Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chỉ ra sự giống và khác nhau trong cách hiểu về quyền lực nhà nước giữa tác giả Nguyễn Minh Đoan trong bài viết “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” và tác giả Nguyễn Văn Năm trong bài viết “Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều củ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.14 KB, 13 trang )


MỞ ĐẦU
Quyền lực nhà nước là một đề tài rộng, là vấn đề vơ cùng phức tạp của chính trị
học và khoa học pháp lí, cần xem xét nó dưới nhiều góc độ khác nhau. Về vấn
đề này, mỗi tác giả đều có những cách nhìn nhận, những quan điểm khác nhau.
Tuy nhiên, giữa những quan điểm ấy cũng có khá nhiều nét tương đồng với
nhau. Cụ thể, hai bài viết “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” của tác
giả Nguyễn Minh Đoan và bài viết “Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung
một số điều của Hiến pháp năm 1992” của tác giả Nguyễn Văn Năm đều nêu lên
một số ý kiến, quan điểm của riêng cá nhân tác giả về quyền lực nhà nước. Sau
đây, em xin trình bày quan điểm cá nhân của em về hai bài viết trên. Dưới đây là
bài làm của em, do nhận thức còn chưa đầy đủ nên trong bài làm có nhiều thiếu
sót mong thầy cơ sẽ góp ý, hướng dẫn để bản thân em có cái nhìn tốt hơn về vấn
đề và để bài làm có thể hồn thiện hơn!
NỘI DUNG
A.Tóm tắt nội dung bài viết “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước”
của tác giả Nguyễn Minh Đoan.
Trong bài viết “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” của tác giả
Nguyễn Minh Đoan có nêu lên một số quan điểm, ý kiến như sau:
1.Định nghĩa về quyền lực và một số đặc điểm của quyền lực trong xã hội:
Quyền lực được xem là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá
nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình.
Quyền lực được phát sinh từ nhu cầu tổ chức hoạt động chung, nhu cầu phân
công lao động xã hội và quản lí xã hội, là điều kiện và phương tiện cần thiết
khách quan bảo đảm sự hoạt động bình thường của bất kì cộng đồng xã hội nào.
Quyền lực thể hiện mối quan hệ chỉ huy-lệ thuộc hoặc mệnh lệnh-phục tùng.
Sức mạnh của nó được xác định ở mức độ phụ thuộc, phục tùng của chủ thể
dưới quyền đối với ý chí của chủ thể có quyền mà trong đó cưỡng chế là yếu tố
của nội dung quyền lực, là phương pháp mang tính quyết định để thực hiện
quyền lực có sự kết hợp chặt chẽ với phương pháp thuyết phục.



Mỗi chủ thể thường nằm trong nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau, chủ thể
là người có quyền lực trong quan hệ quyền lực này có thể trở thành người dưới
quyền trong quan hệ quyền lực khác và ngược lại.
Quyền lực có quan hệ mật thiết với hoạt động quản lí, bởi hoạt động quản lí chỉ
có thể đả bảo sự thống nhất ý chí của nhiều cá nhân nhằm thực hiện những công
việc chung là nhờ vào điều kiện không thể thiếu là quyền lực.
2.Khái niệm quyền lực nhà nước và một số đặc điểm của quyền lực nhà
nước qua các điều kiện lịch sử:
Quyền lực nhà nước là dạng quyền lực xã hội mang tính ý chí, gắn liền với chủ
quyền quốc gia, được thể hiện thông qua những định chế nhà nước – pháp luật.
Quyền lực nhà nước mang tính giai cấp và mục đích chính trị rõ ràng, nó ln
thuộc về giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ cho lợi ích giai cấp thống trị. Nhà
nước là tổ chức trực tiếp mang quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước được
biểu hiện cụ thể ở hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và những nguyên tắc
vận hành của hệ thống đó tạo nên cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.
Cơ chế quản lí nhà nước được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển
của nền văn minh nhân loại và được cụ thể hóa ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào
điều kiện khách quan và chủ quan ở mỗi thời kì phát triển:
Khi quyền lực tối cao của nhà nước tập trung trong tay một người (chế độ quân
chủ chuyên chế) thường dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền. Những
tình trạng phân quyền cát cứ, địa phương chủ nghĩa, không tập trung thống nhất
thường xuất hiện khi quyền lực nhà nước được phân định một cách khu biệt
trong các vùng lãnh thổ khác nhau trong đất nước.
Quyền lực nhà nước trong kiểu nhà nước tư sản ở trung ương được chia thành
nhiều quyền mà chủ yếu là chia thành ba quyền (quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp) giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau ở trung ương
nắm giữ và thực hiện, nhờ vậy các loại quyền lực này có thể kiểm soát và chế



ước lẫn nhau nhưng tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực
vẫn thường xuyên xảy ra.
Quyền lực nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc
tập trung thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước một cách hợp lí.
3.Quyền lực nhà nước ở nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay:
Theo quy định của Hiếp pháp và các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước của nước
ta hiện nay thì ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền lực của mình (ủy quyền) cho
Quốc hội và hội đồng Nhân dân các cấp nhưng quyền lực tối cao của nhà nước
được trao cho Quốc hội. Quốc hội thay mặt Nhân dân cả nước quyết định những
vấn đề cơ bản, trọng đại nhất của đất nước. Các cơ quan khác của nhà nước đều
do Quốc hội và hội đồng Nhân dân trực tiếp thành lập hoặc gián tiếp thành lập
và các cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hội đồng Nhân dân
các cấp, phải báo cáo công tác với Quốc hội và hội đồng Nhân dân.
Tuy nhiên, nói ở nước ta chủ thể quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là để chỉ
cái gốc, điểm xuất phát của quyền lực nhà nước từ nhân dân. Nhà nước mới
chính là chủ thể trực tiếp mang và thực hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, có thể
nói quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng tập trung ở cơ quan đại diện
cao nhất (Quốc hội).
Quyền lực nhân dân thì khơng thể phân chia nhưng quyền lực mà các cơ quan
nhà nước mang và thực hiện (quyền lực nhà nước) thì có thể phân chia được
theo đơn vị lãnh thổ giữa trung ương và địa phương hoặc giữa các cơ quan nhà
nước theo chiều ngang.
Quyền lực nhà nước ở nước ta không phân chia nhưng trong quá trình thực hiện
quyền lực nhà nước thì giữa các cơ quan nhà nước phải có sự phân công, phối
hợp với nhau.
4.Quan điểm về nguyên tắc phân quyền ở các nhà nước tư sản:



Một số nhà khoa học cho rằng quyền lực nhà nước là không thể phân chia. “Ba
thứ quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp được đề cập trong thuyết “Tam
quyền phân lập” không phải là quyền lực mà là sự phân chia giữa các chức năng
của quyền lực nhà nước”. Nguyên tắc phân quyền trong hoạt động của bộ máy
nhà nước tư sản chỉ là nguyễn tắc tổ chức- kĩ thuật, quyền lực vẫn tập trung vào
tay giai cấp.
Mỗi cơ quan nhà nước đều thể hiện quyền năng của mình ở chỗ trong phạm vi
thẩm quyền của mình, cơ quan nhà nước có thể ban hành các văn bản pháp luật;
có thể địi hỏi các tổ chức và các cá nhân có liên quan phải thực hiện văn bản
pháp luật mà mình ban hành. Từ những trình bày đó cho thấy chỉ có thể nói chủ
quyền (quyền lực) Nhân dân thì khơng thể phân chia nhưng quyền lực mà các cơ
quan nhà nước mang và thực hiện (quyền lực nhà nước) là có thể phân chia theo
đơn vị lãnh thổ từ trung ương tới địa phương hoặc giữa các cơ quan nhà nước
theo chiều ngang.
5.Sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước CHXHCN Việt Nam
hiện nay:
Quyền lực nhà nước ở nước ta là tập trung thống nhất nhưng giữa các cơ quan
nhà nước có sự phân công, phối hợp với nhau:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
lập pháp; quyết định các vấn đề trọng đại nhất đất nước; bầu và bãi nhiệm những
người đứng đầu các cơ quan cao nhất của nhà nước; thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với tồn bộ hoạt động Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đồng thời là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện quyền hành
pháp.
Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Trong những vụ án đặc biệt
quan trọng, Quốc hội có thể quyết định thành lập toàn án đặc biệt để xét xử.



Chủ tịch nước có quyền cơng bố luật.
Viện kiểm sát chỉ được phân công kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ cấp bộ trở
xuống.
Ủy ban Nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và đồng thời là
cơ quan chấp hành hội đồng Nhân dân.
6.Hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đảm bảo tính hiệu quả
trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước cần tập trung vào những vấn
đề sau:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về việc tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước của Nhân dân; cần nghiên cứu kĩ lưỡng, nhận thức chính xác về quyền
lực nhà nước để tìm ra cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm
sự kiểm soát của Nhân dân đối với nhà nước vừa hợp pháp lại vừa có hiệu quả
cao trong việc bảo vệ và mang lại hành phục cho Nhân dân.
Cải tiến công tác bầu cử làm cho quá trình bầu cử thực sự dân chủ, để Nhân dân
có thể lựa chọn được người đại diện cho mình, thay mặt Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước, luôn xứng đáng với sự tin cậy của Nhân dân.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng cần phân công
chuẩn xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan nhà nước cũng như
xác định rõ mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với công dân và
giữa nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội khác trong xã hội đặc biệt là với
tổ chức Đảng. Quốc hội chỉ nên tập trung giải quyết những công iệc quan trọng,
tăng công việc cho tồn án và đề cao vị trí, vai trị của tòa án trong việc thực
hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân.
B. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong cách hiểu về quyền lực nhà nước
giữa tác giả Nguyễn Minh Đoan trong bài viết “Góp phần nhận thức về


quyền lực nhà nước” và tác giả Nguyễn Văn Năm trong bài viết “Quyền
lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992”.

1.Điểm giống nhau giữa quan điểm của hai tác giả thông qua hai bài viết:
Nhìn chung cả hai bài viết đều có những cách tiếp cận cũng như cách nhìn
nhận riêng về quyền lực nhà nước nhưng hai tác giả đều phân tích quyền lực nhà
nước dựa trên những hiện tượng, cơ chế thực hiện quyền lực trong từng thời kỳ,
điều kiện lịch sử. Dưới đây là những điểm giống nhau về quyền lực nhà nước
của hai tác giả thông qua hai bài viết trên:
1.1.Khái niệm quyền lực nhà nước và quyền lực nhà nước qua một số điều
kiện lịch sử:
Quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước có thể buộc cá nhân, tổ chức
trong xã hội phải phục tùng. Cũng như các loại quyền lực khác, quyền lực nhà
nước tồn tại trong những mối quan hệ xác định. Khả năng áp đặt ý chí của nhà
nước một phần dựa trên sức mạnh cưỡng chế ( sức mạnh bạo lực ) của nhà nước.
Ở nhà nước chủ nô, phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung vào tay một
người, vua thực hiện cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc tổ chức quyền lực
này rất dễ dẫn đến lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán.
Ở nhà nước tư sản, để chống lại sự chun quyền, độc đốn thì quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp do ba cơ quan khác nhau đảm nhiệm. Giữa các cơ quan có
sự phân cơng, phối hợp,kiềm chế và đối trọng lẫn nhau.
Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước được Nhân dân uỷ quyền, ý chí nhà
nước phải phù hợp với ý chí Nhân dân.
1.2.Quyền lực nhà nước và sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước ở Việt Nam hiện nay.
Theo quan điểm của cả hai tác giả thì, quyền lực nhà nước xuất phát từ Nhân
dân. Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp là những cơ quan đại biểu của nhân
dân, do nhân dân bầu ra. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và


thay mặt nhà nước thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề cơ
bản, quan trọng của đất nước. Quốc hội giao cho Chính phủ quyền hành pháp,
giao cho tòa án quyền tư pháp, quyền giám sát các cơ quan nhà nước từ cấp bộ

trở xuống đến mọi công dân được giao cho viện kiểm sát.
2. Điểm khác nhau giữa quan điểm của hai tác giả thông qua hai bài viết:
Qua hai bài viết, chúng ta có thể thấy rằng giữa hai tác giả có những nét khác
nhau trong quan điểm về quyền lực trong mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ
thể khác trong xã hội, điều đó được thể hiện trong những điểm khác nhau giữa
hai bài viết như sau:
2.1.Mối quan hệ quyền lực giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội:
Theo tác giả Nguyễn Minh Đoan, quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ
giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội . Quyền lực nhà nước luôn thuộc
về giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị.
Theo tác giả Nguyễn Văn Năm, trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân
luôn tồn tại song song hai dạng quyền lực là quyền lực nhà nước và quyền lực
nhân dân. Trong mối quan hệ quyền lực nhà nước, thì nhà nước là chủ thể của
quyền lực, các cá nhân, tổ chức là đối tượng của quyền lực ấy. Còn trong mối
quan hệ quyền lực nhân dân thì nhân dân lại là chủ thể của quyền lực này, khi
toàn thể Nhân dân đã thể hiện sức mạnh, ý chí của mình thì nhà nước khơng thể
khơng phục tùng vì thế ở quan hệ quyền lực này nhà nước là chủ thể dưới
quyền.
2.2.Các quan hệ quyền lực thể hiện thông qua cơ chế thực hiện quyền lực ở
các điều kiện lịch sử cụ thể:
Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Đoan, ở trong các nhà nước theo chế
độ quân chủ chuyên chế, quyền lực nhà nước được phân định một cách khu biệt
trong vùng lãnh thổ khác nhau trong đất nước ( phân chia theo chiều dọc ). Còn
theo tác giả Nguyễn Văn Năm, quyền lực nhà nước lúc này tập trung hết trong


tay nhà vua, các cơ quan từ trung ương tới địa phương chỉ đơn thuần là cơ quan
giúp việc cho nhà vua.
2.3.Quan điểm về nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước:
Tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều là

thiết chế quyền lực, mỗi cơ quan nhà nước đều thể hiện quyền năng của mình
trong phạm vi thẩm quyền của mình và theo tác giả thì quan điểm quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp chỉ là quyền năng hay nói cách khác là
một mắt xích trong việc thực hiện chức năng của nhà nước là không có cơ sở
thực tiễn. Nhưng tác giả Nguyễn Văn Năm lại ủng hộ quan điểm này, theo tác
giả thì quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là một mắt xích trong
việc thực hiện chức năng của nhà nước.
2.4.Quyền lực nhà nước ở nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Theo tác giả Nguyễn Minh Đoan, ở nước ta hiện nay, quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân nhưng tập trung ở cơ quan đại diện cao nhất đó chính là Quốc hội.
Hội đồng Nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Tác giả Nguyễn Văn Năm lại cho rằng, quyền lực nhà nước ta không phải tập
trung, thống nhất ở Quốc hội. Hội đồng Nhân dân là cơ quan đại diện Nhân dân
địa phương chứ không phải là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
2.5.Cách đưa ra vấn đề, cách lập luận:
Tác giả Nguyễn Minh Đoan phân tích quyền lực nhà nước, sự đặc biệt của nó
trong tổng thể các mối quan hệ quyền lực trong xã hội. Từ đó, tác giả đưa ra
phân tích về quyền lực nhà nước qua các điều kiện lịch sử dựa trên sự đặc biệt
đó.
Tác giả Nguyễn Văn Năm lại phân tích sự tác động qua lại trong mối quan hệ
giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội, từ đó phân tích cơ chế vận
hành bộ máy nhà nước theo hướng tác động qua lại đó.


C.Trình bày quan điểm của cá nhân về nội dung quy định tại khoản 2, Điều
2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức”.

Trước tiên, chúng ta cần hiểu được Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm
2013 đưa ra những vấn đề như sau:
Thứ nhất, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ.
Khoản 2, điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã khẳng định lại một lần nữa
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân thành lập ra và phục vụ lợi ích chính đáng của Nhân dân. Nhà nước
hình thành từ xã hội, được đại diện cho xã hội thực hiện quyền lực nhà nước vì
thế việc thực hiện quyền lực nhà nước phải được đảm bảo không ảnh hưởng tới
quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là do Nhân dân Việt Nam thành lập ra qua con đường bầu cử, được ni dưỡng
từ tiền thuế do Nhân dân đóng góp, vì thế nhà nước là của Nhân dân, phục vụ lợi
ích chung của tồn thể Nhân dân. Đây chính là một đặc trưng cơ bản của các nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.
Trong xã hội hiện đại, dù nhà nước được thành lập bằng cách nào thì quyền lực
nhà nước cũng được xem là thuộc về Nhân dân, xuất phát từ Nhân dân và phải
phục vụ lợi ích của Nhân dân. Có thể nói, Nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước, thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước, quyết định những công việc quan trọng, trọng đại nhất.
Điều này được thể hiện rõ trong hình thức Nhân dân thành lập nên Quốc hội và
Hội đồng nhân dân thông qua con đường bầu cử. Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất


nước, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích và đời sống của nhân dân. Nhân dân thể
hiện ý chí của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, qua đó,
quyền và nghĩa vụ của cơng dân được đảm bảo và cũng sẽ đảm bảo việc phát
triển của xã hội về mọi mặt.
Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 còn khẳng định tất cả quyền lực

nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ tri thức. Qua đó, vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam – đại diện cho liên minh các giai cấp trong xã hội được gián
tiếp khẳng định, từ đó, nêu cao vai trị của Đảng trong việc đưa ra đường lối,
chính sách để phục vụ lợi ích cho tồn thể Nhân dân trong xã hội. Ngồi ra, nó
cịn khẳng định sự tập trung, thống nhất quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Có thể nói, Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã nêu ra những nét
cơ bản về quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay: quyền lực nhà nước xuất phát
từ nhân dân; thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất
trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước qua đó có sự giám sát
cũng như là phân công phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Theo quan điểm cá nhân của em, việc khẳng định về quyền lực nhà nước ở trong
Hiến pháp là vơ cùng quan trọng. Nó thể hiện vai trị, trách nhiệm của Nhà nước
đối với Nhân dân hiện nay. Mặc dù có những ưu điểm nhưng vẫn cịn những hạn
chế nhất định.Việc tham gia của Nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước còn khá hạn chế cũng như cơng dân chưa có ý thức nhất định trong việc
tham gia vào đời sống chính trị. Thực tế cho thấy, dựa vào Khoản 2, Điều 2 Hiến
pháp Việt Nam 2013, cần có sự quy định rõ về việc cách thức, hình thức cũng
như phương thức kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay; quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân vì thế cách thức thực
hiện quyền lực nhà nước, sự đảm bảo việc ý chí của nhà nước đồng nhất với ý
chí của Nhân dân cũng là vơ cùng quan trọng. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt
Nam cần phải chú trọng đưa ra đường lối, chính sách để phù hợp với điều kiện


kinh tế xã hội hiện nay, đảm bảo lợi ích của Nhân dân; Nhà nước cần phải thể
chế hóa chúng thành pháp luật. Điều này thể hiện sự đồng nhất ý chí của Nhà
nước và Nhân dân ta hiện nay.
KẾT LUẬN

Như vậy, mỗi tác giả đều có những cách nhìn nhận riêng, những ý kiến, quan
điểm của riêng mình về quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
được ý nghĩa của quyền lực nhà nước trong việc quản lí đời sống xã hội của
nước ta trong thời điểm hiện nay. Nó góp một phần khơng nhỏ để đảm bảo lợi
ích chung của tồn xã hội cũng như lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trên đây là một số suy nghĩ, ý kiến và quan điểm cá nhân của em về hai bài viết
“Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước” của tác giả Nguyễn Minh Đoan và
bài viết “Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992” của tác giả Nguyễn Văn Năm. Em xin chân thành cảm ơn!

Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và

pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
2.

Nguyễn Minh Đoan (2001), Góp phần nhận thức về quyền lực nhà

nước, Tạp chí luật học, (1), 14-18.
3.

PGS.TS.Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia.
4.

PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước,


Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5.

Nguyễn Văn Năm (2001), Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung

một số điều của Hiến Pháp năm 1992, (5), 13Nguyễn Văn Năm (2001),


Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến Pháp
năm 1992, (5), 13-19.



×