Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.49 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Mơn học: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI
ĐỒN KẾT TƠN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trương Thị Mỹ Châu
Lớp: Thứ 7, tiết 13 - 14
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Tô Trường Thịnh

19145469

2. Nguyễn Minh Khôi

19145411

3. Đinh Ngọc Ảnh

19145341

4. Trương Quang Huy

19145396

5. Nguyễn Thiện Hiếu


19145115

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.........3
1.1 Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc.................................................................................................. 3
1.2 Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết tồn dân của Hồ
Chí Minh........................................................................................ 5
1.3 Những nội dung cơ bản tư tưởng đoàn kết quốc tế của chủ tịch
Hồ Chí Minh................................................................................11
1.4 Ý nghĩa của tư tưởng đại đồn kết dân tộc.............................13
Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở
nước ta hiện nay.................................................................................14
2.1 Tổng quan về tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay...............14
2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại
đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện nay............................................17
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đồn
kết tơn giáo ở nước ta hiện nay....................................................19
KẾT LUẬN............................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................24


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đồn kết tồn dân

tộc đã trở thành di sản vơ giá, truyền thống quý báu, một động lực to lớn để dân
tộc ta vượt qua khó khăn để tồn tại và phát triển. Đại đoàn kết dân tộc là một
trong những bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một tư tưởng lớn của
chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được các Đại hội của Đảng ta liên tiếp khẳng định và
nêu cao. Sự nghiệp đổi mới ngày càng phát triển quá trình hội nhập của nước ta
vào nền kinh tế thế giới ngày càng đẩy mạnh thì ý nghĩa của bài học nói trên
càng có tính thời sự sâu sắc. Vì vậy, yêu cầu thấm nhuần và vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là một điều kiện không thể thiếu
để giúp chúng ta tìm ra những đối sách phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục
tiến lên giành những thắng lợi mới. Tuy nhiên, thực tế một lần nữa chứng minh
rằng, vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải được xem xét và giải quyết tận gốc rễ trên
quan điểm thực sự khoa học và cách mạng. Đòi hỏi phải xuất phát từ sự nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nắm vững lý luận về vấn đề đại đoàn kết dân tộc,
từ đó chúng ta mới có thể nắm được thực chất của chủ trương thực hiện vấn đề
đại đoàn kết dân tộc, chính sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những vấn đề đó, đề
tài đi sâu nghiên cứu và làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đồn
kết dân tộc, từ đó vận dụng vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở
nước ta hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất vận dụng
1


vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện nay, đồng thời đưa
ra một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương pháp
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lơgic
và lịch sử đặc biệt là các phân tích tổng hợp gắn với lý luận thực tiễn để thực
hiện đề tài.

2


Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1 Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1.1 Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh thần yêu nước gắn liền
với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước trở thành truyền thống bền vững, thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn người Việt Nam
Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn ngàn năm lịch sử, gắn liền
với yếu tố cố kết cộng đồng dựng nước và giữ nước. Để tồn tại và phát triển, dân
ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên tục, trị thủy các con sông lớn, cải
tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước. Văn minh nơng nghiệp trồng lúa nước
chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của những người cùng sống trên
một dải đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng một tâm lý. Nghĩa là cố
kết thành dân tộc.
Mặt khác, dân ta phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại bang
hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết chặt muôn người như một, chống xâm
lược tạo nên truyền thống đoàn kết quý báo của dân tộc. Yêu nước, nhân nghĩa,
trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, lấy dân làm
gốc, coi trọng lòng khoan dung độ lượng, hịa hiếu, khơng gây thù ốn, cố kết
cộng đồng đã trở thành tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam. Chủ
nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư
duy chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước: “Nước
mất thì nhà tan, giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.”

Bác tổng kết: “Dân tộc ta có một lịng nồng nàn u nước, đó là truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước…”
3


1.1.2 HCM kế thừa tư tưởng đoàn kết trong kho tàng văn hóa nhân loại
Bác gạn đục khơi trong, tiếp thu tư tưởng đại đồng, nhân ái, thương người
như thương mình, nhân, nghĩa, trong học thuyết Nho giáo.
Tiếp thu tư tưởng lục hòa, cư xử hòa hợp giữa người với người, cá nhân với
cộng đồng, con người với môi trường tự nhiên của phật giáo (năm điều cấm: nói
dối, sát sinh, tà dâm, uống rượu, trộm cướp).
Tiếp thu tư tưởng đồn kết của Tơn Trung Sơn, nhất là Chủ nghĩa Tam dân,
chủ trương đồn kết 400 dịng học người Trung Quốc, không phân biệt giàu
nghèo, chống thực dân Anh, chủ trương liên Nga, dung Cộng, ủng hộ công
nông.
1.1.3 Sự tổng kết những kinh nghiệm thực tế của phong trào cách mạng
Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
Người thấy các phong trào chống Pháp của dân ta tuy rầm rộ nhưng đều thất
bại, do không quy tụ được sức mạnh của cả dân tộc. . . Người thấy được những
hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối. (Phan Bôi
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học. . . đều yêu nước thương dân, nhưng
về tập hợp lực lượng thì các bậc tiền bối này đều có vấn đề, cho nên tập hợp
không được rộng rãi, không đầy đủ, cho nên khơng thể chiến thắng kẽ thù). Ví
dụ như cụ Phan Bội Châu chủ trương tập hợp 10 hạng người chống pháp: Phú
Hào, Quý Tộc, Nhi nữ, Anh sĩ, Du đồ, Hơi đảng, Thơng ngơn, Kí lục, Bồi bếp,
Tín đồ thiên chúa giáo nhưng thiếu Công nhân, Nông dân.
Đi khắp các thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc, nhưng chưa thấy dân tộc nào làm
cách mạng giải phóng thành công, do thiếu sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết tổ

chức đoàn kết lực lượng.
Nghiên cứu cách mạng tháng 10, người thấy nổi bật bài học về đoàn kết tập
hợp lực lượng cơng nơng để làm cách mạng giành chính quyền và bảo vệ chính
4


quyền cách mạng non trẻ, đánh tan sự tấn công của 14 nước đế quốc và bọn
Bạch Vệ, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
1.1.4 Tiếp thu quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê Nin về đoàn kết lực lượng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin phát hiện ra quy luật xã hội là sản xuất vật chất, nhờ
đó phát hiện ra vai trị quyết định sự phát triển xã hội của quần chúng nhân dân.
Sự vận động của xã hội luôn gắn với một giai cấp nhất định mà giai cấp đó
đứng ở một trung tâm của thời đại. Thời đại ngày nay giai cấp công nhân là giai
cấp đứng ở trung tâm thời đại mới, có lợi ích phù hợp với lợi ích của nông dân
và các giai tầng lao động khác, vì thế giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng, tổ chức đoàn kết mọi giai tầng xã hội, đoàn kết cả dân tộc, cả quốc
tế, các dân tộc bị áp bức để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản.
Để đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng, trước hết phải thiết lập liên minh cơng
nơng, lấy đó làm nịng cốt, sau đó sẽ đồn kết rộng rãi mọi lực lượng bên trong
và bên ngoài.
Bác viết: Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể, là tấm gương sáng ngời
về tinh thần đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng trên thế giới vào cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
1.1.5 Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Là người có lịng u nước thương dân vơ bờ bến, trọng dân, tin dân, kính
dân, hiểu dân, trên cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Người ln chủ
trương thực hiện dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy người được dân
u, dân tin, dân kính phục. Đó chính là cơ sở của mọi tư tưởng sáng tạo của Hồ

Chí Minh, trong đó có tư tưởng đại đoàn kết của Người.
5


1.2 Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết tồn dân của Hồ Chí
Minh
Một là, Đảng Cộng sản có vai trị to lớn trong khối đại đồn kết dân tộc.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt
trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng
lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc
đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ
vang của dân tộc ta".
Từ khi Đảng ra đời, đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là bộ phận hữu
cơ trong đường lối cách mạng của đảng, chỉ có đồn kết mới có sức mạnh đưa
cách mạng tới thành công.
Cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được rộng rãi lực lượng
quần chúng thì sẽ khơng thể thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân thực hiện âm mưu
chia để trị, vậy ta phải đồn kết mn người như một, phải thực hiện chữ “đồng”
thì mới thành cơng.
Hai là, phát huy vai trị của Nhà nước với đồn kết toàn dân tộc.
Ba là, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân
nước Việt trong nước và ngồi nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
1.2.1 Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, quyết định thành cơng của cách
mạng
Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Người có ý nghĩa chiến lược. Đó là một tư
tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.


6


Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp lực lượng dân tộc. Tập hợp mọi lực
lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với
những đối tượng khác nhau
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đồn
kết xi chiều, hình thức, đồn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt.
Người viết: "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những
cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt Minh: Dân ta
phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh".
1.2.2 Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng.
Đại đồn kết dân tộc chính là địi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân.
Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh
vơ địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh
phúc cho con người.
Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng
cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ
bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập
hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ
đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Đại đồn kết dân

tộc là một chính sách chứ khơng thể là một thủ đoạn chính trị. Đảng phải có sứ
mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát
7


của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vơ địch của cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh cho
rằng yêu nước phải thể hiện ở thương dân, khơng thương dân thì khơng có tinh
thần u nước.
1.2.3 Đại đoàn kết là đại đoàn kết toàn dân
Khái niệm "dân" của Hồ Chí Minh: "Dân" theo Hồ Chí Minh là đồng bào, là
anh em một nhà. Dân là không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu, nghèo. Dân là
toàn dân, toàn thể dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số, có đạo,
khơng có đạo, tất cả những người sống trên dải đất này. Như vậy dân theo Hồ
Chí Minh có biên độ rất rộng, vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa được hiểu là
toàn thể đồng bào, nhưng dân không phải là khối đồng nhất, mà là một cộng
đồng gồm nhiều giai tầng, dân tộc có lợi ích chung và riêng, có vai trị và thái độ
khác nhau đối với sự pháp triển xã hội. Nắm vững quan điểm giai cấp của MácLênin, Hồ Chí Minh chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là những giai cấp cơ
bản, vừa là lực lượng đông đảo nhất, vừa là những người bị áp bức bóc lột nặng
nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là gốc của cách mạng. Vai trị của
dân: Hồ Chí Minh chỉ rõ dân là gốc của cách mạng, là nền tảng của đất nước, là
chủ thể của đại đoàn kết, là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
Phương châm: đại đồn kết theo Hồ Chí Minh là ai có tài, có đức, có lịng
phụng sự tổ quốc và nhân dân, thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ thì ta thật thà đồn kết với họ.
Ba nguyên tắc đoàn kết:
+ Muốn đoàn kết thì phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân, tránh phân biệt giai
cấp đơn thuần, cứng nhắc, không nên phân biệt tơn giáo, dân tộc, cần xóa bỏ
thành kiến, cần thật thà đồn kết rộng rải. Người thường nói: Năm ngón tay có
ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy mươi triệu


8


người cũng có người thế này người thế khác, dù thế này, thế khác cũng đều là
dòng dõi của tổ tiên ta.
+ Muốn đại đoàn kết phải khai thác yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm
khác biệt giữa các giai tầng dân tộc, thế giới. . . Theo Hồ Chí Minh, đã là người
Việt nam (trừ Việt gian bán nước) điều có những điểm chung: Tổ tiên chung, nịi
giống chung, kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, nguyện vọng chung là độc lập,
tự do, hịa bình thống nhất… giai cấp và dân tộc là một thể thống nhất, giai cấp
nằm trong dân tộc và phải gắn bó với dân tộc, giải phóng giai cấp cơng nhân là
giải phóng cho cả dân tộc.
+ Phải xác định rõ vai trò, vị trí của mỗi giai tầng xã hội, nhưng phải đồn kết
với đại đa số người dân lao động (Cơng nhân, Nông dân, Tri thức, các tầng lớp
lao động khác . . .), Người chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu trong khối đồn kết dân
tộc là cơng nơng, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất”. Về sau Người có nêu thêm: lấy liên minh cơng nơng – lao động trí
óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố
vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng có thể mở rộng, khơng e ngại bất
cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đồn kết dân tộc.
1.2.4 Đại đồn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo
Đồn kết là vấn đề chiến lược, sống cịn, khơng phải là tập hợp ngẫu nhiên,
cảm tính, tự phát, mà được xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học. Do đó
phải có tổ chức, lãnh đạo để hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Cả dân tộc, toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, sức mạnh vô địch khi
được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, và được tổ chức thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trịđúng đắn. Nếu khơng thế
thì quần chúng dù đơng nhưng cũng chỉ là số đơng khơng có sức mạnh. Thất bại
của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ vấn đề này.


9


Sau khi tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh ln quan tâm tới việc hình
thành các tổ chức để tập hợp mọi lực lượng, giai tầng cho phù hợp với yêu cầu
của cách mạng, trong đó Mặt trận Dân tộc Thống nhất là tổ chức rộng rãi nhất.
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền
tảng liên minh công nông (sau đó là liên minh cơng- nơng- lao động trí óc), dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Mặt khác Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với
đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”.Tự nâng cao tinh thần phê bình và
tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt để củng cố đoàn kết
nội bộ.
Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có
tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Khối đại đoàn kết dân tộc phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ
chức thành khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn.
Và đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới
tính, ngành nghề, tơn giáo, phù hợp với từng bước phát triển của phong trào
cách mạng. Ví dụ có hội hữu ái, hội công, hội nông, hội phụ nữ,… Mặt trận dân
tộc thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Trong từng thời kỳ
mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt trận chính trị rộng rãi tập
hợp đơng đảo các lực lượng phấn đấu vì hồ bình, vì mục tiêu của dân tộc. Đây
là điểm khác nhau về cơ bản so với mọi phong trào chống pháp trước đây.
Đảng là thành viên của mặt trận, nhưng là lưc lượng lãnh đạo Mặt trận, là linh
hồn khối đại đoàn kết, Đảng là đảng giai cấp công nhân Việt Nam, vừa là đảng
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương
tâm, danh dự của dân tộc.
Đảng phải là bộ phận trung thành nhất, có năng lực lãnh đạo, có đường lối

đúng mới xứng đáng địa vị lãnh đạo mặt trận. Đảng cần tuyên truyền giáo dục,
10


nêu gương, lấy lịng chân thành để cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, có thái
độ tơn trọng các tổ chức đoàn thể mặt trận, biết lắng nghe người ngoài Đảng.
Trong Đảng phải xiết chặt đoàn kết, Đảng viên phải biết giữ gìn sự đồn kết nhất
trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
1.2.5 Đồn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc
thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết
sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hồn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Tư tưởng
đại đồn kết khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, khơng phải là sách lược
mà là vấn đề mang tính chiến lược. Người xác định “đoàn kết là lẽ sinh tồn dân
tộc ta, lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập tự do,
trái lại thì nước ta bị xâm lấn. Đoàn kết trên lập trường giai cấp cơng nhân nghĩa
là bao hàm cả đồn kết quốc tế, tạo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc với lợi ích
quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta muốn
thành cơng địi hỏi phải đồn kết quốc tế để tạo sức mạnh đồng bộ và tổng hợp.
Thực hiện đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh quan tâm đoàn kết cách mạng nước ta
với các phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, với các phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước trên thế giới, các phong trào đấu tranh cho hịa bình,
dân chủ tiến bộ. Người đặc biệt chú trọng xây dựng khối đoàn kết 3 nước đông
dương, mặt trận Việt Nam – Lào – Campuchia, mặt trận nhân dân thế giới đoàn
kết với Việt Nam.
1.3 Những nội dung cơ bản tư tưởng đoàn kết quốc tế của chủ tịch Hồ Chí
Minh


11


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong
phú, rộng lớn; được thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán, kiên định qua nhận
thức, quan điểm và hành động của Người. Đáng chú ý một số điểm như sau:
Thứ nhất, đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan, một vấn đề có tính
ngun tắc, là chiến lược xun suốt, nhất qn và có vai trị, vị trí, ý nghĩa quan
trọng đối với cách mạng Việt Nam
Tiếp bước con đường đi ra thế giới của các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh; rút kinh nghiệm từ thất bại của những phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX; nhờ những trải nghiệm trong thời
gian sinh sống, lao động ở nước ngoài; qua hoạt động với tư cách đảng viên
Đảng Xã hội Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và nhất là nhận được nguồn
cổ vũ lớn từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh là
người đầu tiên và duy nhất xác định rõ ràng nền tảng, nhân tố quan trọng cho
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là đoàn kết, hội nhập với thế giới.
Trong quan điểm của Người, thân phận bất hạnh của đa số “người bị bóc lột”,
người lao động nghèo ở các nước là cơ sở chính hình thành nên “tình hữu ái”, sự
đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới; đoàn kết quốc tế là yếu tố quan trọng làm
nên sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng ở Việt
Nam nói riêng.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về mục tiêu của đồn
kết quốc tế. Đó là, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước và kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp, vì quốc gia, dân tộc và
vì nền hịa bình của khu vực và trên thế giới. Với Hồ Chí Minh, “sức mạnh, sự
vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân
Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới… Sự đồn kết quốc tế có một ý
nghĩa to lớn với chúng tôi”.

12


Thứ ba, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết quốc tế, để thực sự tạo nên sức
mạnh, phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản:
1) không phân biệt, bình đẳng, cùng có lợi
2) tơn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau
3) phải phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh”, dựa vào sức của mình là chính
4) có lý, có tình
Trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa cùng
Chính phủ các nước trên thế giới ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sẵn sàng
đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ
quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ
hịa bình và xây đắp dân chủ thế giới”. Người khẳng định: “Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước
nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau,
không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có
lợi, và chung sống hịa bình”. Đây là thơng điệp về hịa bình, hợp tác, hữu nghị,
tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhau của nhân dân Việt Nam với thế
giới. Đây cũng là tư duy, tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, đồn kết quốc tế, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề tập hợp lực lượng
là rất quan trọng. Lực lượng đoàn kết quốc tế, theo tư tưởng của Người, rất
phong phú song tập trung chủ yếu vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
phong trào hịa bình, dân chủ thế giới. Hồ Chủ tịch đã thành cơng khi gắn cuộc
đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự do, cơng lý và
bình đẳng để tập hợp và tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên
thế giới. Đồng thời, trong việc mở rộng lực lượng đồn kết quốc tế, Người cịn
xác định rõ vai trò quan trọng của các quốc gia láng giềng, các nước lớn.
13



Có thể khẳng định, tư tưởng về đồn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
những định hướng, nền tảng, cơ sở lý luận quan trọng cho việc hoạch định và
thực thi đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam, là ánh sáng soi đường của
đối ngoại Việt Nam.
1.4 Ý nghĩa của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
Chính quyền ở nhiều cấp, nhiều địa phương đã thật sự có chuyển biến trong
nhận thức và hành động về quan hệ với nhân dân. Nhiều dự án về phát triển kinh
tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm chăm lo đời sống cho
nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được
phát huy. Sự đổi mới hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống
xã hội, nhất là việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần
quan trọng vào việc động viên nhân dân và cán bộ hăng hái tham gia các sinh
hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phịng. Đó là những nhân tố
rất quan trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội và thúc
đẩy sự phát triển của đất nước.
Tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đảm bảo thế và lực cho đất nước trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Đại đồn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa quyết định. Đại đoàn kết
dân tộc trước hết nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài: ngược lại, mở cửa,
hội nhập quốc tế nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tang lên. Thực
hiện đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại sẽ là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách
mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

14



Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta
hiện nay
2.1 Tổng quan về tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo cùng tồn tại lâu đời
trong lịch sử của dân tộc. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân
tộc, truyền thống u nước, truyền thống văn hóa và ln đồng hành cùng dân
tộc cả trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta ln khẳng định chủ trương, chính sách nhất
qn là tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín
ngưỡng tơn giáo của đồng bào các dân tộc.
Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Khơng ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
để vi phạm pháp luật. Trên thực tế, mọi tơn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ, được tự do hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Tuyệt nhiên không một tôn giáo nào hoạt động đúng
pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm.
Chức sắc, tín đồ các tơn giáo ln gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương
châm “Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm trong
lòng dân tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm trịn bổn phận của tín đồ đối với
tôn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng tồn dân đẩy mạnh
thực hiện cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn sinh động đó đã, đang được khẳng định qua những
thành tựu đã đạt và được nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Thế
nhưng, các thế lực thù địch cùng các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí lại ra sức
15



tung tin xun tạc, bịa đặt về tình hình tơn giáo tại Việt Nam. Đánh giá đó là sự
xuyên tạc một cách trắng trợn về tự do tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam.
Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như những thơng tin mà dân biểu Cơ-rít X-mít
đưa ra, rồi cáo buộc Việt Nam là đúng sự thật khách quan và khơng phải xuất
phát từ động cơ chính trị xấu nào hay chỉ là sự lặp lại những định kiến, áp đặt
chủ quan cũ rích, bất chấp những thành tựu về tự do tơn giáo ở Việt Nam. Có thể
khẳng định ngay rằng, hồn tồn khơng phải như vậy, mà thực chất là họ đã và
đang lợi dụng vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo để chống phá các nhà nước
khơng thân thiện với họ, trong đó có Việt Nam. Mục đích của họ khơng có gì
khác là nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Một số phần tử cơ hội chính trị ở trong nước đã ngay lập
tức “tát nước theo mưa”, lợi dụng lòng tin của nhân dân để thực hiện các động
cơ chính trị đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, kích động quần chúng chống
phá, gây rối an ninh trật tự, tạo các “điểm nóng” về chính trị, v.v.
Dù họ có phớt lờ hoặc cố tình khơng nhận thấy thì sự phát triển và những
thành tựu về tơn giáo ở Việt Nam tự nó đã làm bẽ mặt những kẻ lâu nay vẫn rắp
tâm chống phá. Trong những năm qua, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã nỗ
lực thực hiện một cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đến việc
triển khai thực hiện việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo cho nhân
dân. Như vậy, quan điểm nhất quán của Đảng ta khơng chỉ tơn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào mà cịn đánh giá
cao vai trị, vị trí của các tơn giáo đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều
này đã phản bác các luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là
vô thần và chủ trương diệt trừ tôn giáo.
Không chỉ dừng lại ở việc hồn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ Việt Nam
đã cụ thể hóa và đưa những quy định đó vào hiện thực cuộc sống. Đến nay, theo
số liệu thống kê, cả nước đã có 12 tơn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà
16



nước thừa nhận hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, với hơn 100.000 chức sắc
và nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ, chiếm 1/3 dân số
cả nước. Bên cạnh đó, việc học tập, đào tạo của các tôn giáo cũng được phát
triển nhanh. Việc in ấn, xuất bản kinh sách được Nhà nước quan tâm, hầu hết
các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng u cầu hoạt động của
các

tơn

giáo.

Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tơn giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn
1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo. Năm 2011, đã diễn ra Đại lễ kỷ niệm 30
năm Ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam với sự tham gia của hàng
nghìn tăng ni, phật tử trong nước và trên 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ nhiều
quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngồi ra, quan hệ đối ngoại của các tơn giáo cũng
được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là quan hệ với các tổ
chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tịa thánh Va-ti-căng, góp
phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo
của Đảng và Nhà nước cũng như tình hình tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Việt
Nam. Những con số biết nói nêu trên là bằng chứng sinh động bác bỏ những
luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tơn giáo tại Việt Nam.
Cần thấy rằng, tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề mang tính văn hóa, tư tưởng, sự
vận động và phát triển của nó gắn liền với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội, lịch sử, hệ tư tưởng, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, nên không thể sao
chép “tiêu chuẩn” tôn giáo của quốc gia, dân tộc này cho quốc gia, dân tộc khác
và càng không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan của một chủ thể nào đó từ bên
ngồi. Song, lợi dụng điều đó để vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo như đối với

Việt Nam là điều không thể chấp nhận được. Nhân đây, cũng cần nhắc lại
rằng, nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các thế lực thù địch và
những kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước

17


Việt Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này là nhằm xóa bỏ vai
trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vì ý đồ đen tối đó, chúng sẽ cịn xun tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn
đề khác nhằm bơi đen và hạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm đã và sẽ là một
trong những thứ vũ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu
xuyên tạc của chúng.
2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đồn kết
tơn giáo ở nước ta hiện nay
Một là, các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của
Hiến pháp và Pháp luật Nhà nước Việt Nam. Điều này cũng giống như ở các
quốc gia khác và phù hợp với thông lệ quốc tế. Không có một tổ chức, cá nhân
nào ở bất kỳ một quốc gia nào lại được hoạt động tự do ngoài vịng pháp luật
của quốc gia đó.
Các tơn giáo ở Việt Nam được Nhà nước Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện đáp
ứng những nhu cầu tôn giáo căn bản:
+ Tự do sinh hoạt tôn giáo
+Bảo hộ nơi thờ tự; xây mới nơi thờ tự
+Có trường đào tạo giáo sĩ, cho đi đào tạo ở nước ngồi
+Có kinh sách, ấn phẩm tôn giáo
+Được giao lưu quốc tế
Hai là, một tôn giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ
những tiêu chí căn bản: có tín đồ tự nguyện tin theo; có giáo sĩ hướng dẫn việc

đạo; có tơn chỉ mục đích hoạt động khơng trái với pháp luật Nhà nước; có hệ
18


thống giáo lý, giáo luật phù hợp; có nơi thờ bảo đảm vệ sinh, an tồn; khơng
hoạt động mê tín dị đoan làm tổn hại đến tinh thần, vật chất, sức khoẻ của tín đồ
và làm ảnh hưởng đến những quyền căn bản của người khác và phải đăng ký
hoạt động với các quan Nhà nước có thẩm quyền. Những tổ chức tôn giáo không
đáp ứng đủ những yêu cầu trên đều khơng được hoạt động. Xin được nói rõ, đó
là đối với tổ chức, cịn tín đồ thì hồn tồn tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia
đình và nơi thờ tự hợp pháp.
Ba là, Nhà nước Việt Nam chỉ quan tâm đến tư cách, phẩm chất công dân của
những người lãnh đạo các tôn giáo, không can thiệp vào trình độ tơn giáo của
những người đó. Thực tế này được thể hiện trong quan hệ Việt Nam - Vatican
những năm qua về việc bổ nhiệm các giám mục ở Việt Nam.
Bốn là, từ trước tới nay, Việt Nam khơng xử tù, giam giữ, quản chế hành
chính bất kỳ một nhân vật tơn giáo nào vì lý do tơn giáo. Mọi cơng dân Việt
Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật
đối với bất kỳ một công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, bất kể người đó
theo tơn giáo hay không theo tôn giáo và xử lý bằng pháp luật mọi hành vi lợi
dụng tôn giáo, mạo danh tôn giáo để gây rối trật tự xã hội, phương hại đến an
ninh quốc gia, tổn hại tinh thần, vật chất, sức khoẻ của công dân.
Năm là, các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các
hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan
chuyên môn.
Sáu là, Nhà nước Việt Nam không tịch thu bất cứ tài sản nào của các tơn giáo
ngoại trừ nếu các tài sản đó được sử dụng như một công cụ nhằm phục vụ cho
các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, chống lại Nhà nước và nhân dân.
Bảy là, các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu
quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Rất nhiều các tổ chức tôn giáo quốc tế đã

19


vào Việt Nam giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam mà khơng bị cản trở
gì. (Các Dịng tu Công giáo quốc tế, một số Hội đồng Giám mục các nước, các
tổ chức Phật giáo, Tin lành nước ngoài...).
Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc, khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồn kết đồng
bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân tộc với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng
bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín
ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Động
viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế-xã hội, an ninh,
quốc phịng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong
đó có đồng bào các tôn giáo.
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đồn kết tơn
giáo ở nước ta hiện nay
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội có một niềm tin vào lực lượng siêu
trần thế, là kết quả của sự phản ánh hư ảo đời sống hiện thực của con người
nhưng lại có sức mạnh chi phối hoàn toàn cuộc sống hàng ngày của con người.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Với vị trí có
đường bờ biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế
giới về văn hóa và tơn giáo.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi
một dân tộc có tín ngưỡng tơn giáo riêng. Với loại hình đa tơn giáo, ở nước ta
hiện nay có 6 tơn giáo ngoại nhập và 6 tôn giáo nội sinh với 33 tổ chức đã được
công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động hợp pháp dưới sự bảo hộ của pháp luật.


20


Các tôn giáo ngoại nhập vào Việt Nam là Phật giáo, Đạo Công giáo, Đạo Hồi,
Đạo Tin lành, Đạo Minh Sư, Đạo Baha’i.
Một là, nâng cao nhận thức tư tưởng về vấn đề đồn kết tơn giáo trong tình
hình

mới

Cần nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng theo tơn
giáo về ý nghĩa, vai trị của cơng tác đồn kết tơn giáo trong thời kỳ mới. Mặc
dù đất nước ta đang trong thời kỳ hoà bình, phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, nhưng các thế lực thù địch trong và
ngoài nước ln tìm mọi thủ đoạn để chống phá sự nghiệp đổi mới và cuộc sống
hồ bình thống nhất của dân tộc ta. Do vậy, đồng bào các tôn giáo, các dân tộc
phải đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng mới tạo ra sức mạnh tổng hợp
để đưa nước ta thốt khỏi tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, vươn lên sánh vai với
các quốc gia trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Hai là, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay
Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: Tơn trọng tự do tín ngưỡng
và khơng tín ngưỡng của dân, đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường
trên cơ sở tơn trọng pháp luật, nghiêm cấm xâm phạm tự do tín ngưỡng và
khơng tín ngưỡng. Thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân tộc.
Quan điểm của Đảng về tôn giáo được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013:
“Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo theo hoặc khơng theo một tơn
giáo nào. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và
bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo. Khơng ai được xâm phạm tự do, tín

ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để vi phạm pháp luật”.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với các tơn giáo ở Việt Nam đã tìm được sự đồng
thuận, gắn bó tơn giáo với xã hội. Phương châm hành đạo của các tôn giáo đã
21


phản ánh rõ điều đó. Phật giáo: Đạo giáo, Dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công
giáo: Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào. Tin
Lành: Sống phúc âm, phụng Thiên Chúa, Phục vụ Tổ quốc. Cao Đài: Nước vinh,
Đạo sáng. Hòa Hảo: Phụng đạo yêu Nước, gắn bó với Dân tộc.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tơn giáo và vai trị
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay.
Những năm qua, cùng với việc kiện toàn Ban Tôn giáo các cấp, nhiều địa
phương đã bổ sung, tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo. Song thực tế cho thấy, đa số cán bộ làm công tác tôn giáo chưa được đào
tạo cơ bản, hệ thống về công tác tôn giáo. Do vậy, các cấp ủy, chính quyền phải
tăng cường cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo, giúp họ có
kiến thức cơ bản về tơn giáo, tín ngưỡng, nắm vững pháp luật về tôn giáo để
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Bốn là, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo
Chăm lo đến phần đời của đồng bào có đạo chính là chăm lo đến đời sống vật
chất và cả đời sống tinh thần của đồng bào. Hiện tượng đồng bào dân tộc thiểu
số ở Tây Bắc, việc đồng bào Tây nguyên theo đạo Tin lành với số lượng lớn
trong thời gian ngắn có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về đời
sống kinh tế khó khăn, đời sống tinh thần nghèo nàn.
Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần có sự quan tâm và đầu tư đặc biệt hơn nữa để đồng
bào theo đạo có điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.
Coi trọng sự bình đẳng của những người có tín ngưỡng tơn giáo hay khơng có
tín ngưỡng tơn giáo trước pháp luật, lợi ích của tơn giáo phải thống nhất và phục
tùng lợi ích của Nhà nước. Cộng đồng tôn giáo nằm trong cộng đồng dân tộc.

Tôn trọng sinh hoạt tôn giáo, nhưng cần phê phán kịp thời những hành vi tôn
giáo trái pháp luật, đi ngược lại văn hố, phản đạo đức, có hại đến tính mạng con
người, khích bác các tơn giáo khác hoặc chia rẽ nội bộ dân tộc, chống các âm
22


mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng, gây rối an ninh, trật tự xã hội của
các lực luợng thù địch trong và ngoài nước. Đồng thời, cần xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ tham
gia quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tôn giáo.
Năm là, thực hiện bình đẳng giữa các tơn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo đạo
Coi trọng sự bình đẳng của những người có tín ngưỡng tơn giáo hay khơng có
tín ngưỡng tơn giáo trước pháp luật, lợi ích của tơn giáo phải thống nhất và phục
tùng lợi ích của Nhà nước. Cộng đồng tơn giáo nằm trong cộng đồng dân tộc.
Tôn trọng sinh hoạt tôn giáo, nhưng cần phê phán kịp thời những hành vi tơn
giáo trái pháp luật, đi ngược lại văn hố, phản đạo đức, có hại đến tính mạng con
người, khích bác các tôn giáo khác hoặc chia rẽ nội bộ dân tộc, chống các âm
mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng, gây rối an ninh, trật tự xã hội của
các lực luợng thù địch trong và ngoài nước. Đồng thời, cần xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ tham
gia quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tơn giáo.
Để tăng cường đồn kết tơn giáo, phải làm tốt công tác vận động quần chúng,
đưa quần chúng tham gia trực tiếp vào công cuộc xây dựng đời sống mới, xoá
bỏ hàng rào ngăn cản giữa người có đạo và khơng có đạo; làm cho các tín đồ và
chức sắc nhận rõ âm mưu và thủ đoạn đen tối của bọn phản động, tự đấu tranh
chống lại chúng, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của mình, bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
Sáu là, kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập
tan âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của lực lượng thù địch

Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo và
tự do khơng tín ngưỡng tôn giáo, mọi hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, và đều có nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tự do tín ngưỡng tơn giáo khơng có nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm

23


×