Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.62 KB, 24 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁCH THỨC DẠY TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
MỤC LỤC

TRANG

A. Đặt vấn đề (Lý do chọn đề tài)………………………………………………2
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………..2
2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................4
5. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................................4
B. Giải quyết vấn đề (Nội dung sáng kiến kinh nghiệm).............................................4
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề ……………………………………………….4
1.1. Khái quát chung về tự sự ……………………………………………………...4
1. 2. Đặc điểm của tác phẩm tự sự………………………………………………….5
Chương 2: Cơ sở thực tiễn (thực trạng của vấn đề)………………………………....7
Chương 3: Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề………………………..8
3. 1. Biện pháp giải quyết ………………………………………………………….8
3. 2. Nội dung và phương pháp thực hiện…………………………………………..9
3.2.1 Khâu chuẩn bị bài ở nhà ……………………………………………………..9
3.2.2 Khâu giảng trên lớp ………………………………………………………….9
3.2.2.1 Phần kiểm tra bài cũ ………………………………………………………..9
3.2.2.2 Phần dạy bài mới …………………………………………………………10
3.2.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi………………………………………………21
3.3. Đánh giá kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm ……………………………...22
3. 3.1 Kết quả kiểm nghiệm ………………………………………………………22
3. 3.2 Nguyên nhân thành công và tồn tại ………………………………………...22
3. 3.3 Bài học kinh nghiệm ……………………………………………………….23


C. Kết luận……………………………………………………………………….23
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra
như một yêu cầu cấp thiết được toàn Đảng, toàn dân đặc biệt quan tâm. Nghị quyết
TW2 khố VIII và kết ḷn của hợi nghị TW6 khố IX nêu rõ : “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói
quen nề nếp, tư duy sáng tạo của người học”.
Từ yêu cầu đó, trong những năm qua Bợ GD- ĐT đã từng bước có những cải
tiến tích cực như việc cải cách chương trình, thay sách giáo khoa, tổ chức các lớp
bồi dưỡng đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên, đổi mới cách thức ra đề
thi…Đặc biệt, gần đây nhất là tập huấn về cách thức dạy học theo chuẩn kiến thức,
kĩ năng và cách ra đề theo ma trận; dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh. Nhờ đó, trong cơng tác giảng dạy, kiểm tra đánh giá nói riêng và giáo dục
nói chung đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học trong phần lớn giáo
viên cịn chuyển biến chậm do thói quen vận dụng các phương pháp dạy học truyền
thống, do ngại thay đổi, do chưa thực sự tâm huyết với nghề hoặc nên chưa có sự
vận dụng, đổi mới phương pháp dạy học. Bên cạnh đó, cịn có sự chi phối của yếu
tố khách quan là: ngành Giáo dục - Đào tạo chưa thực sự có nhiều lớp bồi dưỡng
đổi mới phương pháp dạy học thật căn bản, cụ thể cho giáo viên, cho nên nhiều
giáo viên còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong phương pháp giảng dạy.
Hơn nữa, trong chương trình Ngữ văn THPT, tác phẩm tự sự chiếm mợt số lớn
trong chương trình. Việc khai thác, tìm hiểu, khám phá và hiểu tác phẩm tự sự một cách
có hiệu quả cao vẫn đang là mợt thử thách lớn với giáo viên và học sinh.
Cùng với quá trình đổi mới phương pháp dạy học, việc đọc hiểu văn chương
hiện nay đang trở thành một trong những trọng tâm của chương trình SGK Ngữ

2


văn. Trên cơ sở lấy “Quan điểm tích hợp làm ngun tắc chỉ đạo để tổ chức nợi
dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng
dạy, phần đọc-hiểu văn bản được đưa vào thay thế cho phần “giảng văn” quen
thuộc và trở thành đầu mối của vấn đề tích hợp Ngữ văn cũng như đối với việc đổi
mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường. Hạt nhân của
vấn đề đọc- hiểu văn chương chính là nhấn mạnh đề cao hoạt đợng học văn tích cực
chủ đợng sáng tạo của học sinh. Có thể nói đây là hoạt đợng duy nhất mà người đọc
có cơ hợi tiếp xúc trực tiếp với thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
“sống cùng” với nó để cảm nhận, thưởng thức và lý giải những giá trị sáng tạo thẩm
mĩ đợc đáo. Mục đích của việc dạy học văn chính là dạy cách đọc cho người học,
đọc để hiểu được văn chương và trưởng thành từng ngày dưới tác động lành mạnh
của tác phẩm văn chương. Cấu trúc nội dung SGK được sắp xếp theo thể loại và các
thời kì văn học đã làm nổi bật vai trị và đặc trưng thể loại. Chính vì vậy, hướng dẫn
học sinh đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một hướng đi có
nhiều ưu thế để rèn luyện kĩ năng đọc, cảm thụ, phân tích, lí giải và đánh giá tác
phẩm mợt cách hợp lí và sáng tạo. Trong phân phối chương trình thì tác phẩm tự sự
là kiểu văn bản chính, số lượng lớn, chiếm vị trí quan trọng và tḥc loại văn bản
đồ sộ. Bởi tự sự là một loại tác phẩm tái hiện trực tiếp mọi mặt đời sống xã hợi, con
người nên đây là loại văn bản khó đọc, khó tổng hợp nắm bắt... Vậy phải hướng dẫn
học sinh tìm hiểu tác phẩm tự sự và cảm thụ nó như thế nào để đạt hiệu quả cao
nhất? Đó là khó khăn cần tháo gỡ trong q trình tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng
thể loại.
Vì thế, ở đề tài này tôi xin đề cập đến một vài kinh nghiệm về cách thức dạy
học tác phẩm tự sự trong trường THPT.

2. Mục đích nghiên cứu
Tơi chọn đề tài này với mục đích có điều kiện nghiên cứu kĩ lưỡng, sâu sắc

hơn về cách thức dạy tác phẩm tự sự ở trường THPT. Đồng thời mong muốn được
trao đổi kinh nghiệm để trong quá trình dạy học phát huy được tính tích cực, chủ
3


động của học sinh, tạo thêm hứng thú và niềm say mê, yêu thích các tác phẩm tự sự
trong chương trình Ngữ văn ở trường THPT.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này tôi tập trung nghiên cứu cách thức dạy tác phẩm tự
sự ở trường THPT. Và tôi đã chọn một số tác phẩm tiêu biểu đó là: Tác phẩm Chí
Phèo của Nam Cao,Trụn ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô Hoài.

4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở đọc, tìm hiểu các tài liệu tin cậy, thực dạy, kiểm tra đánh giá
học sinh và dự giờ đồng nghiệp.

5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề
Chương 3: Các biện pháp giải quyết vấn đề

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Để có được phương pháp giảng dạy học tốt tác phẩm tự sự ở trường THPT ta
cần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận xoay quanh thể loại tự sự.

1.1. Khái quát chung về tự sự

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong: “Từ điển thuật ngữ
văn học" (NXB Đại học Quốc gia Hà Nợi-1997) thì tự sự được hiểu là: “Phương
thức tái hiện đời sống bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và kịch, được dùng
làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học”.
Theo “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng 2007):
“Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính
cách thơng qua cốt trụn, tương đối hoàn chỉnh”. Trong lý luận văn học thì: “Tác
4


phẩm tự sự là loại tác phẩm phản ánh đời sống trong q trình khách quan của nó,
qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”.
Theo Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Tiến sĩ Huỳnh Như Phương: "Tự sự là kể
chuyện, trình bày sự việc, sự vật một cách cụ thể, chi tiết, có đầu có đi, tự sự tập
trung chủ ́u vào việc miêu tả thế giới bên ngoài". Từ những cơ sở trên, chúng ta
có thể hiểu mợt cách chung nhất về thể loại tự sự như sau: “Tự sự là thể loại văn
học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự
việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết ... có đầu có đi thơng qua cốt
truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”.

1.2. Đặc điểm của tác phẩm tự sự
1.2.1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thơng
qua các sự kiện, hệ thống sự kiện
Các nhà lí luận từ Aristot đến Lessing, Bêlinxki đều cho rằng tác phẩm tự sự
đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristot cho
rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật,
không phụ tḥc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng
bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một
đối tượng khách quan ở bên ngoài mình.
Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua

các sự kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí ḷn khẳng định tính sự kiện có
mợt ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các
biến cố, sự kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại
vật chất với các việc làm, hành đợng cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những
biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ... nhưng những biến
cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như mợt đối tượng để
đem ra phân tích, nhận biết. Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao
gồm những sự kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều xem chúng
như là những sự kiện khác nhau về đời sống con người, xã hội.
5


1.2.2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn,
bao quát
Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự
kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con người, con người và mơi
trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn
trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều mối quan hệ.
Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian khơng bị hạn chế. Nhà văn có
thể thể hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong
hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả mợt mặt nào đó mà mình cho là
quan trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài 10 năm hay 20
năm trong một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất khác nhau.
Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều
mặt nhất; có thể được triển khai sâu rợng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và
phong phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và q trình phát triển qua
nhiều giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm
tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nợi tâm, cả quá khứ, hiện tại và trong
xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh
đợng, nhiều màu sắc thẩm mĩ.

Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết trong tác phẩm
tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn xi". Ở đây, có thể bắt gặp
những chi tiết về chân dung, ngoại hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật,
đời sống lao đợng sản x́t, tơn giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực,
tưởng tượng, hoang đường...hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác.
1.2.3. Tác phẩm tự sự ln ln có hình tượng người trần tḥt
Hình tượng người trần tḥt có thể là tác giả nhưng không nên đồng nhất
người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức:
khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân vật tưởng tượng, khi thì nhân danh chính
bản thân mình mà kể chụn với ngơi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào,
6


người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chụn để phân tích, nghiên
cứu, khêu gợi, bình ḷn, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp giữa nhân vật và nhân
vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần tḥt
giữ mợt vai trị hết sức quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người
đọc nên hiểu nhân vật, hoàn cảnh...thế này hoặc thế khác.
1.2.4. Lời văn trong tác phẩm tự sự
Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó có
thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc
đến đối tượng mà nó miêu tả.
Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự, do
đó nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều này khác
với tác phẩm kịch và tác phẩm trữ tình.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
Việc đọc- hiểu tác phẩm tự sự đóng vai trị rất quan trọng trong nợi dung
chương trình của bợ mơn Ngữ văn cấp THPT. Những tác phẩm tự sự được đem vào
giảng dạy là những kiệt tác văn chương thế giới và những tác phẩm đặc sắc trong
nền văn học nước nhà. Trong văn chương cái hay nó thường đi liền với cái sâu sắc

thâm thúy, đa nghĩa. Vì vậy, việc cảm thụ mợt tác phẩm tự sự đặc sắc đối với học
sinh là một vấn đề khá khó khăn. Muốn làm được điều này địi hỏi học sinh phải có
lịng u thích văn học, phải có tâm thế đọc tác phẩm, chuẩn bị bài trước khi đến
lớp. Nhưng trên thực tế, qua quá trình giảng dạy môn Văn ở nhà trường THPT tôi
nhận thấy, học sinh ở trường THPT Hiệp Hịa số 4 nói riêng và các trường THPT
khác nói chung ngày càng ít say mê và u thích văn học mặc dù đó vẫn được coi là
mợt mơn học chính. Vì thế mợt bợ phận không nhỏ học sinh không chịu đọc tác
phẩm ở nhà. Việc soạn bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp mang tính đối phó. Tuy
khơng đọc tác phẩm nhưng các em cũng vẫn soạn được bài vì nhiều lí do: thứ nhất
học sinh chép tài liệu tham khảo mà không đầu tư suy nghĩ. Các em mượn vở ghi
Văn của học sinh các khóa trước hoặc cùng khóa nhưng đã học trước hoặc các em
7


chép vở soạn của nhau. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài học ở
lớp của các em.
Bên cạnh đó, việc giảng dạy tác phẩm tự sự ở giáo viên chưa thực sự có
nhiều cải tiến, đổi mới, trong phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu giảng theo
phương pháp truyền thống, chỉ tập trung nhiều vào việc khai thác nội dung tác
phẩm theo phương pháp lịch sử mà chưa chú ý đến cấu trúc, hình thức tác phẩm. Vì
thế đã gây ra sự nhàm chán cho học sinh, làm giảm sức thu hút của tác phẩm văn
chương đối với học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học ở các giờ Ngữ văn
thuộc thể loại tác phẩm tự sự diễn ra chậm là do nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, thường mợt trụn ngắn hay mợt đoạn trích tác phẩm tự sự được
đưa vào dạy ở nhà trường phổ thông là tác phẩm đặc sắc, mà trong khi đó thời gian
cho phép thơng thường chỉ từ 1 đến 2 tiết cho nên giáo viên cịn gặp những khó
khăn nhất định trong việc truyền tải kiến thức, học sinh cũng gặp khó khăn trong
việc tiếp nhận đầy đủ, sâu sắc nợi dung bài học vì thời gian eo hẹp.
Thứ hai, giáo viên còn gặp nhiều lúng túng trong việc đổi mới phương pháp
trong giờ giảng văn tác phẩm tự sự.

Thứ ba, học sinh không đầu tư thời gian cho việc đọc tác phẩm trước ở nhà.
Trước tình hình đó, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên một số giải pháp, một
số kinh nghiệm mà bản thân đã áp dụng trong thời gian qua để cùng với đồng
nghiệp trao đổi với mong muốn mang lại hiệu quả cao hơn trong những giờ dạy
những tác phẩm tḥc loại hình tự sự.
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3.1. Biện pháp giải quyết
Trước thực trạng trên, qua quá trình giảng dạy mơn Văn ở trường THPT Hiệp
Hịa số 4, bản thân tôi đã áp dụng một số biện pháp như sau:
- Bằng mọi cách buộc học sinh phải đọc trước tác phẩm hoặc đoạn trích, tóm
tắt được những nợi dung cơ bản của tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà và soạn bài
theo những định hướng của giáo viên và phần hướng dẫn học bài.
8


- Cải tiến, đổi mới phương pháp trong việc giảng dạy những tác phẩm tự sự,
thu hút học sinh vào bài giảng.
- Đổi mới cách thức kiểm tra bao gồm cả kiểm tra vấn đáp; kiểm tra 15’ và
bài viết.
- Đổi mới cách đánh giá, phân loại năng lực cảm thụ tác phẩm tự sự của học
sinh.

3.2. Nội dung và phương pháp thực hiện
3.2.1. Khâu chuẩn bị bài ở nhà
Giáo viên cần dành thời gian của tiết học trước (sau phần củng cố, luyện tập)
để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới, đặt ra những yêu cầu cụ thể và bắt buộc
học sinh phải hoàn thành. Đặc biệt, bằng mọi cách phải cho học sinh đọc kĩ và tóm
tắt được nợi dung tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà. Giáo viên kiểm tra việc đọc và
tóm tắt nợi dung tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh trong quá trình học bài mới

hoặc kiểm tra thường xuyên vào đầu tiết học. Việc làm này sẽ giúp học sinh có ý
thức tự học và tự giác hoàn thành yêu cầu của giáo viên.
Ngoài việc bắt buộc phải đọc tác phẩm, chuẩn bị bài theo một số câu hỏi
trong sách giáo khoa, giáo viên cần đưa ra những câu hỏi nhỏ hơn, cụ thể hơn. Tuỳ
theo trình đợ, năng lực, tư duy của học sinh ở từng lớp mà giáo viên có thể có
những loại câu hỏi thêm khác nhau với mục đích giúp học sinh phát hiện những vấn
đề trọng tâm, cốt lõi của tác phẩm hoặc đoạn trích.
3.2.2. Khâu giảng trên lớp
3.2.2.1. Phần kiểm tra bài cũ
Ở phần này giáo viên nên kết hợp giữa việc kiểm tra kiến thức của bài học
trước với kiểm tra việc đọc tác phẩm và chuẩn bị bài mới của học sinh. Vì thế, một
học sinh được gọi lên kiểm tra bài cũ tôi thường cho hai câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất,
nhằm kiểm tra những kiến thức cơ bản, trọng tâm của tiết học trước. Câu hỏi thứ
hai, nhằm kiểm tra việc đọc và hiểu tác phẩm của tiết học mới.

9


Cần lưu ý, những câu hỏi kiểm tra việc chuẩn bị bài mới chưa đòi hỏi tư duy
nhiều, chủ yếu là nhằm kiểm tra xem thực chất học sinh có học bài cũ và đọc tác
phẩm hay không. Bởi trên thực tế nhiều học sinh chỉ đọc sách tham khảo hay vở ghi
của học sinh khác để soạn bài.
3.2.2.2. Phần bài mới
* Giới thiệu tác giả
Phần này học sinh đã đọc phần tiểu dẫn ở nhà trước khi soạn bài vì vậy ở
phần này tơi thường nêu ra mợt số câu hỏi để học sinh trả lời, sau đó bổ sung và
chốt lại vấn đề. Các câu hỏi tôi thường đặt ra cho học sinh đối với một tác giả là:
Dựa vào tiểu dẫn và những hiểu biết của em, hãy nêu những nét chính về
tiểu sử của tác giả?
Nêu vài nét cơ bản về sự nghiệp sáng tác của tác giả?

Hãy đánh giá khái quát về tác giả?
* Hoàn cảnh sáng tác
Phần này chủ yếu là giáo viên thuyết giảng nhằm làm sống lại đôi nét lịch sử
mà tác phẩm ra đời để học sinh nhận thức được mối quan hệ giữa tác phẩm và cuộc
sống.
Chẳng hạn, Khi giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Chí Phèo
(Nam Cao) chúng ta không thể không đề cập đến hai vấn đề:
Dựa vào những cảnh thật, việc thật, người thật mà Nam Cao chứng kiến và
nghe kể về làng q mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc, xót xa cho số phận
những người nông dân nghèo, căm tức giới địa chủ đè nén người dân nghèo mà
Nam Cao viết thành truyện vào năm 1941.
Bá Kiến thật ngoài đời không chết giống như trong tác phẩm, mà vẫn sống
đến đầu cách mạng. Sau khi tác phẩm ra đời hắn rất căm tức nhưng khơng làm gì
được.

10


* Tóm tắt tác phẩm
Ở phần này, giáo viên nên tận dụng tối đa những dụng cụ trực quan hoặc
trình chiếu tranh ảnh, sơ đồ (trong giờ dạy bằng giáo án điện tử) và kiểm tra mức đợ
tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích của học sinh ở nhà… nhằm giúp các em dễ nắm
bắt nội dung và nhớ lâu cốt trụn hơn.
Trong q trình tóm tắt tác phẩm cần chú trọng đến những nét chủ yếu về
cuộc đời và số phận của nhân vật chính. Tái hiện cho học sinh nắm được những dẫn
chứng, chi tiết quan trọng. Đồng thời, qua các dụng cụ trực quan tôi thường gọi mợt
học sinh lên tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích. Cho một vài học sinh bổ sung và
cuối cùng giáo viên đúc kết lại những nội dung trọng tâm.
Để hiểu được nợi dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư
tưởng lẫn nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt chính xác cốt truyện của

nó. Cách tóm tắt cốt truyện thể hiện mức độ thâm nhập tác phẩm, năng lực bao quát
và khả năng diễn đạt cơ đúc, gãy gọn của người tóm tắt.
Điều quan trọng là phải hiểu được cốt truyện chính là hệ thống sự kiện cụ
thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn. Nhờ
cốt truyện, nhà văn thể hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như sự
tác đợng qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn tái hiện các xung
đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách quan của mình.
Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua mợt tiến trình vận đợng có hình thành, phát
triển và kết thúc. Mỗi cốt truyện thường bao gồm các phần sau:
Trình bày: Giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc.
Khai đoạn: Nêu tình huống, vấn đề nảy sinh để người đọc chú ý theo dõi.
Phát triển: Diễn tả sự tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu thuẫn,
xung đợt.
Đỉnh điểm (hoặc cao trào): Hành đợng, tính cách, mâu thuẫn được phát triển
đến độ cao nhất, căng thẳng nhất.

11


Kết thúc (hoặc mở nút): Giải quyết, kết thúc một q trình phát triển của mâu
thuẫn.
Đó là kể mợt cách đầy đủ, theo trình tự thơng thường. Tuy nhiên, khơng phải
bất cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các phần như vậy, trình tự các phần ấy
cũng biến hóa sinh đợng như c̣c sống mn màu và tùy theo ý đồ nghệ thuật của
nhà văn. Điều quan trọng học sinh phải chiếm lĩnh, cảm thụ, tái hiện được những
diễn biến trọng tâm, những tình tiết liên quan đến tính cách và kết cục của nhân vật.
Từ khái niệm xác định như trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác phẩm
tự sự, trước tiên cần đọc kĩ tác phẩm và trả lời được những câu hỏi sau:
Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện là gì?
Chủ đề của tác phẩm ra sao?

Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số
phận nhân vật ấy như thế nào? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác phẩm tác
động tới cuộc đời nhân vật ra sao?
Cách tổ chức cốt truyện của nhà văn bao giờ cũng gắn với sự thể hiện có hiệu
quả chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Vì thế, hiểu chủ đề, ý đồ tư tưởng của nhà văn
thì chúng ta mới định hướng đúng sự phát triển của cốt truyện cũng như nội dung
cụ thể, trực tiếp của tác phẩm.
Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên
mới có thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Tóm tắt cốt trụn thơng thường tóm
tắt các bước phát triển của dịng cốt trụn, dựa vào những sự kiện nổi bật, những
chặng đường diễn biến của tính cách, số phận các nhân vật chủ yếu. Khi tóm tắt cốt
trụn, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ tương tác giữa chúng.
Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có vai trị chi phối đối
với các nhân vật khác và góp phần chủ ́u thể hiện nợi dung, bộc lộ chủ đề của tác
phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những bước ngoặt trên đường đời nhân vật chính.
Chẳng hạn, cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay quanh trục hai
nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ giữa hai nhân vật
12


này. Tóm tắt cốt trụn của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân phận của Chí từ
mợt đứa bé bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở tù, dựa vào
những lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được q trình tha hóa
tất ́u của Chí khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt, gian ngoan như Bá Kiến, thấy
được số phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người. Mặt khác, khi tóm
tắt truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo tình cờ gặp Thị Nở,
được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. Người cố nơng lương thiện với những
ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo sống dậy, Chí
được làm người… nhưng rồi, Thị Nở đột ngột cự tuyệt chung sống. Sự kiện này
khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của

mình, để từ đó đi đến hành đợng trả thù qút liệt cuối tác phẩm.
* Chủ đề tác phẩm
Như chúng ta đều biết, chủ đề của tác phẩm tự sự chính là nợi dung c̣c
sống được phản ánh trong tác phẩm. Vì vậy, để tìm hiểu chủ đề của tác phẩm hay
đoạn trích giáo viên cần nêu ra nhiều câu hỏi nhỏ mang tính chất gợi mở để học
sinh trả lời. Chẳng hạn có thể nêu mợt số câu hỏi như:
Tác phẩm (hoặc đoạn trích) kể về ai? Về việc gì? Thơng qua câu chuyện đó
tác giả nhằm đề cập đến vấn đề gì? Thái độ, tình cảm của tác giả đối với con người
và cuộc sống ra sao?
Sau đó, thơng qua việc trả lời được những câu hỏi trên, giáo viên gọi một đến
hai học sinh khái quát thành chủ đề của tác phẩm (hoặc đoạn trích) và giáo viên
nhận xét, bổ sung, chốt kiến thức.
* Đọc- hiểu văn bản tác phẩm hoặc đoạn trích
Ở phần này, giáo viên nên sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp
học sinh hiểu bản chất của tác phẩm (hoặc đoạn trích). Giáo viên gợi mở cho học
sinh thấy được những tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu, thảo ḷn sau đó
giáo viên bổ sung, làm sáng tỏ và hệ thống vấn đề một cách hoàn chỉnh. Về cơ bản,
trong phần phân tích, giáo viên cần phải làm rõ những vấn đề trọng tâm sau:
13


- Làm cho học sinh nắm vững được sự phát triển của tình tiết trong tác phẩm
(hoặc đoạn trích) tức là học sinh nắm được cốt truyện.
Học một bài thơ trữ tình phải nắm được diễn biến tình cảm, cảm xúc của
nhân vật trữ tình; học mợt bài văn nghị luận phải nắm được trình tự lập luận của tác
giả; cịn học mợt thiên trụn, trước hết phải nắm được diễn biến của câu chuyện.
Trong rất nhiều trường hợp, do khơng nắm được q trình diễn biến của tình tiết tác
phẩm mà giáo viên khơng phân tích được tác phẩm, học sinh hiểu vấn đề chưa thấu
đáo, thậm chí cịn hiểu một cách sai lệch nội dung tác phẩm (hoặc đoạn trích).
Chính vì vậy, điều quan trọng là phải nắm được tình tiết, biến cố, sự kiện của câu

chụn đó.
Khi hướng dẫn học sinh đọc- hiểu cần quan tâm nhiều đến tình huống của
trụn. Nó có vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện tính cách và số phận
nhân vật. Tình huống trụn chính là trạng thái xã hợi, là hoàn cảnh bất bình
thường đang thử thách con người. Nó gồm những diễn biến, sự kiện địi hỏi
conngười trong đó cần phải xoay xở, cần phải bợc lợ mợt cách chính xác năng lực
và bản thân của mình. Như vậy, tình huống gắn chặt cùng cốt truyện và tác đợng
trực tiếp tới nhân vật, tạo dựng tình huống trở thành nhiệm vụ và hứng thú, trở
thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn.
Một số truyện trong Ngữ văn lớp 10 có cốt truyện đơn giản. Do đó, cần
hướng dẫn học sinh nhận ra được tình huống trụn và tập trung phân tích các tâm
trạng, hành đợng của các nhân vật ở trong tình huống đó. Cịn trong chương trình
Ngữ văn lớp 11, 12 cốt truyện phức tạp hơn, nhân vật có nhiều mối quan hệ hơn,
nhiều mâu thuẫn xung đợt hơn, nhiều cung bậc tình cảm hơn. Vì vậy, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh nhận ra được nợi tâm của nhân vật, tính cách của nhân vật. Từ
đó, giúp học sinh thấy được cần phải tư duy, cần phải liên tưởng, cần phải xâu
chuỗi nhiều tình tiết để rút ra nhận xét cuối cùng về toàn bợ câu chụn. Trước khi
đi sâu vào tìm hiểu chi tiết, mợt sự phân tích đại cương như vậy về các chi tiết của

14


bài văn sẽ củng cố ấn tượng hoàn chỉnh đầu tiên của học sinh đối với hình tượng tự
sự của tác phẩm.
- Làm cho học sinh cảm thụ sâu sắc, đánh giá được đúng đắn nhân vật trong tác
phẩm
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm, phát biểu quan
điểm thông qua nhân vật. Nhân vật trong tác phẩm hoặc đoạn trích chứa đựng nợi
dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi ký thác quan niệm về con
người, về nhân sinh của nhà văn. Do đó, phân tích nhân vật trở thành con đường

quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm để nhận ra
lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Mợt nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một
số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho mợt tầng lớp xã
hợi, mợt giai cấp, thậm chí mợt thời đại nào đó.
Nhân vật trong tác phẩm tự sự rất đa dạng, phong phú. Dựa trên phương
diện kết cấu và ý thức hệ có thể chia nhân vật ra thành các loại sau: Nhân vật chính,
nhân vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện...các
nhân vật sẽ góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề và nội dung của tác phẩm.
Tuy nhiên, trong giờ học ở trường phổ thông chúng ta không có đủ thời
gian để hướng dẫn học sinh phân tích hết các nhân vật được nên chúng ta phải lựa
chọn các nhân vật để phân tích. Chẳng hạn, trong tác phẩm Chí Phèo có nhiều nhân
vật như Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở, Bà cô Thị Nở, Lý Cường, Binh Chức, Năm
Thọ, Đợi Tảo… nhưng chỉ có nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến thể hiện rõ tư tưởng của
nhà văn, cho nên khi phân tích tác phẩm này cần chú ý khai thác kĩ hai nhân vật
này, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hoặc trong tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô
Hoài cũng xuất hiện nhiều nhân vật nhưng nhân vật Mị mới là hình tượng điển hình
cần phân tích.
Nợi tâm nhân vật được thể hiện trong nhiều thời điểm, có thể trong quá khứ,
hiện tại hoặc trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ,

15


nội tâm của Mị được bộc lộ khá rõ qua hai thời điểm đó là trong đêm tình mùa xn
và đêm đơng cởi trói cứu A Phủ.
Như vậy, qua những tác phẩm trên chúng ta sẽ tập trung khai thác nợi tâm
các nhân vật Chí Phèo và Mị để tìm hiểu toàn diện về nhân vật. Khi phân tích nhân
vật cần chú trọng những khía cạnh sau:
Mợt nhân vật văn học thành cơng bao giờ cũng mang mợt tính cách, số phận
riêng, mợt cách trung nhất, muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính

cách của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào những chi tiết có liên quan đến nhân vật
trong tác phẩm để đó từ mà tìm hiểu suy luận, tìm ra đặc điểm, tính cách của nhân
vật. Ở tác phẩm tự sự, những chi tiết có giá trị góp phần thể hiện đặc điểm tính cách
nhân vật, lai lịch, ngoại hình, ngơn ngữ, nội dung, hành vi cử chỉ, hành động của
nhân vật Vì thế, khi phân tích cần lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về
nhân vật trong tác phẩm. Những chi tiết này có lúc được bợc lợ rõ ràng nhưng
thường rất tế nhị, kín đáo ẩn trong lời văn đọc qua thường ít gây chú ý. Phát hiện và
lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân loại chúng theo trình tự hợp lí nhằm
làm sáng tỏ tính cách của nhân vật. Thơng thường khi phân tích hình tượng nhân
vật thường chú ý các phương diện sau:
+ Lai lịch
Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách cũng như
c̣c đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong với đường đời của
một người, một số phận nào dó trong văn học. Chẳng hạn, nhân vật Chí phèo trong tác
phẩm cùng tên của Nam Cao, ngay từ khi được sinh ra đã bị ném khỏi cuộc sống, đã là
đứa trẻ hoang không biết bố mẹ, chẳng có cửa nhà. Hoàn cảnh xuất thân ấy tạo nên sự
cơ đợc, thê thảm của Chí Phèo. Tính cách, số phận được lí giải mợt phần bởi thành
phần x́t thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.
+ Ngoại hình
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Xem mặt mà bắt hình rong” trong văn học, miêu
tả ngoại hình chính là mợt biện pháp của nhà văn nhằm hé mở tính cách nhân vật.
16


Mợt nhà văn có tài thường chỉ qua mợt số nét phác hoạ chấm phá có thể giúp người
đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật nào đó. Trong trụn
ngắn Chí Phèo những vết sẹo ngang dọc trên khn mặt của Chí cùng với những
nét chạm trỗ ở ngực tự có đã nói lên rất nhiều…Phải chăng cái ngoại hình biến
dạng, kỳ dị gớm ghiếc kia như đã muốn trưng ra quá khứ dữ dằn, và nợi tâm tha
hố biến chất của Chí Phèo. Hay trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con

trai (đôi nam nữ thanh niên người Pháp đi trên toa phác hoạ chân dung Khải Định:
“Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh
đấy à?” Các chi tiết này ám chỉ thật sâu cay mợt tính cách hèn kém, chẳng có mấy
thiên lương, cùng lối sống xa hoa, truỵ lạc của ơng vua bù nhìn An Nam.Trong khi
phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết, ngoại hình mà đi sâu vào nội tâm, vào bản
chất của nhân vật.
+ Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói của mợt người, chúng ta có thể nhận ra trình đợ văn
hố, nhận ra tính cách của người ấy. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học
được cụ thể hố cao đợ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân.Chẳng hạn,
. Thơng thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người
làm sao thì lời ăn tiếng nói sẽ như vậy. Vì thế, khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt
chú ý phân tích ngơn ngữ, lời ăn tiếng nói nhân vật.
+ Nợi tâm
Là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc, tình cảm, tâm lí,
suy nghĩ… của con người. Thế giới nợi tâm của con người rất sâu kín, phong phú,
phức tạp. Ngịi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách sâu kín
của nợi tâm con người từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong
tiềm thức lẫn vơ thức. Qua đó ta có thể xét đốn được tính cách nhân vật.
Chẳng hạn, đoạn miêu tả nợi tâm của Chí Phèo sau cơn ốm cho thấy được sau
những lần quen rạch mặt, ăn vạ, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, thì đây là lần hắn
thực sự tỉnh: “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà hắn vẫn cịn cơ đợc. Buồn thay cho
17


đời! có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu…
Dẫu sao đó không phải là tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc
bên kia của đời. Ở những người như hắn chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy
đoạ cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, mợt trận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể
hắn đã hư hỏng nhiều. Nó là mợt cơn mưa gió cuối thu cho biết trời trở rét nay mùa

đơng đã đến. Chí Phèo hình như đã trơng thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm
đau, và cơ đợc, cái này cịn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở vào nếu
không vào cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi thì đến khóc được mất”. Qua suy nghĩ của
Chí Phèo ta có thể nhận ra mợt Chí Phèo thứ hai – “Chí khơng cịn là mợt con Quỷ
dữ của làng Vũ Đại nữa mà là mợt con người bình thường như bao con người khác:
Buồn lo trước tuổi già ập đến, cảm thấy cô đơn và sợ cô đơn.
+ Cử chỉ, hành động
Đây là chi tiết quan trong nhất trong việc tìm hiểu phân tích tính cách nhân
vật. Con người trong c̣c đời cũng như nhân vật trong tác phẩm, trước hết là con
người hoạt động, hành động. Trong môi trường tự nhiên và xã hội, trong quan hệ
với người khác, với công việc, con người phải hành động. Hành động của con
người được thể hiện qua việc làm, hành vi. Nhân vật trong tác phẩm cũng vậy, con
người thế nào sẽ có hành vi thế ấy. Chẳng hạn, qua hành động “rỗ gơng” bất chấp
lời doạ nạt của bọn lính, người đọc nhận ra ở Huấn Cao trong Chữ người tử tù
(Nguyễn Tn) có mợt khí phách hiên ngang, coi thường cường qùn, bạo lực.
Hay qua hành đợng Chí Phèo định vác dao đến nhà Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến
nhà Bá Kiến, người đọc nhận ra rằng người cự tuyệt Chí khơng phải Thị Nở, khơng
phải Bà cơ Thị Nở mà chính là Bá Kiến. Vì thế, vác dao đến nhà Bá Kiến, giết Bá
Kiến và kết liễu đời mình là điều tất ́u đối với Chí.
Tóm lại, muốn phân tích nhân vật, ta phải chú ý đến những chi tiết có liên
quan đến nhân vật từ lai lịch, ngoại hình, nợi tâm đến ngơn ngữ hành vi của nhân
vật. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ
các phương diện này. Có chỗ nhiều, có chỗ ít, có chỗ đậm, chỗ nhạt, thậm chí có
18


nhân vật cịn khơng rõ đặc điểm ngoại hình, lai lịch... Vì thế, khơng nhất thiết phải
máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà nên tập trung, xốy sâu vào phương diện thành
công trong tác phẩm để khái quát nội dung toàn bợ tác phẩm hoặc đoạn trích.
- Làm cho học sinh cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể của tác giả (hay của

người kể chuyện)
Lời kể chính là ngơn ngữ nghệ tḥt của trụn. Phân tích lời kể của tác giả
chính là thực chất, là nợi dung chính của việc phân tích ngơn ngữ khi giảng truyện.
Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng nhằm khêu gợi được sự sống và truyền đạt được
cảm xúc. Đặc điểm đó của ngơn ngữ nghệ tḥt thể hiện rất rõ trong lời kể của
truyện. Cái hay của lời kể trong truyện thường là ở chỗ tự nhiên, nhuần nhị, sinh
động và trùn cảm. Mợt câu chụn tự nó sống qua lời kể, tuy có người kể nhưng
xem ra dường như truyện tự kể về mình. Muốn vậy, lời kể thường xen với lời tả, tả
cảnh, tả người, tả vật, tả tình. Khi phân tích lời kể trong trụn cần chú trọng chỉ ra
được sức mạnh gợi tả của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ, câu văn, cách viết, lối kể của
tác giả đã làm hiển hiện được cảnh, vật, việc, người như thế nào, đồng thời gây xúc
cảm cho người đọc ra sao. Để làm cho nhân vật biểu hiện lên như đang sống thật,
nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại đã tìm ra mợt phương pháp thần tình là miêu tả từ
bên trong ra. Trong tiểu thuyết thời cổ, thường người ta chỉ kể lại việc làm, lời nói
của nhân vật. Tiểu thuyết ngày nay, chỉ lấy cách miêu tả nhân vật từ trong làm
chính. Nhà văn như nhập vào nhân vật mà nhìn, nghe, xúc cảm, suy nghĩ, nói bằng
lời nói của nhân vật. Chẳng hạn, khi miêu tả một quang cảnh của đời sống, nếu nhà
văn chỉ đứng ngoài mà ghi lại như một buổi chụp ảnh, thì dù ngịi bút miêu tả thật
giỏi, cảnh ấy vẫn chỉ là mợt bức tranh chết. Trong cảnh phải có tình thì cảnh mới
sống lên, vì vậy nhà văn phải miêu tả những quang cảnh qua tâm trạng của chính
người viết. Thường khi phân tích ngơn ngữ địi hỏi người giáo viên phải có kiến
thức cơ bản về tu từ học. Nhưng cái hay của ngôn ngữ trong văn học có mn màu
mn vẻ, tuỳ tḥc vào sự đa dạng, biến hóa của nợi dung. Ngơn ngữ lời văn được
coi là hay khi nó diễn đạt được tốt nhất nợi dung cuộc sống và nội dung tư tưởng,
19


tình cảm của tác phẩm. Cái hay của ngơn ngữ nghệ thuật là ở chỗ sinh động và rung
cảm, chất chứa, chất liệu đời sống và tình ý con người. Văn chương hay thật sự
không phải ở chỗ màu mè, hoa mĩ: Cái hay của truyện lại càng thường ngưng đọng

ở sự trong sáng, giản dị mà sinh động, rung cảm. Vì vậy, giảng dạy tác phẩm hay
đoạn trích tḥc thể loại tự sự thì phải phân tích lời kể của trụn, phân tích phong
cách ngơn ngữ nghệ tḥt của tác phẩm. Lời kể chuyện là sợi tơ dệt nên tình tiết và
nhân vật, dệt nên toàn bợ hình tượng trong tác phẩm.
* Thút trình và giảng bình
Nói chung, bình giảng xốy vào ấn tượng chủ quan và khơng nhất thiết phải
xem xét toàn diện đối tượng. Người viết chỉ cần lắng nghe mình, chắt lọc các cảm
nhận của mình xem yếu tố nào tạo ấn tượng đậm nhất, lay đợng mình sâu xa nhất,
nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng càng sâu đậm, ám ảnh bao nhiêu thì càng dễ truyền
cảm bấy nhiêu. Nói chung, ngọn nguồn của lời bình bao giờ cũng phải là sự đồng
cảm. Tiếng nói của lời bình là tiếng nói tri âm, dù lời bình rất cần đến sự hoa mĩ của
ngơn từ. Cịn giảng là giảng giải, là cắt nghĩa, lí giải. Nếu bình nghiêng về cảm thì
giảng nghiêng về hiểu. Bình nghiêng về những rung đợng tâm hồn thì giảng
nghiêng về nhận thức trí ṭ. Bình là sự thăng hoa, sự cất cánh còn giảng là sự đào
sâu làm cơ sở, làm điểm tựa, làm địn bẩy cho việc cất cánh.
Ví dụ: Về mối tình Chí Phèo – Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao, giáo viên có thể bình giảng để học sinh cảm nhận đươc đây là mối
tình đẹp nhất trần gian. Nó được ví như một chiếc cầu vồng lung linh sau cơn mưa,
như một chiếc bản lề khẽ xoay cánh cửa cuộc đời Chí Phèo sang mợt trang mới, từ
c̣c đời của mợt con quỷ dữ sang cuộc đời khát khao sự hoàn lương, được trở về
để làm hịa với xã hợi của loài người bằng phẳng và thân thiện.
Lâu nay, trong một số giờ dạy của giáo viên mải chạy theo phương pháp phát
vấn mà khơng chú ý đến bình văn thơ nên giờ đọc hiểu văn bản trở thành giờ trò
chuyện, trả lời vụn vặt các câu hỏi giữa thầy và trị, chỉ biết hướng dẫn học sinh
chia nhóm, thực hành, thảo luận mà hầu như quên đi việc đưa thêm những lời bình
20


giảng, phân tích đầy chất “văn chương” vào giờ dạy. Và như vậy, người thầy chưa
truyền tới học sinh cái hay, cái đẹp của lời thơ, càng làm cho hình tượng văn học

nằm im trên trang giấy và cuối cùng khơng trùn được ngọn lửa của tình u văn
chương tới tâm hồn các em.
Vấn đề là ở chỗ biết thuyết trình và giảng bình đúng mức, đúng lúc góp phần
nâng cao hiệu quả của việc tiếp nhận văn bản từ đó bồi dưỡng học sinh giỏi. Quan
trọng hơn là tổ chức cho học sinh cũng tham gia bình giảng nhằm tạo nên một sự
“cộng hưởng” trong tiếp nhận, cảm thụ văn chương. Khi gặp những dạng kiến thức
văn học trừu tượng, khó hiểu như hình tượng nghệ tḥt có tính đa nghĩa, những
vấn đề về thi pháp văn học trung đại, những vấn đề có tính khái qt tổng hợp thì
sự giảng giải, bình giá của giáo viên là vơ cùng quan trọng.
3.2.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi
Khi phân tích tác phẩm tơi đặc biệt chú trọng đến hệ thống câu hỏi để ln
đặt học sinh vào vị trí phải hoạt động, cùng đồng hành tư duy với người dạy. Câu
hỏi trong bài dạy phải đạt được những yêu cầu sau :
Hệ thống câu hỏi phải logic, chặt chẽ nhằm dẫn dắt một cách liên tục sự suy
nghĩ của học sinh từquan sát đến phân tích hiện tượng, từ những kết ḷn mang
tính chất bợ phận đến những kết luận khái quát hơn. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ
ràng, vừa sức (có gợi ý khi cần thiết). Câu hỏi phải có tác dụng kích thích sự chú ý,
sự tìm tòi suy nghĩ của học sinh. Câu hỏi phải tạo cho học sinh sự liên tưởng, mở
rộng và suy luận. Chẳng hạn, giáo viên có thể nêu lên hệ thống câu hỏi khi giảng
dạy tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) trong chương trình Ngữ Văn 11 như
sau:
Sau khi nhận phiến trát trao đổi với thầy thơ lại, biết được H́n Cao là người
có tài thì viên quản ngục đã nảy sinh ý định gì? Qua c̣c trao đổi giửa viên quản
ngục và thầy thơ lại, Huấn Cao hiện lên là con người như thế nào? Thái độ của
Huấn Cao xuất hiện tại trại giam ra sao? Khi nhận rượu thịt mà lính ngục mang vào
H́n Cao có thái độ thế nào? Thái độ khi trả lời viên quản ngục? Từ đó rút ra nhân
21


cách của Huấn Cao? Thái độ của viên quản ngục trong lần nhận sáu tử tù? Tại sao

viên quản ngục lại quyết định “biệt đãi” Huấn Cao, theo em, điều đó có ý nghĩa gì?
Việc viên quản ngục gặp H́n Cao trong nhà ngục có ý nghĩa như thế nào ? Theo
em, vì sao Nguyễn Tuân lại gọi cảnh cho chữ là “cảnh tượng xưa nay chưa từng
có” ? Em hãy nhận xét về thời gian, không gian diễn ra cảnh cho chữ ? Tư thế, thái
độ của người cho chữ và kẻ nhận chữ như thế nào ? Nguyễn Tuân đã sử dụng biện
pháp nghệ thuật gì để miêu tả cảnh cho chữ ? Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tn
muốn khẳng định điều gì ? Có thể nói với hệ thống câu hỏi này giáo viên sẽ từng
bước dẫn dắt học sinh đi tìm hiểu nợi dung của tác phẩm, từ phân tích hình tượng
các nhân vật cho đến rút ra được nội dung tư tưởng nhà văn muốn gửi tới.

3.3. Đánh giá kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm
3.3.1. Kết quả kiểm nghiệm
3.3.1.1. Kết quả khảo sát trong quá trình giảng dạy
Lớp

Tổn
g số

Giỏi
SL
%

Khá
SL
%

hs
11A1
41 03
7.3

26 63.4
11A10
31 01
3.2
10 32.3
12a9
33 01
03
17 51.5
3.3.1.2 Phạm vi, tác dụng của sáng kiến

Trung bình
SL
%
12
19
15

29.3
61.2
45.5

Yếu
SL

%

Kém
SL %


0
01
0

0
3.3
0

0
0
0

0
0
0

Phương pháp này có thể áp dụng cho cả học sinh lớp 10, 11, 12.
Với phương pháp này, giáo viên ln đặt học sinh trong tình thế đợng, ḅc các em
phải làm việc một cách nghiêm túc với tác phẩm và tiếp thu bài học mợt cách chủ
đợng tích cực.
3.3.2. Nguyên nhân thành công và tồn tại
3.3.2.1. Nguyên nhân thành cơng
Có sự đầu tư lớn trong việc thiết kế bài dạy để phù hợp với đối tượng học
sinh ở từng lớp.

22


Với phương pháp này, người giáo viên đã phát huy có hiệu quả nhất những
giáo cụ trực quan, giáo viên đã kích thích, khơi dậy được phần nào tấm lịng yêu

thích và say mê đối với văn học của học sinh.
3.3.2.2. Tồn tại
Vẫn cịn mợt số em chưa đọc tác phẩm hoặc đoạn trích ở nhà hoặc soạn bài
đối phó. Một số em làm bài văn vẫn sa vào dạng kể tác phẩm. Mợt số học sinh
chưa có sự cảm thụ tốt hoặc chưa đam mê với tác phẩm văn học, đặc biệt là những
tác phẩm tự sự.
3.3.3. Bài học kinh nghiệm
- Đối với bản thân
+ Phải có sự đầu tư trong cơng tác soạn giảng.
+ Tìm mọi biện pháp để thực hiện được phương pháp dạy học “lấy học sinh
làm trung tâm”.
- Đối với tổ chuyên môn
Trong tổ chuyên môn phải thường xuyên trao đổi, học hỏi lẫn nhau để nâng
cao tay nghề, kinh nghiệm giảng dạy. Đặc biệt là về phương pháp dạy học mới,
hữu ích.

C. KẾT LUẬN
Đọc hiểu văn chương là cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm “sống cùng” với nó để cảm nhận, thưởng thức và lí giải những sáng tạo
thẩm mĩ đợc đáo của nhà văn. Đó cũng là con đường để những tiềm năng nhân văn,
tình cảm thẩm mĩ của tác phẩm có thể chuyển vào trong cảm xúc và tâm trí của mỗi
học sinh, làm biến đổi chủ thể tạo nên sự phát triển tâm lí, nhận thức, nhân cách.
Chính vì vậy giúp học sinh có cách tìm hiểu tác phẩm văn chương mợt cách đúng
đắn là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi giáo viên. Đề tài của tơi trên cơ sở lí ḷn
và thực tiễn giảng dạy mà đúc rút nên, hi vọng có thể giúp ích phần nào cho mỗi
giáo viên trong quá trình giảng dạy văn, đặc biệt là phần văn bản tự sự .

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đếncách mạng tháng Tám năm
1945, Ngữ văn 11, tập 1, Nxb GD 2008;
2. Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ
XX, Ngữ văn 12, tập 1, Nxb GD 2008, tr.16;
3. Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ
XX, Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1, Nxb GD 2008, tr.18-19;
4. Kỷ yếu hội thảo Dạy học Ngữ văn theo chương trình và sách giáo khoa mới
(2007), Nxb Nghệ An;
5. Đỗ Ngọc Thống, Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT, Nxb
Giáo dục 2006;
6. Trần Đình Sử,Lí luận văn học, Nxb giáo dục 2003.

24



×