Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Dạy tiếng việt qua phân môn luyện từ và câu ở lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865 KB, 87 trang )

LỜI NĨI ĐẦU

Đề tài “Dạy tiếng Việt qua phân mơn
Luyện từ và câu ở lớp 2” được thực hiện
trong một thời gian ngắn, điều kiện có
nhiều khó khăn. Để hồn thành cơng trình
nghiên cứu này, tơi đã khẩn trương thu
thập, xử lý và chọn lọc tài liệu...nhằm
thực hiện các nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
Ngoài sự cố gắng của bản thân, tơi cịn
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cơ
giáo và sự động viên khích lệ của bạn bè.
Với tấm lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin chân
thành cảm ơn tới cô giáo-Tiến sĩ Chu Thị
Thuỷ An-người đã trực tiếp hướng dẫn tôi
thực hiện đề tài này, cùng các thầy, cô
giáo trong Khoa GDTH đã cho tôi những
ý kiến đóng góp q báu, cảm ơn các
thầy cơ giáo Trường tiểu học Cửa Nam IThành phố Vinh đã tạo điều kiện cho tôi
tổ chức thức nghiệm tại trường.
1


Đề tài được tìm hiểu trong một thời
gian ngắn nên chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tơi rất mong
nhận được lời chỉ bảo, nhận xét của các
thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành ơn !
Tác giả


2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ mở đầu một thiên niên kỷ mới, đất
nước chúng ta bước vào thời kỳ công nghiệp hố, hiện đại hố. Đây là một
q trình gian khổ, kéo dài nhiều năm, dẫn đến những sự thay đổi quan trọng
trong cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển sản xuất khoa học kỹ thuật, cơ cấu xã
hội, thu nhập quốc dân ... Gần đây trên thế giới nói chung cũng như ở nước ta
nói riêng bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề mới như: nền kinh tế tri thức, sự phát
triển của công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hố trong nền
kinh tế, vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc.
Những đổi thay đó trên thế giới đã phản ánh vào giáo dục, địi hỏi phải
có những đổi mới tư duy trong phát triển giáo dục và đào tạo, Trung Quốc đã
đề ra 5 phương hướng, Pháp đề ra 49 nguyên tắc cụ thể, Hoa Kỳ nêu ra 10 tư
tưởng chỉ đạo để phát triển giáo dục. Nước ta cũng đã tiếp tục đổi mới giáo
dục và cách làm giáo dục theo tinh thần Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương IV khoá VII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương II khoá VIII cũng
như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
1.2. Những thay đổi quan trọng trong kinh tế, xã hội, giáo dục dẫn đến
những yêu cầu mới trong dạy học tiếng nói chung và dạy học tiếng mẹ đẻ nói
riêng. Chương trình Tiếng Việt tiểu học hiện hành tuy đã đạt được nhiều kết
quả khả quan, nhưng cũng bộc lộ nhiều nhược điểm, thiếu sót. Đó là lý do địi
hỏi sự thay đổi trong chương trình, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
tiếng Việt nói chung, dạy tiếng Việt ở tiểu học nói riêng.
Cùng với sự đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học tiếng
Việt là sự đổi mới về Sách giáo khoa Tiếng Việt. Chương trình Sách giáo
khoa Tiếng Việt năm mới ra đời đã thay thế cho tất cả các chương trình Tiếng
Việt ở tiểu học đang tồn tại hiện nay ở nước ta.


3


1.3. Chương trình Tiếng Việt nói chung và phân mơn Luyện từ và câu ở
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 mới nói riêng ra đời nhằm khắc phục những
nhược điểm, thiếu sót của chương trình cải cách giáo dục. Với chương trình
Tiếng Việt mới này thì mục tiêu dạy tiếng Việt cho học sinh thơng qua hoạt
động giao tiếp, có nghĩa là dạy tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt
hiện đại để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động phù hợp lứa
tuổi.
Giao tiếp là một hoạt động quan trọng để phát triển xã hội lồi người. Có
nhiều phương tiện giao tiếp trong đó ngôn ngữ là phương tiện quan trọng và
cơ bản nhất. Đối với cộng đồng dân cư sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam thì
tiếng Việt là cơng cụ tư duy và giao tiếp. Việc giao tiếp bằng tiếng Việt được
thực hiện thơng qua hai dạng ngơn ngữ đó là lời nói và chữ viết. Để có thể
hiểu được nội dung giao tiếp người ta phải nghe và đọc được tiếng Việt, để có
thể bày tỏ ý nghĩ, tình cảm của mình người ta phải nói hoặc viết được tiếng
Việt trong cả hai dạng ngơn ngữ nói trên.
Dạy tiếng Việt là dạy cách dùng tiếng Việt trong cả hai dạng ngôn ngữ
và dạy cả bốn kỹ năng đọc, nghe, nói, viết, dạy học sinh cả lĩnh hội và sản
sinh các ngôn bản bằng tiếng Việt. Dạy tiếng Việt gắn với đời sống, thực tiễn
sử dụng tiếng Việt ở gia đình, nhà trường và xã hội có nghĩa là mục tiêu
chương trình nhấn mạnh tinh thần thực hành giao tiếp chú trọng dạy tiếng
Việt qua các tình huống giao tiếp. Dạy tiếng Việt cịn thể hiện các u cầu
tích hợp, mà trước hết là tích hợp trong việc rèn luyện các kỹ năng Tiếng
Việt.
Chương trình Tiếng Việt mới (thực thi vào đầu năm học 2002-2003 trên
phạm vi cả nước) đang cịn hồn toàn mới mẻ đối với giáo viên và học sinh
nên đã gây nhiều tranh cãi, khó khăn, ngay khi mới ra mắt.

Vậy thực tế dạy học ở trường tiểu học chương trình này đã bộc lộ những
ưu điểm và nhược điểm nào? Và việc dạy tiếng Việt qua phân môn Luyện từ
4


và câu ở lớp 2 ra sao? Có những vấn đề nào cần cải tiến, sửa chữa, chỉnh lý
cho phù hợp với thực tế là một vấn đề cấp bách.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đặt vấn đề đi sâu nghiên cứu
việc “Dạy tiếng Việt qua phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2”.
2. Lịch sử vấn đề.
Chương trình Luyện từ và câu ra đời, thay thế cho chương trình Từ ngữNgữ pháp trước đây, đã tạo ra bước ngoặt trong nền giáo dục. Vì thế, nó nhận
được sự quan tâm từ rất nhiều người: từ các nhà sư phạm, các nhà nghiên cứu
cho đến các bậc phụ huynh học sinh.
Vấn đề dạy học Từ ngữ-Ngữ pháp nói chung và dạy học Từ ngữ-Ngữ
pháp ở tiểu học nói riêng đã có nhiều cơng trình, tài liệu nghiên cứu khoa học
đề cập đến, ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên phải kể đến “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học ” của
các tác giả Lê Phương Nga, Nguyễn Trí [9]. Cuốn sách đã đề cập đến những
vấn đề chung của phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, vấn đề bài tập
được nói đến trên phương diện phương hướng chung cho tất cả các phân môn
Tiếng Việt.
Đi sâu vào phương pháp dạy học cụ thể các phân môn: Học vần, Tập
đọc, Từ ngữ-Ngữ pháp, Kể chuyện...
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học tác giả Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí [10]. Đây là cuốn sách được biên soạn công phu trên cơ sở cuốn
“Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học” [9] bàn về những nội dung
chung của dạy học Tiếng Việt.
- Dạy học Ngữ pháp ở tiểu học của tác giả Lê Phương Nga [11]. Đây là
một cuốn sách nói chung cho việc dạy học Ngữ pháp ở tiểu học.
- Dạy học Từ ngữ ở tiểu học của tác giả Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh [15]

nói chung cho việc dạy Từ ngữ ở tiểu học.

5


Nhưng các cơng trình nghiên cứu này của các tác giả chỉ bàn về một khía
cạnh dạy ngữ pháp hay dạy Từ ngữ riêng lẻ, chưa có tác giả nào đi vào nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về nội dung và phương pháp dạy học Từ
ngữ-Ngữ pháp ở tiểu học do một mục đích, góc độ nghiên cứu khác nhau.
Sự ra đời của chương trình Luyện từ và câu ở lớp 2 là sự đổi mới lớn có
tính chất bước ngoặt trong nền giáo dục tiểu học, nên nhận được rất nhiều sự
quan tâm. Nhưng thực tế mọi vấn đề đều đang bó hẹp trong phạm vi nghiên
cứu của các nhà soạn thảo chương trình, hay mới chỉ được đề cập ở một số
tạp chí chuyên ngành:
- Trước tiên, phải kể đến Tài liệu tập huấn -giảng viên cốt cán cấp tỉnh
triển khai chương trình và Sách giáo khoa lớp 2 môn Tiếng Việt... [17] ở cuốn
tài liệu này, các tác giả chia làm 2 phần:
+ Những vấn đề chung về nội dung và phương pháp dạy học môn Tiếng
Việt lớp 2.
+ Những vấn đề dạy học và cách phân môn cụ thể.
Phần Luyện từ và câu được đề cập ở phần 2 của cuốn tài liệu một cách rõ
ràng cụ thể các vấn đề: nội dung, cấu trúc và phương pháp dạy Luyện từ và câu.
- Cuốn Hỏi và đáp về dạy học Tiếng Việt 2 do tác giả Nguyễn Minh
Thuyết chủ biên [12] đề cập đến những vấn đề chung về dạy Tiếng Việt 2 và
các phân mơn của Tiếng Việt 2 (trong đó có phân mơn Luyện từ và câu).
- Cuốn Phương pháp Luyện từ và câu 2 tiểu học của các tác giả Trần
Đức Niềm, Lê Thị Nguyên, Ngô Lê Hương Giang [7] nhằm giúp học sinh giải
các bài tập trong Sách giáo khoa Luyện từ và câu 2.
- Cuốn Luyện từ và câu 2 của tác giả Đặng Mạnh Thường [14] cũng nhằm
giúp học sinh cách giải các bài tập trong Sách giáo khoa Luyện từ và câu 2.

Bên cạnh đó, cịn có một số bài viết, bài báo đề cập đến chương trình
Tiếng Việt 2, phân mơn Luyện từ và câu ở những phương diện nhỏ khác
nhau:
6


- Thực trạng dạy học Tiếng Việt ở tiểu học và một số yêu cầu rèn luyện
kỹ năng giao tiếp của tác giả Lê Thị Thanh Bình [3].
- Tiếng Việt 2-nhìn từ góc độ giao tiếp, tác giả Nguyễn Quang Ninh [8].
- Quan điểm biên soạn và cấu trúc của Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 của
tác giả Nguyễn Minh Thuyết, Hồng Thị Hồ Bình [13].
- Thực hành giao tiếp -đặc điểm nổi bật của chương trình Tiếng Việt 2
của tác giả Ngơ Thị Minh [6].
Như vậy, đã có rất nhiều bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập
đến lĩnh vực này. Nhìn chung, họ đã bàn về nội dung, hình thức, quan điểm,
cấu trúc, cơ sở khoa học ... của chương trình và Sách giáo khoa Luyện từ và
câu nói riêng và Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nói chung.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào đặt chương
trình, Sách giáo khoa Luyện từ và câu trong thực trạng dạy học ở nhà trường
tiểu học nhằm đưa ra những biện pháp, kiến giải vừa có cơ sở khoa học, vừa
có cơ sở thực tế.
Vì vậy trong quá trình nghiên cứu luận văn này chúng tôi đi sâu vào nội
dung Luyện từ và câu ở Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 và đưa ra một số đề xuất
nhằm mục đích phục vụ việc dạy học luyện từ và câu ở lớp 2 theo chương
trình Tiếng Việt mới có hiệu quả.
3. Mục đích nghiên cứu.
- Nhìn nhận những ưu điểm, nhược điểm của chương trình Luyện từ và
câu ở lớp 2 đưa ra những ý kiến đóng góp để chương ngày càng hồn thiện.
- Đề xuất việc ứng dụng một số phương pháp, biện pháp dạy học vào dạy
học Luyện từ và câu ở lớp 2.

- Góp phần giải quyết khó khăn, lúng túng của giáo viên và học sinh tiểu
học hiện nay về nội dung và phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 2.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
7


Để đạt được mục đích nêu trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
Nội dung và phương pháp dạy học Luyện từ và câu ở lớp 2.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu như trên, đề tài phải thực hiện
những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề dạy học Luyện từ và câu
lớp 2.
- Nghiên cứu chương trình, Sách giáo khoa phân mơn Luyện từ và câu ở
lớp 2.
- Đề xuất một số phương pháp, biện pháp dạy học luyện từ và câu lớp 2
và thiết kế một số bài dạy cụ thể.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, để hồn thành đề tài này chúng tơi đã sử
dụng các phương pháp sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nhằm nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy Luyện từ và câu lớp
2 ở tiểu học, nhằm thu thập thơng tin về lý luận có liên quan đến đề tài nghiên
cứu trong các cơng trình tài liệu đã công bố.
6.2. Phương pháp quan sát điều tra:
Nhằm nghiên cứu thực tiễn dạy học Luyện từ và câu ở lớp 2 tại các
trường tiểu học.
6.3. Phương pháp thống kê:

Nhằm xử lý các số liệu thu được từ quan sát, điều tra và thực nghiệm sư
phạm.
6.4. Phương pháp thực nghiệm:
Nhằm kiểm tra chất lượng dạy học Luyện từ và câu ở lớp 2 bằng những
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đề xuất.
8


Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu chúng tơi cịn sử dụng một số thao
tác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại.

9


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
1.1. Đặc điểm của chương trình Tiếng Việt mới.
1.1.1. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt mới:
Theo quyết định cố 43/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 9/11/2001 của Bộ
Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban hành chương trình tiểu học
mới-đây là bộ chương trình giáo dục tiểu học trong giai đoạn cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Chương trình Tiếng Việt mới được ban hành và
biên soạn nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt trên cơ sở phát huy
những ưu điểm cần kế thừa và khắc phục những nhược điểm của bộ chương
trình Tiếng Việt cải cách giáo dục, tiếp cận với những thành tựu hiện đại của
việc dạy tiếng nói chung, dạy tiếng mẹ đẻ nói riêng của các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Nếu như mục tiêu chương trình Tiếng Việt cải cách giáo dục vẫn còn
những nhược điểm cần khắc phục như: quan niệm về dạy tiếng Việt chưa đầy

đủ, chưa làm rõ dạy tiếng Việt chính là dạy sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp
và suy nghĩ, học tập của học sinh. Hay có dạy tiếng Việt theo quan điểm giao
tiếp nhưng chưa đầy đủ, toàn diện cho nên chưa vận dụng các tri thức về sử
dụng tiếng Việt vào chương trình và Sách giáo khoa Tiếng Việt. Trong
chương trình Tiếng Việt mới những nhược điểm trên đã được khắc phục với
mục tiêu được xác định là: hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử
dụng tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp
phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Ngồi ra, cịn cung cấp cho
học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về

10


tự nhiên-xã hội và con người về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước
ngồi. Bồi dưỡng tình u tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
1.1.2. Nội dung của chương trình Tiếng Việt mới.
Chương trình Tiếng Việt cải cách giáo dục đã quan tâm đến việc dạy kỹ
năng trong đó chú ý nhiều hơn đến các kỹ năng đọc, viết với quan điểm ưu
tiên dạy ngôn ngữ viết trong nhà trường mà coi nhẹ dạy ngơn ngữ nói, do đó
coi nhẹ cả dạy kỹ năng nghe và kỹ năng nói tiếng Việt, chưa khai thác hết vốn
tiếng Việt sẵn có của học sinh khi học tiếng Việt. Chương trình Tiếng Việt cải
cách giáo dục cịn q thiên về dạy loại văn bản mang tính nghệ thuật mà
chưa coi trọng dạy các loại văn bản thông thường (văn bản hành chính, các
loại văn bản cần dùng trong đời sống hàng ngày...) vì thế nên ngữ liệu để dạy
tiếng Việt khơng có các bài thuộc loại văn bản thơng thường.
Xuất phát từ những hạn chế của chương trình Tiếng Việt cải cách giáo
dục như đã nêu trên, chương trình Tiếng Việt mới đã đề ra những nội dung cụ

thể như sau nhằm cụ thể hố mục tiêu chương trình.
Chương trình yêu cầu dạy cả bốn kỹ năng (nghe, đọc, nói, viết) cho học
sinh qua tất cả các lớp. Mỗi kỹ năng đều sắp xếp để có sự phát triển dần từ
lớp dưới lên lớp trên. Dạy kỹ năng nghe, nói trong cả độc thoại lẫn đối thoại
(hội thoại). Dạy nghe các loại văn bản phù hợp với trình độ học sinh tiểu học,
tập trung vào dạy nghe hiểu. Dạy nghe trong hội thoại gắn liền với sinh hoạt ở
tiểu học (nghe nhớ được lời người nói, hiểu nội dung lời nói, bước đầu nhận
biết thái độ tình cảm người nói qua nội dung, giọng điệu, điệu bộ...). Dạy nói
trong hội thoại: dạy các nghi thức lời nói trong giao tiếp thơng thường hoặc
trong giao tiếp nghi thức chính thức, trong sinh hoạt ở tiểu học và dạy cách
trao đổi, bàn bạc một vấn đề thơng thường. Dạy nói thành bài để giới thiệu về
bản thân, bạn bè, gia đình, lớp học... với một người khác.
11


Chương trình yêu cầu dạy kỹ năng đọc, viết tất cả các loại văn bản.
Trong dạy đọc chú ý tới các phương diện: đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc diễn
cảm, đọc hiểu các loại văn bản nghệ thuật, hành chính, báo chí, khoa học phù
hợp trình độ của hoạt động của học sinh tiểu học, học thuộc lòng một số bài
thơ hay, bài văn vần trong Sách giáo khoa, học cách sử dụng từ điển, đọc các
ký hiệu, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bảng hiệu..., tập ghi chép khi đọc.
Trong dạy viết thì dạy viết chữ từ rõ ràng, đúng mẫu đến viết nhanh, đẹp,
viết đúng chính tả với các hình thức luyện tập phong phú (tập chép, tập nghe viết,
làm bài tập, lập sổ tay...), cuối cùng là dạy viết bài văn gồm các thể loại văn bản.
Về mặt kiến thức chương trình Tiếng Việt mới yêu cầu cung cấp các
kiến thức sơ giản phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học về các lĩnh vực: ngữ
âm và chữ viết, từ ngữ, ngữ pháp, văn bản và kiến thức sử dụng tiếng Việt
trong giao tiếp, kiến thức về văn học (một số thể thơ thông dụng, nhân vật, đề
tài, lời kể trong truyện...) các kiến thức về tiếng Việt trình bày trong văn bản
chương trình dùng làm cơ sở biên soạn Sách giáo khoa không đưa các kiến

thức lý thuyết này dạy trực tiếp cho học sinh, chủ yếu để cho các em làm quen
và nhận biết chúng thông qua các bài thực hành kỹ năng, chương trình nhấn
mạnh về việc học từ ngữ (kể cả thành ngữ, tục ngữ) qua từng lớp.
Ngữ liệu sử dụng để dạy học tiếng Việt có những thay đổi quan trọng.
Trong chương trình và Sách giáo khoa trước đó ngữ liệu dùng để học tiếng
Việt chỉ trích dẫn từ một nguồn duy nhất là các tác phẩm văn học thì trong
chương trình Tiếng Việt mới ngữ liệu sử dụng dạy tiếng Việt được trích dẫn
từ nhiều loại văn bản khác nhau (văn bản hành chính, báo chí, nghị luận, khoa
học...) đồng thời còn dạy cách sử dụng tiếng Việt khơng chỉ để làm các bài
văn mang tính nghệ thuật (như miêu tả, kể chuyện...) mà còn để làm các loại
văn bản thông thường nhật dụng (khai lý lịch, viết điện báo, viết thư, điện
chúc mừng, điện chuyển tiền...).
1.1.3. Phương pháp và hình thức dạy học chương trình Tiếng Việt mới:
12


Về phương pháp dạy học: theo chương trình Tiếng Việt cải cách giáo
dục, các phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp chưa được sử dụng
trong dạy và học tiếng Việt, việc luyện tập các kỹ năng chưa đảm bảo độ
thành thạo, thuần thục nên còn hạn chế nhiều đến kết quả học tiếng Việt.
Về hình thức dạy học: theo chương trình Tiếng Việt cải cách giáo dục
chưa phong phú, đa dạng nên khơng kích thích được sự hoạt động học tập của
học sinh trong quá trình học.
Vậy để việc dạy học tiếng Việt theo chương trình mới có hiệu quả cần
phải sử dụng những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh, các phương pháp đặc trưng của dạy học tiếng Việt như: phương
pháp thực hành giao tiếp (đọc, nghe, nói, viết trong các tình huống giao tiếp
cụ thể), các phương pháp đóng vai, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương
pháp phân tích ngôn ngữ... Tuy nhiên, những phương pháp dạy học khác như
: diễn giảng, thảo luận, đặt và giải quyết vấn đề, sử dụng phương tiện trực

quan... vẫn được phối hợp một cách hợp lý với các phương pháp dạy học mới
để dạy tiếng Việt đạt hiệu quả cao.
Theo chương trình Tiếng Việt mới thì các hình thức tổ chức dạy học
cũng phong phú, đa dạng phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý học sinh
tiểu học. Hiện nay, ở tiểu học người ta phối hợp một cách linh hoạt các hình
thức tổ chức lớp học để tiến hành các bài học. Một bài học có thể sử dụng
nhiều hình thức dạy học xen kẽ. Gần như khơng cịn hiện tượng chỉ sử dụng
một hình thức tổ chức lớp học.
Hình thức dạy học là cách thức tổ chức sắp xếp học sinh của một lớp
thành các đơn vị học tập khác nhau trong q trình dạy học. Có các hình thức
dạy học: Tổ chức học chung tồn lớp (gọi là tổ chức học theo lớp học), tổ
chức lớp thành nhiều nhóm, các nhóm cùng trao đổi, bàn bạc về một nội dung
bài học (gọi là tổ chức học theo nhóm), tổ chức để từng cá nhân học sinh làm
việc độc lập nhằm thực hiện một nhiệm vụ học tập (gọi là tổ chức học cá
13


nhân), tổ chức để học sinh làm việc trong phòng học như là việc trong xưởng
trường, vườn trường, tại nhà máy, viện bảo tàng... (gọi là tổ chức học ngoài phịng
học).
Sự phối hợp các hình thức tổ chức lớp học khác nhau nên tạo nên sự
mềm dẻo, linh hoạt cho q trình dạy học. Nó cho phép giáo viên có thể sử
dụng nhiều biện pháp , thủ pháp dạy học. Quan trọng hơn, nó tạo điều kiện
cho giáo viên cá thể hoá việc dạy học, tạo điều kiện cho mọi học sinh đều
tham gia vào hoạt động học tập, tạo điều kiện cho các em học cách làm việc
tập thể theo nhóm, học cách phối hợp với bạn bè trong công việc, tạo điều
kiện cho học sinh mạnh dạn, tự tin trình bày ý kiến cá nhân... Đối với việc dạy
học tiếng Việt, phối hợp các hình thức tổ chức lớp học nêu trên tạo điều kiện,
tạo môi trường thuận lợi cho việc giao tiếp, cho việc rèn luuện bốn kỹ năng sử
dụng tiếng Việt.

1.2. Đặc điểm của phân môn “Luyện từ và câu”.
1.2.1.Mục tiêu, nhiệm vụ.
Ở chương trình Tiếng Việt cải cách giáo dục với tư cách là một phân
môn độc lập Ngữ pháp và Từ ngữ được dạy ghép trong một tiết học (ở lớp 2, 3).
Với quy định thời gian là 35 phút thì 10-15 phút dành cho Ngữ pháp. Và
việc hệ thống hố ơn tập kiến thức ngữ pháp trong tuần là 15-20 phút. Điều
này gây khó khăn khơng nhỏ cho giáo viên khi biên soạn và triển khai tiết dạy
trên lớp (dung lượng kiến thức cần truyền thụ thì nhiều quỹ thời gian vật chất
trên lớp lại ít) dẫn đến chất lượng và hiệu quả của các tiết dạy cũng không đạt
như mong muốn.
Bên cạnh đó, có khá nhiều từ ngữ trong phần Từ ngữ trùng lặp trong các
bảng từ. Tóm lại, nhìn vào bảng từ trong Sách giáo khoa -Từ ngữ ta thấy
người soạn sách chủ yếu dựa vào sự cảm nhận chủ quan của mình để lựa
chọn, liệt kê các từ ngữ đưa vào bảng từ ở mỗi bài dạy nên chưa định lượng,
định tính được, chưa quy hoạch được vốn từ cần dạy cho học sinh ở một lớp,
14


một độ tuổi trong một cấp học. Các bài thực hành từ ngữ theo chủ đề Sách
giáo khoa đưa ra cịn khó đối với học sinh (nhất là các bài tập yêu cầu học
sinh giải nghĩa từ) hay có loại bài tập nêu u cầu khơng rõ ràng nên khó thực
hiện đối với học sinh.
Đối với chương trình và các tài liệu dạy học Ngữ pháp thì có chú ý tới
yêu cầu thực hành nhưng nặng thực hành để nắm các kiến thức lý thuyết để
nhận diện, phân loại các đơn vị ngữ pháp mà ít cho học sinh thực hành nghe,
đọc, nói, viết. Mục đích chính của dạy tiếng Việt khơng phải là giải thích cho
học sinh về diện mạo tiếng Việt, đi vào nhận diện phân loại các đơn vị ngôn
ngữ như công việc của các nhà nghiên cứu mà dạy tiếng nhằm mục đích giúp
học sinh hướng vào hoạt động giao tiếp, thông qua giao tiếp các tài liệu dạy
học tiếng Việt cải cách giáo dục thường cho học sinh đi tìm những khn

mẫu, những mơ hình lý tưởng của những câu nói xa xơi đối với đời sống thực,
những câu phi ngữ cảnh. Những câu học sinh thường nghe thấy, thường sử
dụng hàng ngày thì khơng được chú ý. Tài liệu dạy học thường nặng về xét
các bộ phận câu mà khơng nói rõ câu đó dùng với mục đích gì, trong điều
kiện nào, tình huống nào của hiện thực, đây là cách trình bày khơng gắn với
giao tiếp, miêu tả tách rời cảnh huống sẽ khơng có tác dụng cho việc sử dụng
ngơn ngữ. Vì phi ngữ cảnh mà ngữ pháp ở tiểu học nhiều khi không chú ý đầy
đủ đến thái độ của người nói đối với hiện thực, với hồn cảnh giao tiếp.
Bộ Sách giáo khoa Tiếng Việt cải cách giáo dục tách Từ Ngữ và Ngữ
Pháp ra thành 2 phân môn riêng biệt. Cơ sở của giải pháp này là sự phân biệt
2 chuyên ngành Từ vựng học và Ngữ pháp học trong ngôn ngữ học. Sự phân
biệt ấy tỏ ra không thật thích hợp với nhà trường phổ thơng vì nhiệm vụ của
trường phổ thông không phải là dạy lý luận ngôn ngữ học mà là rèn luyện kỹ
năng dùng từ, đặt câu cho học sinh. Hai kỹ năng dùng từ, đặt câu liên quan
chặt chẽ với nhau. Khơng có vốn từ phong phú, không hiểu nghĩa và đặc điểm
ngữ pháp của từ thì khơng thể đặt câu đúng được. Ngược lại, nếu khơng nắm
vững quy tắc đặt câu thì dù vốn từ có phong phú, nghĩa của từ có nắm chắc
đến đâu cũng khơng trình bày được ý kiến của mình một cách mạch lạc, rõ
ràng. Chính vì vậy, trong bộ sách giáo khoa mới, hai phân môn Từ Ngữ và
15


Ngữ Pháp được nhập lại thành phân môn Luyện từ và câu. Việc nhập lại
thành một phân môn cũng phù hợp với một thực tế là do không đủ quỹ thời
gian để dạy riêng nên ngay từ trong cải cách giáo dục, Từ ngữ và Ngữ pháp
đã được bố trí dạy chung trong cùng một tiết học.
Tên gọi Luyện từ và câu thể hiện nhận thức mới về nhiệm vụ dạy tiếng
Việt ở tiểu học đó là: chú trọng thực hành, luyện tập hơn là lý luận.
Nhiệm vụ chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu trong sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 2 là giúp học sinh:

- Mở rộng vốn từ theo chủ điểm trong sách giáo khoa.
- Cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ loại và về kiểu cấu
tạo của các từ thông qua những từ các em đã có hoặc những từ mới học.
- Rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu theo một số mẫu câu phổ biến.
- Rèn luyện kỹ năng nói và viết thành câu, dùng một số dấu câu phổ biến
khi viết.
Xuất phát từ đặc điểm, nội dung, chương trình, Sách giáo khoa Tiếng
Việt mới như đã trình bày ở trên chi phối việc biên soạn cả nội dung lẫn
phương thức dạy học của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2.
1.2.2. Nội dung cụ thể của từng phần trong phân môn Luyện từ và câu
như sau:
+ Nội dung luyện từ:
- Học sinh học khoảng 300-350 từ ngữ (trong đó có một số thành ngữ,
tục ngữ và một số từ Hán Việt thông dụng) thuộc các chủ điểm trong sách
giáo khoa: học sinh, bạn bè, trường học, thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh em, các
con vật ni, các mùa trong năm, chim chóc, mng thú, sơng biển, cây cối,
Bác Hồ, nhân dân. Thực chất các từ này bổ sung cho vốn từ về thế giới xung
quanh gần với các em và vốn từ về chính bản thân các em.
- Nhận biết ý nghĩa chung của từng lớp từ: Chỉ người, vật và sự vật nói
chung (danh từ); chỉ hoạt động, trạng thái (động từ); chỉ đặc điểm, tính chất
(tính từ). Tuy nhiên, sách chưa yêu cầu học sinh biết các khái niệm danh từ,
động từ, tính từ.
16


- Nhận biết nghĩa của một số thành ngữ, tục ngữ gắn với các chủ điểm và
dễ hiểu đối với học sinh.
- Nhận biết tên riêng và biết viết hoa tên riêng.
- Làm quen với các cách giải nghĩa từ thông thường: giải nghĩa bằng
cách định nghĩa, bằng cách mô tả trực tiếp (thơng qua các hình ảnh hoặc lời

tả), bằng cách tìm từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa...
+ Nội dung luyện câu:
Nội dung luyện câu chủ yếu yêu cầu học sinh nói và viết thành câu trên
cơ sở những hiểu biết sơ giản sau:
- Nhận biết câu trong lời nói và trong văn bản dựa trên tính tương đối
trọn vẹn về ý nghĩa của câu, dựa trên dấu hiệu mở đầu và kết thúc câu trong
văn bản (viết hoa chữ cái đầu câu, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than ở
chỗ kết thúc câu).
- Nhận biết các bộ phận chính trong những kiểu câu phổ biến có mơ
hình: Ai ( cái gì) - làm gì ?; Ai (cái gì )- là gì?; Ai (cái gì) - thế nào? Qua việc
đặt câu hỏi cho từng bộ phận chính cuả câu.
- Nhận biết các bộ phận phụ của câu trả lời cho các câu hỏi Khi nào? Ở đâu?
Như thế nào? Vì sao? Để làm gì? Trong những kiểu câu phổ biến nói trên.
- Nhận biết các dấu hiệu kết thúc câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm (dấu
chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than) và dấu phẩy đặt ở giữa câu để tách ý.
Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ và nội dung đó phân mơn Luyện từ và
câu trong sách giáo khoa Tiếng việt 2 hiện hành có các kiểu bài tập như sau:
a) Loại bài tập giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ, ( mở rộng vốn
từ- theo chủ điểm).
b) Loại bài tập giúp học sinh nắm nghĩa của từ.
c) Loại bài tập giúp học sinh luyện tập, phân loại, phân nhóm các từ, hệ
thống hoá vốn từ.
d) Loại bài tập giúp học sinh luyện tập sử dụng từ.
1.2.3. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Luyện từ và câu.
Dạy tích hợp kiến thức và kĩ năng trong một tiết dạy, khơng có tiết dạy
riêng cho kiến thức hay kĩ năng. Dạy thông qua hệ thống bài tập, qua hệ thống
17


bài tập này học sinh có thể tự chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện các kĩ năng.

Trong tiết dạy phối hợp nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
2. Thực trạng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 hiện nay:
2.1. Thực trạng dạy và học theo sách giáo khoa Luyện từ và câu ở lớp 2:
Chương trình và sách giáo khoa Luyện từ và câu đã được triển khai trên
phạm vi cả nước bắt đầu từ năm học 2003- 2004. Chúng tôi đã tiến hành,
khảo
sát thực trạng dạy học phân môn này tại các trường tiểu học ở thành phố
Vinh- Nghệ An và các trường tiểu học huyện Vũ Quang- Hà Tĩnh. Kết quả
cho thấy, cả giáo viên và học sinh đều gặp một số khó khăn, lúng túng trong
việc sử dụng sách giáo khoa để dạy và học phân môn Luyện từ và câu.
2.1.1. Về phía giáo viên:
- Hầu hết các giáo viên dù đã được tập huấn trước khi dạy phân mơn
Luyện từ và câu nói riêng, mơn Tiếng Việt ở tiểu học nói chung nhưng đang
cịn rất lúng túng khi sử dụng các phương pháp đổi mới, đôi khi chưa thoát
được lối dạy học truyền thống hay nhiều khi tách hai nội dung ra dạy riêng
biệt đó là Từ ngữ và Ngữ pháp.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu ở tuần 2 (ngay đầu năm học) qua khảo sát,
điều tra nhiều giáo viên vẫn trả lời chúng tôi là dạy phần Ngữ pháp nặng hơn
dạy phần Từ ngữ vì có những ba bài tập về Ngữ pháp mà chỉ có một bài tập
về dạy Từ ngữ điều này các giáo viên đã đi sai ý đồ của Sách giáo khoa.
- Khi dạy nội dung về từ , mục đích của sách giáo khoa là chỉ yêu cầu
học sinh nhận biết ý nghĩa chung của từng lớp từ, chứ chưa yêu cầu học sinh
biết khái niệm danh từ, động từ hay tính từ nhưng khi dạy một số giáo viên
chưa hiểu được mục đích này nên nhiều khi nặng về dạy lý thuyết hơn thực
hành.

18


Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu ở tuần 3, mục đích của sách giáo khoa là

giúp học sinh nắm được các từ chỉ sự vật (người, đồ vật, con vật, cây cối...) là
những từ nào? Thì một số giáo viên khi dạy vẫn định nghĩa những từ chỉ sự
vật gọi là danh từ.
- Hay khi dạy nội dung về câu sách giáo khoa chỉ yêu cầu học sinh
nhận biết các bộ phận chính của câu theo mơ hình chứ không cung cấp cho
học sinh khái niệm chủ ngữ, hay vị ngữ... nhưng hầu hết các giáo viên còn rất
mơ hồ về những vấn đề này nên đôi khi dẫn đến áp đặt kiến thức cho học
sinh.
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu ở tuần 5 khi dạy kiểu câu Ai là gì? Thì giáo
viên vẫn dạy kiểu: Những từ trả lời cho câu hỏi Ai? là chủ ngữ còn những từ
trả lời cho câu hỏi Là gì ? là vị ngữ.
2.1.2 Về phía học sinh:
Hầu hết, các em đều cảm thấy khó khăn trong việc thực hiện các hoạt
động của hình thức tổ chức dạy học mơí. Trong tiết Luyện từ và câu, các em
phải lần lượt thực hiện việc giải các bài tập trong sách giáo khoa bằng các
hoạt động. Mỗi bài tập trong tiết Luyện từ và câu theo phương pháp dạy học
mới là mỗi hoạt động khác nhau (hoạt động theo cá nhân, nhóm, tổ, hay cả
lớp...) Chỉ riêng thay đổi các hoạt động này để thực hiện giải các bài tập (mỗi
tiết Luyện từ và câu có 3- 4 bài tập) đã làm mất nhiều thời gian của tiết học,
đôi khi làm việc nhiều các em thấy chán và mệt mỏi. Chẳng hạn, khi giáo viên
ra lệnh, yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm 4 hay nhóm 3, nhóm 5 nhưng
một số học sinh vẫn chưa tìm được nhóm của mình. Hay khi hoạt động nhóm
các em chưa biết cách hoạt động theo nhóm mà mỗi em một việc, chỉ ngồi
theo nhóm. Tất cả những điều đó làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ dạy, làm
giảm chất lượng học tập.

19


2.2. Thực trạng sử dụng các phƣơng pháp dạy học, đồ dùng dạy học

và các hình thức tổ chức dạy học của giáo viên trong giờ Luyện từ và
câu:
Nhìn chung, các giáo viên vẫn sử dụng phương pháp như giảng giải,
truyền thụ, hỏi đáp hay rèn luyện theo mẫu. Các phương pháp dạy học khác ít
được giáo viên sử dụng hoặc có sử dụng thì chỉ ở một số trường thành phố
hay trong các tiết dạy thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi... Điều này phản
ánh thực trạng của việc đổi mới phương pháp tiểu học hiện nay chưa được
triển khai mạnh mẽ, sở dĩ có điều đó vì giáo viên chưa nắm vững về mặt lý
luận của các phương pháp dạy học mới do trình độ của giáo viên- tiểu học
hiện nay được đào tạo không đồng đều, điều kiện cơ sở vật chất của trường
học còn thiếu thốn, vấn đề gắn lý thuyết với việc thực hành phương pháp dạy
học và vận dụng nó trong từng tiết học cụ thể chưa phù hợp... Vì vậy, cũng
có những phương pháp mặc dù giáo viên đã nắm vững về mặt lý luận nhưng
chưa đưa vào vận dụng trên mỗi bài dạy, từng tiết dạy cụ thể.
Như vậy, các phương pháp dạy học Luyện từ và câu khá phong phú và
đa dạng nhưng hầu hết các giáo viên mới chỉ sử dụng một vài phương pháp.
Về thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học: Hiện nay, hầu hết các giáo viên
được phân công dạy phân môn Luyện từ và câu nói riêng và Tiếng Việt nói
chung ở lớp 2 đều chưa sử dụng đồ dùng dạy học vì phân mơn này là một
phân mơn mới mẻ nên chưa có đồ dùng dạy học do công ty thiết bị đồ dùng
dạy học sản xuất mà đều do giáo viên tự làm mà đồ dùng tự làm mất nhiều
thời gian, công sức . Vì vậy, nhiều giáo viên khơng tự làm đồ dùng dạy học
mà chủ yếu sử dụng tranh trong sách giáo khoa có sẵn để dạy, hay dạy chay là
chủ yếu.
Hình thức tổ chức dạy học: Giáo viên thường sử dụng khi dạy Luyện từ
và câu vẫn là hình thức dạy học cả lớp, cịn các hình thức dạy học khác như
dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, và tổ chức trị chơi học tập thì ít được sử
20



dụng hơn. Qua điều tra và nắm bắt tình hình, chúng tơi được biết, việc ít vận
dụng được các hình thức dạy học nêu trên có nhiều lý do, trong đó chủ yếu là
do điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép, do năng lực tổ chức của giáo viên
còn hạn chế... nên chưa thực hiện được sâu rộng mà mới chỉ được một số ít
giáo viên vận dụng chúng vào giảng dạy.
Qua dự giờ, chúng tôi nhận thấy phần lớn giờ học cịn chưa sơi động,
chưa thực sự lôi cuốn được học sinh tập trung chú ý, học sinh ồn ào, làm việc
riêng, làm cho chất lượng giờ học giảm sút.
Từ thực trạng trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
Trước hết, là giáo viên đã đưa vào sử dụng trong thực tiễn giảng dạy một
số phương pháp dạy học mới và hình thức tổ chức dạy học mới. Tuy nhiên, số
giáo viên sử dụng chưa nhiều nhưng cũng cho thấy xu hướng học theo
phương pháp mới đang ăn nhập vào nhà trường. Qua trao đổi, điều tra một số
giáo viên có tâm huyết, say mê với nghề và có kinh nghiệm dạy học cho biết:
Họ đang cố gắng để tiếp cận với chương trình, cố gắng tìm hiểu để nắm vững
hơn về chương trình -Sách giáo khoa Luyện từ và câu. Tuy nhiên, về việc sử
dụng phương pháp dạy học họ vẫn còn lúng túng và chưa áp dụng có hiệu quả
một số phương pháp dạy học mới vào dạy học, chưa vận dụng được một cách
linh hoạt các phương pháp dạy học, chủ yếu dạy theo các phương pháp dạy
học truyền thống nên chưa có sự gợi mở cho các em tích cực hoạt động tư duy
và phát huy vốn kinh nghiệm của bản thân trong quá trình học tập chiếm lĩnh
tri thức mới.
3. Nguyên nhân của thực trạng:
3.1. Nguyên nhân từ phía giáo viên:
- Đây là một phân môn lần đầu tiên được thực hiện nên nhiều giáo viên
chưa đọc kĩ Sách giáo khoa, Sách giáo viên và các tài liệu tập huấn khác để
nắm chắc mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.

21



- Do trình độ của giáo viên Tiểu học hiện nay được đào tạo khơng đồng
đều nên có nhiều giáo viên cịn lúng túng khi thực hiện chương trình sách
giáo khoa và phương pháp dạy học mới.
- Một số giáo viên chưa sử dụng tối ưu các hình thức dạy học theo nhóm,
dạy học cá nhân là những hình thức tổ chức dạy học phát huy vai trò của
người học, dạy học hướng vào hoạt động của người học.
- Một số giáo viên chưa thoát được lối dạy học truyền thống nên chưa
truyền thụ hết được kiến thức bài học cho học sinh, hay nếu có truyền thụ hết
thì học sinh nắm bắt kiến thức một cách thụ động.
3.2. Nguyên nhân từ phía học sinh:
Học sinh lớp 2 (đầu cấp tiểu học) học sinh mới bước vào một môi trường
mới ở đó, khi hoạt động các em phải tuân theo một số yêu cầu, quy tắc khắt
khe, có đánh giá, nhận xét của cô giáo, của bạn bè nên các em chưa thích nghi
ngay được với mơi trường học tập, giao lưu, hoạt động mới, thường nhút nhát,
thiếu tự tin, sợ sệt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô giáo, nơi đơng người điều
đó dẫn tới học tập chưa đạt hiểu quả cao.
3.3. Nguyên nhân từ cơ sở vật chất của nhà trƣờng Tiểu học:
Học sinh Tiểu học có tư duy trực quan, cảm tính, trí tưởng tượng đồ vật.
Vì vậy, muốn hình thành ở các em kiến thức, kỹ năng đều phải bắt đầu từ trực
quan (đồ dùng học tập). Tuy nhiên, hiện nay ở các trường Tiểu học còn thiếu
đồ dùng dạy học (phương tiện trực quan) dụng cụ học tập cho học sinh chưa
đầy đủ. Do đó, chưa phát huy được tư duy trực quan ở các em.
Việc khảo sát thực trạng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2
tiểu học trên các bình diện khác nhau của quá trình dạy học đã cho phép
chúng tơi rút ra một số kết luận có tính phương pháp:
- Giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
của chương trình Tiếng Việt mới.
- Phải trình bày theo quan điểm của chương trình và Sách giáo khoa
Tiếng Việt mới.

22


- Phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh để đảm bảo tính
thống nhất giữa nội dung và hình thức, ln gắn ý nghĩa mục đích giao tiếp
với các dấu hiệu hình thức, hồn cảnh giao tiếp.
- Phải có thái độ mềm dẻo, khơng tuyệt đối hoá, phiến diện cứng nhắc,
phải biết lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp, biết xen kẽ các hình
thức dạy học trong tiết dạy để phục vụ mục đích: dạy tiếng Việt để giao tiếp
và phục vụ quá trình giao tiếp của học sinh.
- Phải biết trau dồi kiến thức, tìm tịi, sáng tạo, trao đổi với đồng
nghiệp, lãnh đạo để qua đó kiểm nghiệm và điều chỉnh nhận thức của mình về
nội dung, chương trình, phương pháp dạy học mới.
- Phải quan tâm tới việc đổi mới trang thiết bị của nhà trường cũng như
của cá nhân mình vì nội dung và chương trình, phương pháp dạy học mới địi
hỏi cần phải có một số đồ dùng dạy học thích hợp.
* Kết luận chung:
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 2 chúng tôi thấy rằng vấn đề “Dạy học tiếng Việt qua phân môn Luyện
từ và câu ở lớp 2” là một vấn đề làm cho nhiều giáo viên phải trăn trở và quan tâm.

23


Chương II: KHẢO SÁT NỘI DUNG PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 2
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng được nêu ở
trên là do giáo viên chưa nắm chắc nội dung của sách giáo khoa vì thế, chúng
tơi tiến hành khảo sát sách giáo khoa Tiếng Việt 2 và phân loại các kiểu bài
tập được sử dụng trong phân môn Luyện từ và câu cụ thể như sau:

Nhìn chung, kiểu bài trong phân mơn Luyện từ và câu có 4 dạng chính:
- MRVT theo chủ điểm.
- Giúp học sinh nắm nghĩa của từ.
- Quản lý, phân loại vốn từ.
- Luyện tập sử dụng từ.
1. Mở rộng vốn từ.
Trong phân môn Luyện từ và câu ở Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 loại bài
tập mở rộng vốn từ chiếm tỉ lệ cao so với các loại bài tập từ ngữ khác. Mở
rộng vốn từ ở đây là mở rộng vốn từ theo chủ điểm. Chủ điểm là các chủ điểm
học tập, là cái trục để các phân mơn trong mơn Tiếng Việt như: Chính tả, Tập
đọc, Luyện từ và câu... xoay xung quanh, hay nói cách khác các phân môn
trên tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm (trong đó, trọng tâm là các bài tập
đọc) nhằm thực hiện yêu cầu dạy học theo quan điểm tích hợp. Các chủ điểm
trong Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 là : học sinh, bạn bè, trường học, thầy cô,
ông bà, cha mẹ, anh em, các con vật nuôi (bạn trong nhà), các mùa trong năm
(bốn mùa); chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân...
Dưới góc độ dạy từ người ta nhận thấy những từ ngữ cùng chủ điểm
được hiểu là những từ ngữ cùng liên quan tới việc biểu thị một phạm vi sự
vật, hiện tượng trong thực tại khách quan. Cũng có thể hiểu những từ ngữ này
thuộc cùng một trường nghĩa, cùng một hệ thống liên tưởng, cho nên, hướng
dẫn học sinh mở rộng vốn từ theo chủ điểm có nghĩa là hướng dẫn học sinh
24


mở rộng phát triển vốn từ theo các trường nghĩa, các hệ thống liên tưởng,
cách làm này phù hợp với quy luật tích luỹ vốn từ của người bản ngữ. Dựa
vào các phương tiện làm cơ sở cho việc mở rộng vốn từ nhất là dựa vào tính
chất của mối quan hệ giữa các từ về mặt ngữ nghĩa, về mặt cấu tạo có thể chia
loại bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2
thành 3 kiểu bài chính:

+ Kiểu bài tập mở rộng vốn từ- qua tranh vẽ.
+ Kiểu bài tập mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa.
+ Kiểu bài tập mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ.
1.1 Kiểu bài tập mở rộng vốn từ qua tranh vẽ:
Ở kiểu bài tập mở rộng vốn từ qua tranh vẽ, tranh vẽ là phương tiện trực quan
có tác dụng làm chỗ dựa cho việc tìm từ, mở rộng vốn từ cho học sinh. Căn cứ vào
mức độ dễ- khó, đơn giản- phức tạp, có thể chia kiểu bài tập này thành 3 kiểu nhỏ:
a. Dạng bài tập “ nối từ cho sẵn với hình vẽ tương ứng”. Trong đó
sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 4 kiểu bài tập thuộc dạng này đó là:
Bài tập 1: Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc được vẽ dưới
đây: (các từ cho sẵn: học sinh , nhà, xe đạp, múa, trường, chạy , hoa hồng, cô
giáo) ( Tiếng Việt 2, tập 1, trang 8).
Bài tập 2: Chọn cho mỗi con vật dưới đây một từ chỉ đúng đặc trưng
của nó: Nhanh, chậm, khoẻ, trung thành ( Tiếng Việt 2, tập 1, trang 142).
Bài tập 3: Nói tên các loại chim trong những tranh sau: ( các từ cho sẵn: đại
bàng, cú mèo, chim sẻ, sáo sậu, cò , chào mào, vẹt) (Tiếng Việt 2, tập 2, trang 35).
Bài tập 4: Chọn cho mỗi con vật trong tranh vẽ bên một từ chỉ đúng
đặc điểm của nó: tị mị, nhút nhát, dữ tợn, tinh ranh, hiền lành, nhanh nhẹn
(Tiếng Việt 2, tập 2, trang 55).
Dạng bài tập này vừa có tác dụng giúp học sinh nhận biết “nghĩa biểu
vật” của từ (từ nào biểu thị sự vật, hoạt động , tính chất nào) vừa có tác dụng
giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ. Đây là hình thức luyện tập về từ ở
25


×