các
cơn bÃo số 3, 4 gây nhiều thiệt hại, nh-ng công tr-ờng vẫn hoàn thành nhiều
hạng mục công trình, cơ bản hoàn thành 90 % khối l-ợng công việc xây dựng
của dây chuyền số 1.
Năm 1981, thời gian cuối của việc lắp ráp hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất
số 1, các đơn vị xây dựng trên công tr-ờng, cùng với tập thể chuyên gia Liên
Xô ký giao -ớc thi đua thành lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng Cộng
sản Liên - Xô lần thứ XXVI và Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ V. Với khẩu hiệu " Tất cả cho dây chuyền số 1 vào sản xuất" tạo nên một
không khí làm việc sôi nổi trên toàn công tr-ờng. Đến cuối năm 1981, các

24


công việc đ-ợc thi công nối tiếp nhau hoàn thành. Cuối tháng 10, dây chuyền
số 1 đà đ-ợc thi công lắp ráp hoàn chỉnh với khối l-ợng 10.830 tấn.
Ngày 22/12/1981, kỷ niệm 37 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam, lò nung số 1 chính thức đi vào hoạt động sản xuất. Mẻ Clanhke đầu tiên
của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đà ra lò vào hồi 10 giờ sáng.
Tiếp đó, ngày 28/12/81, những bao xi măng Bỉm Sơn đầu tiên mác P400,
nhÃn hiệu "Con voi" của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đà chính thức xuất
x-ởng.[13;62]
Việc dây chuyền số 1 của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đi vào hoạt động và
cho những tấn xi măng đầu tiên tạo điều thuận lợi cơ bản cho việc xây dựng
dây chuyền số 2 và tiếp tục hiệu chỉnh máy móc sau này. Từ tháng 2/1982,

toàn công tr-ờng tập trung thi công xây lắp dây chuyền sản xuất số 2. Cùng
với những kinh nghiệm đà có trong quá trình xây lắp dây chuyền số 1,việc xây
lắp, hiệu chỉnh dây chuyền số 2 có những điều kiện thuận lợi, tốc độ hoàn
chỉnh các công đoạn của dây chuyền càng nhanh chóng hơn.
Ngày 6/11/1983, kỷ niệm lần thứ 66 Cách mạng Tháng M-ời Nga vĩ đại,
dây chuyền sản xuất số 2 chính thức đi vào hoạt động. Có thể nói đây là thành
tích tuyệt vời của hàng vạn cán bộ, công nhân, kỹ s- và các chuyên gia Liên
Xô. Đó là những thành quả to lớn của họ sau những năm tháng lao động quên
mình trên công tr-ờng xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, để đáp ứng nhu
cầu xi măng quan träng cho viƯc x©y dùng kinh tÕ, cđng cè quốc phòng.
Những thành tích đó ngày càng tô đậm thêm tình hữu nghị và sự hợp tác giữa
Việt Nam - Liên Xô.
2.3. Hoàn thành xây dựng nhà máy và đi vào sản xuất, phát triển (1982 2000).
2.3.1. Hoàn thành xây dựng nhà máy:
Sau 5 năm, kể từ ngày khởi công xây dựng (năm 1976), với công sức của
hàng ngàn công nhân Việt Nam sát cánh cùng hàng trăm chuyên gia Liên Xô,

25


×