Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.56 KB, 11 trang )

INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ NỀN TẢNG SỐ
Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ KHUYẾN NGHỊ

LABOUR IN THE CONTEXT OF DIGITAL PLATFORM ECONOMY
IN VIETNAM: CURRENT SITUATIONS AND RECOMMENDATIONS

TS. Phùng Thanh Quang; Đào Thị Nhật Lệ; NguyễnThị Quỳnh Trang
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân


Tóm tắt:

Mục đích của bài viết là cung cấp một cái nhìn tổng quan về thị trường lao động Việt Nam
trong bối cảnh phát triển kinh tế nền tảng số. Bài viết bắt đầu bằng một số định nghĩa cơ bản
cùng đặc trưng của kinh tế nền tảng số và lao động kỹ thuật số. Tiếp theo, bài viết trình bày thực
trạng kinh tế nền tảng số tại Việt Nam và quá trình chuyển đổi từ lao động truyền thống sang
lao động số với hai xu hướng nổi bật gồm sự giải phóng lao động ở các lĩnh vực truyền thống và
sự xuất hiện của nhiều việc làm mới. Tuy nhiên, thị trường lao động số cùng yêu cầu về ứng dụng
công nghệ mới tạo ra khơng ít thách thức cho các bên tham gia thị trường và các nhà hoạch định
chính sách. Bài viết đưa ra một số giải pháp tập trung vào mảng gọi xe công nghệ (Grab), việc
làm online trên các trang mạng xã hội, cùng một số khuyến nghị liên quan đến khung pháp lý
thử nghiệm và cơ sở dữ liệu quố cgia.
Từ khóa: Kinh tế nền tảng số, lao động kỹ thuật số, nền tảng số, thị trường lao động.
Abstract:

The purpose of this article is to provide an overview of the Vietnamese labour market in
the development of digital platform economy. The article begins with some basic definitions and
features of the digital platform economy and digital labour. Accordingly, the article presents the


current state of the digital platform economy in Vietnam and the transition from traditional to
digital labour with two prominent trends includinglabour liberationin traditional fields andthe
appearance of new types of jobs. However, digital labour market with requirements for the application of new technology has created many challenges for market participants and policy makers. The article offers a set of solutions mainly for app-based ride-hailing(Grab), online jobs on
social networking sites, along with some recommendations related to regulatory sandbox and
national database.
Keyword: Digital labour, digital platform economy, labour market, platform.

1. Giới thiệu nghiên cứu

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi cơ bản cách con người sống, làm
việc và tương tác với nhau. Đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp là đều tiến tới một
nền sản xuất thông minh hơn, giải phóng một lượng lao động khỏi các ngành nghề truyền thống
và đồng thời cũng hình thành những cơng việc mới, đòi hỏi những kỹ năng mới (Kenney & Zys724


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

man, 2016). Với các nền tảng số, công ty đa quốc gia như Uber, Grab có thể cung ứng dịch vụ
vận tải mà không cần sở hữu một chiếc taxi nào; các cửa hàng có thể bán nhiều loại sản phẩm
mà khơng cần th mặt bằng; người lao động có thể làm việc theo thời gian, địa điểm tùy chỉnh
mà khơng cần đến văn phịng… Kinh tế nền tảng số cung cấp các nền tảng (platform) cho phép
doanh nghiệp và người tiêu dùng tương tác với nhau trực tiếp trên các nền tảng đó, hình thành
nên những dịch vụ ngang hàng (peer to peer services) và không cần sự hiện diện của các tổ chức
trung gian (Xing Wan & cộng sự, 2019). Những lợi thế của kinh tế nền tảng số chủ yếu ở khả
năng tiếp cận người tiêu dùng dễ dàng, giảm các chi phí trung gian, giảm thời gian giao dịch,
định danh được cả người sản xuất và tiêu dùng góp phần giảm thiểu rủi ro khi giao dịch, mang
lại lợi ích cho cả khách hàng và doanh nghiệp (Daqing Gong & cộng sự, 2019).

Bài viết thảo luận về khái niệm, đặc điểm của kinh tế nền tảng, đặc điểm của lao động

trong bối cảnh chuyển đổi số; phân tích thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh
chuyển đổi số. Với đối tượng nghiên cứu là lao động tại Việt Nam và mục tiêu nghiên cứu là làm
rõ thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, bài viết phân loại lao
động thành hai nhóm bao gồm nhóm lao động truyền thống và nhóm lao động số gắn với q
trình chuyển đổi từ lao động truyền thống sang lao động số với hai xu hướng nổi bật gồm sự giải
phóng lao động ở các lĩnh vực truyền thống và sự xuất hiện của nhiều việc làm mới trên các nền
tảng kỹ thuật số. Bài viết chỉ ra các nhân tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của lao động trong
bối cảnh chuyển đổi số, bao gồm tự thân nhu cầu về việc làm của các nhóm lao động, sự phát
triển cơng nghệ và các chính sách liên quan đến lao động số. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số
kiến nghị nhằm phát triển lao động số trong bối cảnh kinh tế nền tảng số tại Việt Nam, chú trọng
vào các chính sách quản lý thu thuế, minh bạch hoá các giao dịch mạng và các biện pháp nhằm
bảo vệ người lao động trên các nền tảng số.
2. Tổng quan nghiên cứu về kinh tế nền tảng số và lao động trong bối cảnh chuyển đổi số

2.1. Tổng quan về kinh tế nền tảng số

Kinh tế nền tảng số là một bộ phận của nền kinh tế số - nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa
trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua internet (Phạm Việt Dũng,
2019). Kinh tế nền tảng số là nền kinh tế số mà tại đó các chủ thể tham gia thị trường tương tác
với nhau chủ yếu trên các nền tảng số (Chan &cộngsự, 2018). Những tương tác này cho phép
các thành phần tham gia tạo ra giá trị bằng việc thực hiện công việc, mua bán sản phẩm hay sử
dụng dịch vụ. Kinh tế nền tảng bao gồm hai loại: Nền tảng giao dịch (transaction platform) được
sử dụng để tối ưu hóa giao dịch giữa những người mua và người bán (Amazon, Ebay, Lazada…
); nền tảng sáng tạo (innovation platform) thực hiện vai trị là nền móng phát triển nên các nền
tảng kinh doanh và hình thành hệ sinh thái giữa các nền tảng thế hệ sau đó (Apple App Store,
Google Play…) (Chan & cộng sự, 2018). Kinh tế nền tảng số được đặc trưng bởi một số đặc
điểm khác biệt với nền kinh tế truyền thống, có thể tóm tắt như sau:

Thứ nhất là hiệu quả của mạng lưới: Các nền tảng trở nên có giá trị hơn khi có nhiều người
dùng sử dụng chúng hơn. Khi nhiều người dùng tham gia vào nền tảng, nền tảng trở nên hấp dẫn

hơn đối với những người dùng mới tiềm năng. Điều này giúp giải thích lý do tại sao một số nền
tảng lại có sự phát triển mang tính lan truyền. Có hai loại mạng lưới: (i) mạng lưới trực tiếp mà
tại đó nhiều người dùng thu hút nhiều người dùng hơn; (ii) mạng lưới gián tiếp mà tại đó khi
725


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

càng nhiều người sử dụng một phần của nền tảng (ví dụ: người dùng trị chơi điện tử) thì sẽ càng
có nhiều khách hàng cho các phần cịn lại của nền tảng (trong ví dụ này là các sản phẩm, dịch vụ
theo sau được phát triển thêm bởi nhà phát hành trò chơi điện tử). Đối với các nền tảng, quy mô
của mạng lưới không chỉ là thành quả đầu tiên mà còn là động lực để tiếp tục phát triển mạng
lưới đó. Các mạng lưới đã tồn tại trước các nền tảng trực tuyến, ví dụ điển hình là mạng điện
thoại. Ngày nay, khi mà cá nhân có quyền truy cập vào các kết nối phổ biến, được tạo điều kiện
bởi Internet và điện thoại di động trong tay, sự dễ dàng thuận tiện trong liên lạc đã làm tăng hiệu
ứng mạng. Với các nền tảng, quy mô tạo ra giá trị và thu hút thêm người dùng. Động lực này tạo
ra một động lực tự duy trì để tăng trưởng (Evans &Gawer, 2016).

Thứ hai, mang tính tương tác, có khả năng kết hợp hiệu quả hoặc linh hoạt thay đổi nhà
cung cấp và người tiêu thụ trên thị trường. Sự tham gia của cộng đồng tạo ra một kết nối chặt chẽ
hơn giữa cung và cầu, càng có nhiều người hoạt động trên các nền tảng thì sự tương tác càng gia
tăng, từ đó thể hiện rõ được nhu cầu của người mua và khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ của
người bán. Các nền tảng giao dịch khiến việc giao dịch giữa các thành phần vốn trước đây khó
có thể tiếp cận với nhau diễn ra được dễ dàng hơn, từ đó tạo ra thị trường đa bên (multi-sided
market) (Anh Vũ, 2017). Công nghệ số đã đưa người tiêu thụ vào vị trí trung tâm. Người tiêu
dùng có thể trở thành nguồn cho ý tưởng đổi mới của nhà sản xuất, với mục đích của nhà sản
xuất là duy trì hoặc mở rộng thị trường, tăng sự tiện nghi hoặc quan trọng hơn là nâng cao mức
độ bền vững của phát triển kinh tế (Alina, 2016). Khả năng truyền thông và chia sẻ ý kiến, đánh
giá với những người khác không chỉ làm thay đổi trải nghiệm mua sắm của khách hàng mà đồng

thời cũng gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín doanh nghiệp. Internet khiến người tiêu thụ trở nên
quyền năng hơn bởi họ có thể tự do đưa ra ý kiến và chia sẻ chúng (Data61|SCIRO, 2019).

Thứ ba, dữ liệu trở thành tài nguyên mới. Kinh tế nền tảng số vận hành chủ yếu dựa trên
cơng nghệ số, do đó dữ liệu đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của dữ liệu góp
phần cải thiện các dịch vụ kỹ thuật số, từ đó thu hút nhiều người dùng hơn và tối ưu hóa các dịch
vụ. Để có thể chuyển đổi, dữ liệu cần được số hóa và sau đó sử dụng các cơng nghệ như AI (trí
tuệ nhân tạo), Big Data (dữ liệu lớn) để sàng lọc, phân tích dữ liệu và tạo ra giá trị mới. Việc xử
lý thông tin, nhất là thông tin liên quan đến nhu cầu khách hàng, cho phép các doanh nghiệp cải
thiện rõ rệt các chiến lược thương mại và marketing, hay dự đốn các xu hướng tương lai, thói
quen tiêu dùng, cải thiện quan hệ với khách hàng, tăng khả năng tuyển dụng hiệu quả.

Thứ tư, tạo ra mơ hình kinh doanh và chiến lược kinh doanh mới. Các mơ hình kinh doanh
mới như e - Business, e - Commerce, e - Banking được phát triển thông qua Intranet (mạng nội
bộ) và Internet cho phép nhiều nhóm người tương tác với nhau, qua đó tạo ra những ảnh hưởng
tích cực cho cả mạng lưới và nâng cao hiệu quả nhờ giảm chi phí giao dịch (Alina, 2016). Hiện
nay, đã xuất hiện nhiều mơ hình kinh doanh hồn tồn khác biệt so với truyền thống như các
hãng truyền thơng tồn cầu nhưng khơng sở hữu quyền tác giả của một tin tức nào, hãng taxi
tồn cầu nhưng khơng sở hữu chiếc xe nào, hãng khách sạn tồn cầu nhưng khơng sở hữu phịng
khách sạn nào, đã và đang góp phần định hình nên một thời đại kinh tế mới. Kinh tế nền tảng số
cũng thay đổi ý nghĩa của việc lãnh đạo các tổ chức, buộc người đứng đầu phải suy nghĩ lại về
chiến lược, mơ hình kinh doanh, khả năng lãnh đạo, cấu trúc tổ chức, cách hệ thống tạo ra và
nắm bắt giá trị (Evans &Gawer, 2016).
726


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Thứ năm, tạo ra sự hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh. Sự hợp tác xảy ra khi các hình thức

cạnh tranh giữa những nhà sản xuất bị thay đổi hoàn toàn bởi sự ưu tiên dành cho người tiêu
dùng cùng với sự thay đổi liên tục và nhanh chóng về nhu cầu, thị hiếu của thị trường (Alina,
2016). Trên thực tế, tại các ngành, các lĩnh vực đã xuất hiện các liên minh giữa nhiều hãng và
doanh nghiệp như liên minh hàng không (Star Alliance, SkyTeam vàOneWorld), từ đó phát triển
lên liên minh hàng khơng hàng hố (WOW Alliance, SkyTeam Cargo, ANA/UPS Alliance), hay
liên minh khách sạn (GHA).
2.2. Tổng quan về lao động trong bối cảnh chuyển đổi số

Lao động kỹ thuật số là hình thức lao động được đặc trưng bởi việc sản xuất ra giá trị thông
qua tương tác và sử dụng công nghệ thông tin. Lao động kỹ thuật số có các hình thức khác nhau
từ nền tảng cung cấp công việc theo yêu cầu, công việc vi mô (các công việc nhỏ trong một dự
án lớn) và sáng tạo nội dung cho các nền tảng kỹ thuật số như truyền thông xã hội. Thị trường
lao động kỹ thuật số là các trang web hoặc nền tảng số tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất,
giao thương và mua bán nội dung, sản phẩm kỹ thuật số hoặc các ý tưởng và hàng hóa khác xuất
hiện từ môi trường kỹ thuật số và công nghệ (Data61|SCIRO, 2019). Hình 1 cho thấy một số loại
hình công việc được hỗ trợ bởi nền tảng lao động kỹ thuật số. Một số nền tảng lao động kỹ thuật
số dựa trên web, cung cấp công việc cho đám đông (công việc vi mô hoặc công việc sáng tạo)
hoặc cung cấp việc làm trực tiếp cho các cá nhân sử dụng thị trường việc làm tự do. Ngoài ra,
cũng có dịch vụ dựa trên vị trí và dựa trên ứng dụng, hầu hết các công việc này được giao cho
các cá nhân (vận chuyển, giao hàng và dịch vụ cho hộ gia đình) với một sốít được cung cấp cho
đám đông (công việc vi mô tại địa phương).

Nguồn: Berg & cộng sự (2018)

Hình 1: Phân loại các nền tảng lao động kỹ thuật số

727


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020

ICYREB 2020

Lao động kỹ thuật số có đặc điểm cơ bản là được quản lý bằng thuật toán. Quản lý theo
thuật tốn có thể đượ chiểu là “cơng việc của con người được giao, tối ưu hóa và đánh giá thơng
qua các thuật toán và dữ liệu được theo dõi” (Berg & cộng sự, 2018). Trên các nền tảng lao động
kỹ thuật số, quản lý theo thuật tốn vượt ra ngồi việc chỉ đạo công việc và lên lịch để kiểm sốt
hầu hết các khía cạnh của cơng việc. Quản lý theo thuật toán bao gồm bốn đặc điểm: (1) Liên tục
theo dõi hành vi của người lao động; (2) Đánh giá liên tục hiệu suất của người lao động bằng
đánh giá của khách hàng; (3) Thực hiện các quyết định tự động mà khơng có sự can thiệp của
con người; (4) Đòi hỏi tương tác của người lao động với một “hệ thống”.
3. Thực trạng kinh tế nền tảng số và lao động trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam

3.1. Thực trạng kinh tế nền tảng số tại Việt Nam

Năm 2020 được chính phủ Việt Nam lựa chọn là năm chuyển đổi số quốc gia, hướng tới
một chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số. Trên thực tế, Việt Nam đang là quốc giadẫn đầu
khu vực Asean về tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực kinh tế số. Trong khitốc độ tăng trưởng trung
bình của Asean là 33%/năm trong giai đoạn 2015-2019, kinh tế số Việt Nam tăng trưởng với tỷ
lệ 38%/năm trong cùng giai đoạn và đóng góp 5% GDP quốc gia (Teamasek, 2019). Kinh tế nền
tảng số tại Việt Nam bao phủ nhiều lĩnh vực, trong đó có một số lĩnh vực chủ yếu là:

Gọi xe công nghệ: Các dịch vụ phương tiện giao thông công nghệ như Grab, Go Viet sử
dụng định vị tự động, từ đó khách hàng có thể đặt xe và yêu cầu đưa đến một địa điểm cụ thể
được thực hiện một cách nhanh chóng. Với phương thức đặt xe này thì dịch vụ yêu cầu xe tối ưu
hóa q trình kết hợp lái xe cơng nghệ và khách hàng. Không những chỉ cung cấp dịch vụ thông
thường như đặt xem là loại hình kinh doanh này cịn mở rộng thêm các dịch vụ khác như đặt đồ
ăn, giao hàng, thanh tốn hóa đơn và đang phát triển thêm nhiều dịch vụ phục vụ nhu cầu cho
khách hàng.

Dịch vụ tài chính: Trong lĩnh vực tài chính, nền tảng số được thể hiện dưới các ứng dụng

như Moblie Banking, QR Code, ví điện tử, ngân hàng số và đặc biệt là các nền tảng số được xây
dựng bởi các công ty Fintech. Xuất hiện tại Việt Nam vào năm 2008, cho đến nay thì Fintech
ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo ra các mơ hình kinh doanh mới như cho vay ngang
hàng (peer to peer lending), huy động vốn cộng đồng (crowdfunding) (Solidiance, 2018). Việt
Nam hiện có khoảng 200 cơng ty Fintech đang hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, với quy
mô thị trường Fintech đạt 4.4 tỷ USD giá trị giao dịch vào năm 2017 và dự kiến sẽ đạt đến 7.8 tỷ
USD vào năm 2020.

Dịch vụ du lịch: Các nền tảng số trong lĩnh vực du lịch, lưu trú giúp khách hàng đặt phịng
hay th nhà một cách nhanh chóng, tiện lợi và an tồn. Điển hình là mơ hình Airbnb, tham gia
vào thị trường Việt Nam từ năm 2014, có mặt chủ yếu ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số
thành phố lớn khác. Theo báo cáo “Homesharing Viet Nam Insights”, năm 2014 chỉ có vài nghìn
phịng cho th nhưng đến 2019 số lượng phòng đã lên đến 40.804 cơ sở và tốc độ tăng trưởng
số lượng phòng ở các điểm du lịch nổi tiếng luôn đạt ở mức cao. Không chỉ Airbnb mà các ứng
dụng khác như Luxstay, Booking, Travelmob cũng phát triển mơ hình đặt phịng chia sẻ nhằm
tối ưu hóa lợi ích của cả chủ nhà và người thuê nhà.
Các lĩnh vực khác: Ngoài các nền tảng điển hình trên thì cịn có nhiều nền tảng khác như
Sendo, Shopee - mua bán hàng hóa, Netflix - xem phim hay Youtube - sáng tạo nội dung. Có thể
728


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

khẳng định, việc phát triển các nền tảng số đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các cá nhân,doanh nghiệp
và toàn bộ nền kinh tế. Sự bùng nổ của nền tảng số cũng tạo ra những việc làm mới, đảm bảo
việc làm cho người lao động và góp phần giải quyết vấn nạn thất nghiệp trong bối cảnh dịch
covid 19 còn diễn biến phức tạp.
3.2. Thực trạng lao động trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam


Trong bối cảnh chuyển đổi số, cơ cấu lao động củaViệt Nam cũng đang có sự chuyển dịch
rõ nét. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến cuối năm 2019, ngành thu hút nhiều lực lượng lao động
nhất là nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy hải sản, chiếm tới khoảng 18,8 triệu lao động. Phân theo
khu vực thì lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 16,9 triệu người, chiếm 34,7%
tổng số lao động. Theo giới tính thì lực lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động đạt 22,3 triệu
người, chiếm 45,6% tổng số lao động. Theo nhóm nghề thì nhóm “lao động giản đơn” thu hút
hơn 18 triệu người, chiếm 33,6% tổng số lao động. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm 2018, lao
động thuộc nhóm nghề này giảm 5,2% là 1 triệu người, nhóm nghề “chun mơn kỹ thuật bậc
trung” giảm 15,4% tương ứng 320.000 người. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy sự chuyển
dịch chất lượng lao động theo hướng tăng lao động chuyên môn cao và giảm dần lao động bậc
trung, lao động giản đơn. Theo hình thức lao động thì lao động làm công hưởng lương chiếm
26,1 triệu người, lao động tự do và lao động gia đình chiếm tỷ trọng lần lượt là 35,1% và 13,8%,
tương ứng giảm 0,4 % và 1,0 % so với cùng kỳ năm trước.

Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển các nền tảng số, nhiều
cơng việc mới được hình thành trên các nền tảng số, dẫn đến sự dịch chuyển từ lao động truyền
thống sang lao động trên nền tảng số. Điển hình là các lĩnh vực: (1) Vận tải hành khách cá nhân.
Trong lĩnh vực này, ứng dụng gọi xe công nghệ đang dần thay thế các hãng taxi truyền thống.
Nhiều hãng taxi lớn đã liên tục báo lỗ do khơng cạnh tranh được vớicác hãng xe cơng nghệ. Theo
báocáotàichínhhợpnhấtCơng ty CP tậpđoàn Mai Linhnăm 2019, lợi nhuận sau thuế chưa phân
phối trên bảng cân đối kế toán hợp nhất của hãng taxi Mai Linh là âm 1.039 tỷ đồng. Các hãng
xe cơng nghệ có những cải tiến vượt bậc hơn so với taxi truyền thống về giá thành minh bạch và
rẻ hơn, nhanh hơn và thích nghi tốt hơn với những biến động của thị trường. (2) Hình thức bán
hàng online hay livestream bán hàng cũng ngày càng phát triển, chiếm miếng bánh thị phần ngày
càng lớn so với hình thức bán hàng truyền thống trực tiếp tại cửa hàng. Khơng cần bỏ ra chi phí
để th mặt bằng nên việc bán hàng Online được nhiều người lựa chọn, giúp người bán có thể
giảm giát hành và người mua cũng có thể được tiêu dùng sản phẩm với giá cả hợp lý hơn. (3)
Các ứng dụng dịch vụ cho hộ gia đình như JupViec.vn hay bTaskee giúp việc nhà theo giờ đã tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động. Thay vì tìm người giúp việc theo truyền thống thì qua các
ứng dụng, khách hàng có thể biết một số thơng tin cá nhân cũng như uy tín và đánh giá từ khách

hàng cũ về người đó, tạo nên sự tin tưởng và giao dịch nhanh chóng.

Bên cạnh việc chuyển dịch lao động truyền thống sang lao động số, các nền tảng số cũng
tạo thêm nhiều cơ hội việc làm phong phú cho người lao động, là một cơ hội lớn cho lao động
Việt Nam đặc biệt là các bạn trẻ tìm kiếm cơng việc u thích, tăng thêm thu nhập như: (1) Dịch
vụ đặt phòng, thuê nhà. Chủ nhà cho thuê phòng xuất phát từ nhu cầu chia sẻ căn phịng trống
trong gia đình để có thêm thu nhập. Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng phòng cho thuê của
Airbnb đã khiến nhiều chuyên gia và chủ khách sạn, đặc biệt là khách sạn có uy mơ nhỏ lo ngại.
729


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

(2) Nền tảng Youtube kết nối người sáng tạo nội dung và khán giả của mình là người xem các
video trên Youbute. Nội dung đăng tải đa dạng và thu hút nhiều lượt xem nên làm Youtuber được
nhiều bạn trẻ lựa chọn để có thêm thu nhập. Tại Việt Nam có rất nhiều kênh được người xem ưa
thích như về phim ngắn có Faptv, SMV; về ẩm thực có các kênh như Quỳnh Trần JP, Ẩm thực
mẹ làm, bà Tân Vlog; kênh về du lịch như Khoa Pug, Vũ Khắc Tiệp offical, Khoai Lang Thang
và rất nhiều kênh với nội dung phong phú khác. Ngày càng nhiều bạn trẻ lựa chọn trở thành
Youtuber - một nghề kiếm tiền như những nghề khác và có tiềm năng rất lớn trong tương lai với
yêu cầu cao về độ sáng tạo.(3) Nền tảng game kết nối người chơi game với hau thậm chí tổ chức
các buổi thi đấu như một loại hình thể thao, từ đó kiếm được thu nhập từ quảng cáo và giải đấu.
Điều này dẫn đến việc chơi game không chỉ là thú vui giải trí mà cịn là một hình thức chơi game
nghiêm túc, chun nghiệp và coi đó như một nghề cần đầu tư chất xám không những về đồ họa
trong game mà còn phương thức chơi game (Caneron A. Pham T& Atherton J, 2018). Tính riêng
năm 2019, Việt Nam đứng thứ 28 trong tổng số 100 quốc gia về phát triển các nền tảng game với
tổng doanh thu khoảng 367 triệu USD (NguyễnVăn Hùng, 2020).
4. Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển lao động trong bối cảnh kinh tế nền tảng số tại
Việt Nam


Có thể khẳng định, kinh tế nền tảng số đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, thay đổi phương
thức sản xuất, tiếp thị, thay đổi cách tương tác giữa người sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh những
mặt tích cực, sự phát triển của các nền tảng số cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với cơ quan quản lý
nhà nước như việc thất thu thuế đối với hoạt động bán hàng online, thất thu thuế đối với thu nhập
của các Youtuber; thiếu hụt lao động có trình độ cơng nghệ cao; thiếu sự kiểm soát với nhiều nền
tảng sáng tạo nội dung online; thiếu các chính sách về bảo vệ người lao động trên các nền tảng
số. Ở cấp độ doanh nghiệp, việc đầu tư hạ tầng công nghệ chưa thực sự đồng bộ, nhiều doanh
nghiệp tiên phong chuyển đổi số đã gặp nhiều khó khăn khi kết nối với hệ thống dữ liệu quốc
gia. Một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vẫn có tâm lý duy trì hệ thống quản trị thủ công,
không muốn chuyển đổi số theo hướng cơng khai, minh bạch. Có thể khẳng định, chuyển đổi số
và phát triển kinh tế nền tảng số là xu thế tất yếu, để phát triển cả về số lượng và chất lượng lao
động trong bối cảnh chuyển đổi số, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị với chính phủ và các
cơ quan chức năng nhằm minh bạch hóa hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro cho người lao
động trên các nền tảng số. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, tích cực triển khai thu thuế đối với các hình thức bán hàng online trên hạ tầng
kỹ thuật số, cụ thể ngoài các trang thương mại điện tử, cần tập trung đến các trang mạng xã hội.
Cụ thể cần: (1) Phối hợp giữa ngành Thuế với Bộ Công thương, BộThông tin - Truyền thông,
đơn vị quản lý các trang mạng xã hội (Facebook, Google, Youtube…) để nắm danh sách các website, các tài khoản của các tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội;
(2) Phối hợp giữa ngành Thuế với Cơ quan Công an đề nghị cung cấp cho Cơ quan Thuế các
website thương mại có hoạt động kinh doanh chưa kê khai nộp thuế; (3) Phối hợp giữa ngành
Thuế với Ngân hàng để đề nghị Ngân hàng Nhà nước cung cấp bảng sao kê tài khoản của các cá
nhân, tổ chức có kinh doanh qua Facebook, hay các tài khoản kiếm ra tiền trên Youtube; (4) Phối
hợp giữa ngành Thuế với các đơn vị cung ứng vận chuyển để nắm được số lượng hàng hóa vận
chuyển, doanh thu thu hộ (nếu có) của từng tổ chức, cá nhân để cơ quan thuế rà sốt đối chiếu,
từ đó thu thuế; (5) Ngành thuế phối hợp với các nhà mạng và đại diện Facebook quản lý Việt
730



INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Nam để chặn tài khoản đối với những chủ tài khoản kinh doanh online có doanh số lớn nhưng
khơng chấp hành các nghĩa vụ thuế.

Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox) để tạo điều kiện cho các nền tảng lao động kỹ thuật số. Dưới góc độ pháp lý, Sandbox là
việc tạo ra một khơng gian thuận lợi với khung chính sách pháp lý riêng (nằm ngoài hoặc vượt
khung pháp lý hiện tại) để tiến hành thử nghiệm những khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới. Đối tượng
điều chỉnh của Regulatory Sandbox thường là các sản phẩm tài chính sáng tạo, sản phẩm ứng
dụng cơng nghệ và mơ hình kinh doanh mới, áp dụng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp có ứng
dụng công nghệ (Fintech, Blockchain…) hay doanh nghiệp kinh doanh theo mơ hình kinh tế mới
(kinh tế chia sẻ, kinh tế nền tảng số). Khi thí điểm Sandbox, cần đảm bảo số lượng doanh nghiệp
tham gia vừa đủ để đánh giá tác động sâu rộng, nhưng cũng không nên quá nhiều và trùng lặp về
mơ hình kinh doanh để tránh lãng phí nguồn lực. Đối tượng doanh nghiệp tham gia cũng cần có
sự chọn lọc kỹ. Đặc biệt, cũng nên có những chế tài khống chế về không gian, thời gian hay thị
phần nhất định trong khn khổ thí điểm Sandbox, tránh để vài doanh nghiệp trong cơ chế thí
điểm chiếm những thị phần lớn (do đang được hưởng các cơ chế pháp lý mở) mà tạo ra sự bất
bình đẳng trong kinh doanh. Ngoài ra, đối với mảng gọi xe cơng nghệ, cần sớm hồn thiện, ban
hành Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ về kinh
doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ơ tơ để có khung pháp lý minh bạch, cân bằng
giữa kinh doanh vận tải theo phương thức truyền thống và kinh doanh vận tải ứng dụng công
nghệ 4.0

Thứ ba, cần sớm nghiên cứu, ban hành các Nghị định về chia sẻ dữ liệu; về xác thực điện
tử; về bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân tham gia nền tảng số; về
chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước và chế độ bảo mật thông tin. Để thực hiện
điều này, cần hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng. Cùng với việc xây
dựng các thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt
là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai...; và cần tiến hành xây dựng nền tảng tích hợp, chia

sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi, nhận
văn bản điện tử; hệ thống xác thực định danh điện tử; liên thông giữa các hệ thống chứng thực
chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng... để bảo đảm dữ liệu, thông tin
được thông suốt giữa các cấp, các ngành của Chính phủ.

Thứ tư, khơng chỉ bảo vệ người lao động trên các giao dịch qua mạng, còn cần phải chú
trọng đến sự an toàn trong các giao dịch đòi hỏi tương tác giữa người với người. Để thực hiện
được điều đó, Chính phủ và các cơng ty bảo hiểm cần hoàn thiện các sản phẩm bảo hiểm cho
người lao động số. Cụ thể hơn, về vấn đề an tồn tính mạng của các tài xế cơng nghệ, các nền
tảng công nghệ cần thường xuyên nhắc nhở, cập nhật các khu vực có tình hình an ninh phức tạp
cũng như triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao an toàn cho cả tài xế và khách hàng. Tiếp tục
phát triển các tính năng bảo mật thơng tin như tính năng gọi điện thoại miễn phí thơng qua ứng
dụng nhưng không hiển thị số điện thoại người gọi, giảm thiểu đến mức thấp nhất việc gọi điện/
nhắn tin làm phiền sau khi đã kết thúc chuyến xe, hay các giải pháp tập trung vào việc hướng
dẫn an toàn cho tài xế, sử dụng phím gọi khẩn cấp S.O.S giúp tài xế/ khách hàng kết nối trực tiếp
với đường dây nóng 113 của Cảnh sát trong trường hợp khẩn cấp. Hoàn thiện hố các tính năng
giúp nhận diện những hành vi lái xe khơng an tồn, ví dụ chạy q tốc độ, chuyển hướng đột
731


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

ngột, thắng gấp hoặc tăng tốc đột ngột, sau đó hướng dẫn cho tài xế cách cải thiện; tính năng
cảnh báo tài xế lái xe trong tình trạng mệt mỏi (Driver Fatigue): tài xế sẽ nhận được cảnh báo
trong ứng dụng rằng họ đã chạm đến “ngưỡng” mệt mỏi, và được nhắc nhở nên nghỉ ngơi để
đảm bảo lái xe an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh


1. ABI Research (2019), Grab and GO-JEK reinventing on – demand mobility to go beyond
ridesharing for sustained profitability.

2. Alina (2016), ‘Trends and Dimensions of Digital Economy’, Annals - Economy Series,
Constantin Brancusi University, Faculty of Economics.

3. Berg &cộngsự (2018), ‘Digital labour platforms and the future of work Towards decent
work in the online world’, International Labour Office, Geneva.

4. Caneron A. Pham T & Atherton J (2018), ‘Vietnam Today – first report of the Vietnam’s
Future Digital Economy Project’, CSIRO, Brisbane.

5. Casilli (2016), ‘Is There a Global Digital Labor Culture?’, Marginalization of Work,
Global Inequalities, and Coloniality, 2nd symposium of the Project for Advanced Research in
Global Communication (PARGC), Annenberg School for Communication, University of Pennsylvania (USA).

6. Chan & cộng sự (2018), ‘The rise of the platform economy’, Deloitte, truy cập tại
/>7. Evans (2019), ‘Essential Principles for the Design of Antitrust Analysis for Multisided
Platforms’, Forthcoming Journal of Antitrust Enforcement, truy cập tại SSRN:
hoặc />8. Evans & Gawer (2016), ‘The Rise of the Platform Enterprise: A Global Survey’, The
Emerging Platform Economy Series No. 1, The Center for Global Enterprise.

9. Fuch & cộng sự (2013), ‘What is Digital Labour? What is Digital Work? What’s their
Difference? And why do these Questions Matter for Understanding Social Media?’ tripleC

10. Fumagalli & cộngsự (2018), ‘Digital Labour in the Platform Economy: The Case of
Facebook’, Sustainability, MDPI, Open Access Journal.

11. Graham & cộng sự (2017), ‘Digital labour and development: impacts of global digital

labour platforms and the gig economy on worker livelihoods’, E tui, truy cập tại
/>
12. Gong & cộng sự (2019), ‘Who benefits from online financing? A sharing economy Etailing platform perspective’.

13. Horton & cộng sự (2017), ‘Digital Labor Markets and Global Talent Flows’, Working
Paper
17-096,
Harvard
Business
School,
truy
cập
tại
732


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

/>14. Kenney &Zysman (2016), ‘The rise of the platform economy’, Deloitte

15. Marvit (2014), ‘How Crowdworkers Became the Ghosts in the Digital Machine’, The
Nation., truy cập tại />16. Research insight report (2019), ‘HomesharingVietNam Insights Report’

17. Statisa Research Department (2020), Digital advertising expenditure in Vietnam from
2015 to 2018 with forecasts until 2020.

18. Steen & cộng sự (2019), ‘The knowledge-intensive platform economy in the Nordic
countries’, Economics Norway and the Research Foundation Fafo, Nordic Innovation, truy cập
tại />19. Solidiance (2018), Unlocking Vietnam’s Fintech Growth Potential.


20. Ted Choe (2016), ‘The rise of the sharing economy: Impact on the transportation space’.
Deloitte, truy cập tại />21. Teamasek & cộng sự (2019), ‘E-Conomy SEA 2019’, Swipe up and to the right: Southeast Asia’s $100 billion Internet economy
22. TopDev (2019), 2019 VietNam Developer Report, Nguyen HuuBinh.

23. UNCTAD (2019), ‘Digital economy report 2019’, United nations conference on trade
and development, Sirimance& a team comprising Torbjörn Fredriksson

24. Worldbank (2019), Individuals using the Internet (% of population), truy cập tại
/>
25. Xing Wan & cộng sự (2019), ‘Exploring service positioning in platform – based market’, International Journal of Production Economics
Tài liệu tiếng Việt

1. Anh Vũ (2017), ‘Kinh tế nền tảng đang khẳng định vị thế’, Thời báo Kinh tế Sài Gòn
online, truy cập tại />
2. Báo cáo tài chính hợp nhất Cơng ty Cổ phần tập đồn Mai Linh và các Cơng ty con
(2019)
truy
cập
tại
file:///C:/Users/1/Downloads/00.%20BCTC%20HN%20tom%20tat%20daky.pdf

3. Báo Công thương (2020), ‘Kinh tế số là nhân tố then chốt thúc đẩy năng suất lao động’,
truy cập tại />
4. Chu Thị Hoa (2020), ‘Phản ứng chính sách của Việt Nam đối với mơ hình kinh tế chia
sẻ’, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.

5. Chu Thị Hoa (2020), ‘Sandbox – cơ chế thử nghiệm áp dụng trong phạm vi hạn chế 733



INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý cho Việt
/>
Nam’,

truy

cập

tại

6. Data61|SCIRO (Cơ quan chuyên nghiên cứu về số liệu và công nghệ số thuộc Tổ chức
khoa học quốc gia Australia) & Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2019), ‘Báo cáo Tương
lai kinh tế số Việt Nam: hướng đến năm 2030, 2045 ’tại Hội nghị “Khoa học, Công nghệ và Đổi
mới sáng tạo – Một trụ cột cho Phát triển Kinh tế - Xã hội của Việt Nam”, Hà Nội.

7. IDG (2019), Diễn đàn ngân hàng bán lẻ Việt Nam năm 2019 (Vietnam Retail Banking
Forum), truy cập tại />
8. Nguyễn Văn Hùng (2020), ‘Quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong
những năm tới’, Sở nội vụ tỉnh Bắc Giang.

9. Phạm Việt Dũng (2020), ‘Kinh tế số - cơ hội “bứt phá” choViệt Nam’, Hội đồng lý luận
Trung Ương, Tạp chí cộng sản, truy cập tại />10. Phan Diệu Thu Hà, Nuôi lớn mơ hình kinh doanh bằng hệ sinh thái, truy cập tại
/>
11. Tổng cục thống kê (2019), Lao động và cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc hàng năm phân theo ngành kinh tế (*) chia theo Ngành, Phân tổ và Năm, truy cập tại
h t t p s : / / w w w. g s o . g o v. v n / p x - w e b - 2 / ? p x i d = V 0 2 3 9 40&theme=D%C3%A2n%20s%E1%BB%91%20v%C3%A0%20lao%20%C4%91%E1%BB%9
9ng


734



×