Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Các xu hướng và thách thức toàn cầu hậu Covid-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.02 KB, 14 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

2.

1Nguyễn

Khắc Quốc Bảo*

Phan Thị Bích Nguyệt*
Bùi Quang Hùng*
Phạm Dương Phương Thảo*
Tóm tắt
Dưới góc độ tài chính quốc tế, đại dịch Covid-19 bùng nổ đóng vai trị như cú sốc cấu
trúc, có tính dai dẳng và bất định đối với nền kinh tế toàn cầu. Nhiều xu hướng, quan hệ
kinh tế trước đây đã bị phá bỏ và một trật tự thế giới mới có thể được hình thành, bao
gồm sự đứt gãy, tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, sự bi quan của các nhà đầu tư đã
khiến dòng vốn FDI quay đầu, đồng thời thế giới chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo
hộ ở các nước. Toàn cầu hóa đang có xu hướng thối trào, việc này làm mỗi quốc gia phải
ưu tiên vào nguồn lực sẵn có trong nước và kích cầu nội địa nhiều hơn. Cuối cùng là nguy
cơ khủng hoảng nợ công khi các quốc gia đã tiêu tốn lượng ngân sách khổng lồ để chống
dịch, trong khi các nền kinh tế gần như kiệt quệ. Thế nhưng ở khía cạnh tích cực, Covid19 có thể sẽ thúc đẩy q trình cải cách kinh tế Việt Nam diễn ra nhanh hơn, bao gồm sự
thay đổi những động lực tăng trưởng trước đây. Điển hình như động lực về thương mại
của Việt Nam có lẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự đứt gãy của chuỗi cung ứng tồn
cầu, cũng như sự thối trào của tồn cầu hóa. Bên cạnh đó là sự cải cách trong cách vận
hành nền kinh tế, cũng như phát huy tối đa tiềm lực trong nước, thay vì phải phụ thuộc vào
thương mại.
Từ khố: Covid-19, tồn cầu hố, chuỗi cung ứng.

*



Trường Đại học Kinh tế TP. HCM | Email liên hệ:

19


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

1. Giới thiệu
Suốt hơn 1 năm qua, đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc phi truyền thống, dai dẳng và bất
định thơng qua q trình giãn cách, cách ly xã hội với quy mô lớn ở từng quốc gia, vùng
lãnh thổ và lan rộng khắp toàn cầu. Khủng hoảng Covid-19 khiến các nền kinh tế bị cô lập,
nguồn nhân lực và các hoạt động tiêu dùng, đầu tư, sản xuất đều suy giảm. Song song đó
xuất hiện sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng và sự thối trào của tồn cầu hóa. Đại dịch đã
làm tê liệt nhiều hoạt động kinh tế như du lịch, vận tải, cũng như làm trỗi dậy chủ nghĩa
bảo hộ và trình trạng bất bình đẳng trong xã hội… Thế giới có lẽ đang đứng trước nguy cơ
rơi vào một trong những lần suy thoái kinh tế sâu nhất lịch sử, khi ngay cả các đầu tàu kinh
tế như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia thuộc EU cũng phải “đóng băng” hoặc
suy yếu trầm trọng.
Kể từ năm 1870, nền kinh tế toàn cầu đã trải qua 14 lần suy thoái. Đợt suy thoái do
Covid-19 gây ra sẽ là lần suy thoái sâu thứ 4 và nghiêm trọng nhất kể từ sau Thế chiến thứ
II. Trong bối cảnh các làn sóng Covid-19 tiếp theo đang xuất hiện, chưa ai dám nói trước
điều gì, mọi dự báo hay phán đoán lúc này đều dựa trên những giả thiết nhất định. Nếu
những giả thiết đó là bất định, con số dự báo sẽ khác, thậm chí có thể đảo chiều. Thực tế
cho thấy, trong giai đoạn đầu khủng hoảng Covid-19, nhiều chuyên gia dự báo tăng
trưởng kinh tế sẽ phục hồi theo hình chữ V, đồng nghĩa với việc khơi phục tăng trưởng
nhanh chóng như một hệ miễn dịch tự nhiên phải có. Thời điểm này có thể khẳng định
đó chỉ là phán đốn "q lạc quan" khi nền kinh tế toàn cầu đã bị “ngấm đòn”.

Covid-19 làm trầm trọng hơn những bất ổn vốn dĩ đã tồn tại trước đây, như thương
chiến Mỹ-Trung, quá trình Brexit ở Anh, chủ nghĩa bảo hộ và khu vực hóa gia tăng, xung
đột chính trị ở một số quốc gia… Trước đây, thế giới đã thuần thục với việc ứng phó
những cơn suy thối kinh tế truyền thống, ngay lúc này một cuộc khủng hoảng y tế dẫn
đến khả năng đại suy thối kinh tế là ngồi sự chẩn đoán của các chuyên gia. Với sự tàn
phá của Covid-19, những gói hỗ trợ kinh tế vĩ mơ với quy mô lớn được các quốc gia thực
thi, nhằm giảm đau nền kinh tế và tránh cuộc suy thoái trầm trọng. Theo thống kê từ ADB,
tính đến hết tháng 9-2020, tổng giá trị các biện pháp phòng chống dịch bệnh và giảm đau
kinh tế đạt hơn 25,1 nghìn tỷ USD, điển hình như ở Mỹ (7,08 nghìn tỷ USD), Nhật Bản
(3,43 nghìn tỷ USD), Trung Quốc (2,36 nghìn tỷ USD), Đức (2,05 nghìn tỷ USD).

20


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 1: Các xu hướng và thách thức toàn cầu hậu Covid - 19
Xu hướng kích cầu
nội địa và phá vỡ
tồn cầu hóa

nền

Sự đứt gãy, tái cấu trúc

kinh tế bị "ngập" trong

trong các chuỗi cung


tiền và nguy cơ khủng

ứng, chuỗi giá trị và sự

Tình

trạng

các

hoảng nợ cơng

"quay đầu" của các

COVID-19

dịng vốn FDI

Xu hướng thiết lập một

Khủng

trật tự thế giới mới hậu

thực và nạn đói trên

Covid-19

thế giới


hoảng

lương

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo và các cộng sự (2021)

Vì vậy, Covid-19 đã tạo ra triển vọng khá bi quan về đợt đại suy thoái kinh tế tồn cầu
nghiêm trọng nhất lịch sử. Hệ luỵ sau đó, là những xu hướng có tầm vóc tồn cầu sẽ định
hình và tạo ra thách thức cho các quốc gia. Đầu tiên là việc dư thừa tiền khi hàng loạt gói hỗ
trợ kinh tế vĩ mơ kỷ lục được tung ra, nhưng dường như dòng tiền đang mắc kẹt trong hệ
thống tài chính do việc hấp thụ ở các hoạt động kinh tế thực đang rất khó khăn vì Covid-19.
Tiếp đến là sự đứt gãy, tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, sự bi quan của các nhà
đầu tư, đã khiến dòng vốn FDI quay đầu, đồng thời thế giới chứng kiến sự trỗi dậy của
chủ nghĩa bảo hộ ở các nước. Tồn cầu hóa đang có xu hướng thoái trào đã làm mỗi quốc
gia phải ưu tiên vào nguồn lực sẵn có trong nước và kích cầu nội địa nhiều hơn. Sự thối
trào của tồn cầu hóa đã xuất hiện trong những năm gần đây, khi những mâu thuẫn lợi ích
từ các quốc gia càng gia tăng như thương chiến Mỹ-Trung, chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa
dân túy dần lớn mạnh. Covid-19 đang làm q trình thối trào này trở nên nhanh hơn.
Các xu hướng trên có thể dẫn đến trật tự quốc tế mới hậu Covid-19, trong nguy có cơ,
Covid-19 có lẽ là thời cơ để các quốc gia rút ngắn khoảng cách trên khía cạnh kinh tế lẫn
chính trị. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết lúc này là phải khắc chế được Covid-19, câu chuyện
vị thế ai hơn ai mới khả thi. Trường hợp Trung Quốc và Mỹ đã minh chứng rõ nhận định
21


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM


này. Trong khi Mỹ đang loay hoay khắc chế dịch bệnh, Trung Quốc với những biện pháp
mạnh dạn, quyết liệt từ đầu đã bắt đầu khởi động các chương trình để phục hồi kinh tế.
Một bất ổn và thách thức khác đáng quan tâm hiện nay là vấn đề lương thực và nạn đói.
Covid-19 khiến số lượng người lâm vào cảnh đói trong năm 2020 tăng thêm 132 triệu, nâng
tổng số lên 822 triệu người, chiếm 10,6% dân số toàn cầu (FAO, UNICEF, WFP, WHO).
Theo dự báo của Oxfam International Covid-19 có thể khiến khoảng 12.000 người chết vì
đói mỗi ngày vào cuối năm 2020.
2. Các nền kinh tế bị "ngập" trong tiền và nguy cơ khủng hoảng nợ công
Với sự tàn phá của Covid-19, những gói hỗ trợ kinh tế vĩ mơ với quy mơ lớn lần lượt được
các chính phủ thực thi, nhằm giảm đau nền kinh tế và tránh cuộc suy thoái tương tự vào
những năm 1930. Tuy nhiên, mục tiêu tăng cường tính thanh khoản cho thị trường, kỳ vọng
gia tăng trong tiêu dùng và đầu tư dường như không đạt được hiệu quả. Kết quả này thậm chí
tồn tại ở một số quốc gia với mức lãi suất chính sách về gần bằng 0 như Mỹ, Anh, Australia,
Ba Lan, New Zealand, và dư địa từ chính sách tiền tệ cũng đã dần cạn kiệt.
Như vậy, sẽ là thách thức lớn cho các nước để củng cố niềm tin các nhà đầu tư, cũng
như phát đi tín hiệu cho thấy nền kinh tế sẽ hồi phục và tăng trưởng trong trung và dài
hạn. Xu hướng chung cho thấy các quốc gia hầu như dư thừa tiền, bởi các hoạt động kinh
tế thực không hấp thụ được hết trong giai đoạn dịch bệnh; cịn chính sách tiền tệ dường
như không đạt hiệu quả như kỳ vọng, khi nguồn tiền cứ tồn đọng và mắc kẹt trong hệ
thống tài chính. Kết quả này xuất phát từ những tác động của Covid-19 khi hàng loạt cơ
sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đóng cửa, ngành du lịch và vận tải gần như bị tê liệt
và các biện pháp phòng chống dịch như đóng cửa biên giới, phong tỏa khu vực có dịch,
cách ly xã hội.
Như vậy, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 chưa thể kiểm sốt tồn diện, các hộ gia
đình thường có tâm lý bi quan và có xu hướng giảm chi tiêu; các doanh nghiệp trì hỗn
và giảm đầu tư theo chính sách thắt lưng buộc bụng, đồng thời tiết kiệm tối đa để duy trì
hoạt động và phòng ngừa rủi ro từ cú sốc y tế lẫn kinh tế. Đây có thể xem là cú sốc cầu
của nền kinh tế, có tác động lớn hơn nhiều so với cú sốc cung đến từ sự đứt gãy chuỗi
cung ứng, rơi vào tình trạng cú sốc cung Keynesian. Bên cạnh đó, để linh hoạt trong cách
ứng phó với đại dịch, địi hỏi Chính phủ phải đảm bảo đủ nguồn ngân sách để phát huy

tối đa công năng của hệ thống y tế, cũng như duy trì sự ổn định của nền kinh tế ngay lúc
này. Đồng thời cần chuẩn bị cho cuộc “trường kỳ kháng chiến” trước những diễn biến
phức tạp, khó lường của đại dịch. Chính vì vậy, nguy cơ khủng hoảng nợ cơng có thể xảy
ra, khi nguồn thu ngân sách sụt giảm đến từ sự thu hẹp của nền kinh tế ở giai đoạn này.
22


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 2: Chính sách tiền tệ và tài khóa của một số quốc gia trên thế giới
A. Chính sách tiền tệ và tài khóa ở các quốc gia phát triển
Các biện pháp về chính sách tài khóa (%
GDP)

Các biện pháp về chính sách tiền tệ (% GDP)
Nhật

Anh

10.9

EU

20.8

EU

26.6


Mỹ

27.0

7.8

Mỹ

Nhật

13.7

0.0

5.0

10.0

15.0

42.3

0

15

30

Giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008-2009


Giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008-2009

Giai đoạn Covid-19

Giai đoạn Covid-19

45

B. Số lượng biện pháp chính sách tiền tệ đã công bố của khu vực EMDEs
800
700
600
500

Mua tài sản

400

Thay đổi lãi suất

300

Biện pháp hỗ trợ thanh khoản

200

Chính sách an tồn vĩ mô

100

0
23/01

17/02

13/03

07/04

02/05

27/05

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB

Trong khi đó nguồn chi ngân sách từ chính phủ lại tăng cao, đến từ các biện pháp
phòng chống dịch bệnh, chữa bệnh, mua sắm các thiết bị y tế, xây dựng bệnh viện, chi
cho các gói hỗ trợ tài chính trực tiếp, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, chi cho các gói hỗ trợ
chính sách tài khóa để giảm thiểu tác động của Covid-19. Do đó, các quốc gia phải đối
mặt với khả năng thâm hụt ngân sách và mức nợ chính phủ tăng cao. Một bài tốn hóc
búa dành cho chính phủ là sẽ làm gì để bù đắp khoản thiếu hụt ngân sách trên, hệ lụy này
có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công hậu Covid-19.

23


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM


Hình 3: Mức biến động nợ công và cán cân tài khóa tồn cầu (% GDP)
Nợ cơng

Cán cân tài khóa tổng thể

25.0
18.7

20.0
15.0

10.5

10.0
5.0

5.69

3.1

2.2

1.8

1.6

1.3

0.0
-0.77


-1.5

-5.0

-4.9

-10.0

-10.05

-15.0
2008

2009

2010

2019

2020e

2021e

Khủng khoảng tài Khủng khoảng tài Khủng khoảng tài Đại dịch Covid-19 Đại dịch Covid-19 Đại dịch Covid-19
chính
chính
chính

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ IMF


Hình 4: Cán cân tài khóa ở một số quốc gia (% GDP)
Nền
Nền kinh tế
kinh tế
thị
phát trường
triển mới nổi

Mỹ

Trung
Quốc Ấn Độ

Úc

Tây Ban
Nha
Pháp

Ý

Anh

-12.7

-12.7

Nhật


Canada

EU

Đức

5.0
0.0
-5.0
-10.0

-8.6
-10.6
-12.1

-15.0

-20.0
-25.0

-12.1
-13.9

-13.6

-12.6

-11.7

-10.7


-14.7

-16.6

-23.8

-30.0
2019

2020e

2021e

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2020), dữ liệu trích xuất từ IMF

24


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

3. Sự đứt gãy, tái cấu trúc trong các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị và sự "quay đầu"
của các dòng vốn FDI
Hình 5: Tăng trưởng thương mại tồn cầu (% so với cùng kỳ), 2017-2021
10
5.9

5.3

4

5

0.8

0

-5

-10

-10.4

-13.4

-15

2017

2018

2019

Tăng trưởng thương mại

2020e

2021e


Thời điểm 2009

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB

Các biện pháp phịng chống Covid-19 như đóng cửa biên giới, hạn chế xuất nhập cảnh đã
có tác động không nhỏ đến hoạt động thương mại và chuỗi giá trị tồn cầu (Hình 5, 6 &
7), đặc biệt các đầu tàu của chuỗi cung ứng như Mỹ, Trung Quốc, Đức. Việc đứt gãy
chuỗi cung ứng có thể làm tê liệt hoạt động sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, thiếu lực
lượng lao động, nhu cầu chi tiêu giảm, hệ thống và cách thức vận chuyển hạn chế, đây
được xem như cú sốc cung của mỗi quốc gia.
Tăng trưởng thương mại toàn cầu dự báo giảm 13,4%, đây là mức thấp nhất kể từ thời
hậu Thế chiến II.

25


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 6: Đơn đặt hàng xuất khẩu mới theo chỉ số quản lý thu mua PMI, T1.2008 T5.2020
60

55
50
45
40
35

30


30.6

27.1

25

Sản xuất

Dịch vụ

Apr-20

Sep-19

Feb-19

Jul-18

Dec-17

May-17

Oct-16

Mar-16

Aug-15

Jan-15


Jun-14

Nov-13

Apr-13

Sep-12

Feb-12

Jul-11

Dec-10

May-10

Oct-09

Mar-09

Aug-08

Jan-08

21.8

20

Chỉ số PMI (sản xuất) thời điểm thấp nhất 2009


Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WTO

Hình 7: Chỉ số quản lý thu mua PMI toàn cầu và một số quốc gia

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB
Chú ý: t là thời điểm bắt đầu xảy ra sự kiện, tính theo đơn vị tháng; giá trị cơ sở là 50

26


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 8: Biến động dự kiến trong dòng vốn FDI theo khu vực
-21.4

EMDEs

9.4
-5.2

SSA

25.6
-11.6

SAR


18.7
-36.3

MNA

10.0
-20.3

LAC

8.8
-26.3

ECA

12.3
-21.9

EAP

12.5

-45

-30

-15
2020e

0


15

30

Bình quân 2001-2019

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB, IMF, IIF
Chú ý: EAP = East Asia and Pacific, ECA = Europe and Central Asia, LAC = Latin America and the
Caribbean, MNA = Middle East and North Africa, SAR = South Asia, SSA = Sub-Saharan Africa.

Sự dịch chuyển và đứt gãy chuỗi cung ứng tồn cầu cịn đến từ các hành động trừng
phạt mang tính chất chính trị. Khi đó Trung Quốc trở thành mục tiêu đầu tiên bị hướng
tới, các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản (hỗ trợ 2,2 tỷ USD) đều có những chính sách hỗ
trợ các cơng ty đang có cơ sở sản xuất tại Trung Quốc rút khỏi quốc gia này. Hành động
này nhằm hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc (hành động tháo nút), khi nơi
này là mắt xích lớn trong chuỗi cung ứng của thế giới.
Thực tế hiện nay, các ngành công nghiệp trên thế giới đang quá phụ thuộc vào Trung
Quốc, như các nhóm ngành cơng nghiệp chế tạo ơ tơ, máy tính, điện tử, dệt may, dược.
Cùng với đó, xuất hiện sự “quay đầu” dịng vốn FDI (Hình 8 & 9) cho thấy sự bi quan
của các nhà đầu tư trước những bất ổn của thế giới, từ thương chiến Mỹ-Trung đến sự tàn
phá của đại dịch Covid-19. Chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, sự thối trào của tồn cầu hóa và
đứt gãy trong chuỗi cung ứng có thể được xem là những ngun nhân chính. Việc dịng
vốn FDI suy giảm cũng đã được UNTCTAD dự báo ở mức 20-30% trên toàn cầu.

27


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 9: Biến động dòng vốn quốc tế thuộc khu vực EMDEs trước những cú sốc kinh
tế toàn cầu (% GDP)
0.2
0.0
-0.2
Covid-19
Sự kiện sell-off 2018

-0.4

Sự kiện Taper Tantrum
Khủng hoảng 2008-2009

-0.6
-0.8
-1.0
t

t + 30

t + 60

t + 90

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021), dữ liệu trích xuất từ WB
Chú ý: t là thời điểm bắt đầu xảy ra sự kiện, các giá trị 30, 60, 90 tính theo đơn vị ngày

4. Xu hướng kích cầu nội địa và phá vỡ tồn cầu hóa

Một số biện pháp chống dịch từ các nước trên thế giới thơng qua hành động đóng cửa biên
giới, có thể hiểu là nội bất xuất ngoại bất nhập, cho thấy tác động nghiêm trọng đến q
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Việc này đẩy các tổ chức và hiệp định thương mại
tự do vào các tình thế thách thức mới để duy trì các cam kết đã thơng qua. Đại dịch có thể
dẫn đến sự thối trào trong q trình tồn cầu hóa, khi việc giao thương trở nên khó khăn
hơn bao giờ hết, đặc biệt với các quốc gia có độ mở thương mại cao và hội nhập quốc tế
sâu rộng như Việt Nam (thương mại trên GDP chiếm hơn 200%). Song song đó là dòng
vốn luân chuyển quốc tế sẽ bị gián đoạn, chuỗi cung ứng bị thu hẹp, tiêu dùng trong nước
phụ thuộc vào nội địa nhiều hơn, tâm lý bi quan trong đầu tư.
Trong tình thế đó, sự đứt gãy chuỗi cung ứng làm cho mỗi quốc gia ưu tiên vào kinh tế
nội địa nhiều hơn và chỉ tập trung phát huy các nguồn lực sản xuất sẵn có trong nước, thay
vì chú trọng vào hợp tác quốc tế, dẫn đến sự suy yếu của tồn cầu hóa. Covid-19 chỉ làm
trầm trọng và xúc tác nhanh hơn sự phá vỡ toàn cầu hóa, vốn dĩ đã tồn tại những bất ổn đến
từ mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia trong những năm gần đây, điển hình là thương chiến
Mỹ-Trung, quá trình Brexit của Anh với EU, cũng như việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 1-2017, đồng thời xem xét lại Hiệp định Thương
mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Tóm lại, hồn cảnh "đèn nhà ai nấy sáng, thân ai nấy lo" sẽ
28


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

làm trỗi dậy chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy và khả năng khu vực hóa sẽ gia tăng trong
thời gian tới. Hình 10 cho thấy có thể xuất hiện một kịch bản tồn cầu hóa mới.
Hình 10: Tồn cầu hóa mới
Đơng Âu

Mexico


ĐỨC

MỸ

PHÁP

TỒN CẦU
Tây Âu

HĨA

KHU VỰC
CHÂU ÂU

KHU VỰC
CHÂU Á

Canada
KHU VỰC
BẮC MỸ

Trung tâm tiêu thụ
của khu vực

Vịng lưu thơng
Đơng Âu

nội bộ của


Nhật Bản
Hàn Quốc

TRUNG QUỐC

Trung tâm chuỗi
cung ứng của khu vực

Nguồn: Nguyễn Khắc Quốc Bảo & cộng sự (2021)

5. Xu hướng thiết lập một trật tự thế giới mới hậu Covid-19
Trong bối cảnh đại dịch, một số quốc gia buộc phải tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, có thể
dẫn đến sự thay đổi về mặt chính trị, đồng thời chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy có khả
năng trỗi dậy. Với tình hình đó, viễn cảnh một trật tự thế giới mới trong tương lai có thể được
thiết lập thời hậu Covid-19. Điều này càng rõ ràng hơn khi xét trong bối cảnh thế giới vốn dĩ
đã nhiều bất ổn, điển hình là thương chiến Mỹ-Trung vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt, đây là
cuộc chiến cho vị thế ai sẽ cường quốc số 1 thế giới trong tương lai.
Vì thế, sự cấu trúc lại trong nền kinh tế tồn cầu sẽ là thời cơ Trung Quốc có thể tận
dụng để rút ngắn khoảng cách với Mỹ, Nhật, Đức, Nga trên phương diện kinh tế lẫn chính
trị. Sự so kè giữa Mỹ và Trung Quốc đã xuất hiện từ lâu và đỉnh điểm nhất là cuộc chiến
tranh thương mại vào năm 2018. Trong bối cảnh nền kinh tế Mỹ đang phải gánh chịu sự
tàn phá khủng khiếp từ Covid-19, Trung Quốc dường như đã bắt đầu khởi động các chính
sách hồi phục và kích thích nền kinh tế. Trong nguy có cơ, Trung Quốc dường như đang
29


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM


tận dụng thời cơ ngàn năm có một để thu hẹp khoảng cách với Mỹ, nền kinh tế số 1 toàn
cầu, cũng như nới rộng khoảng cách với các quốc gia theo sau như Nhật Bản, Đức, Ấn
Độ, từ đó nâng tầm vị thế với phần còn lại của thế giới. Kỷ nguyên hậu Covid-19 có thể
sẽ dẫn đến trật tự quốc tế mới được thiết lập kể từ sau thời Thế chiến thứ II, thời điểm
Mỹ đã có những thành công nhất định trong thiết lập vị thế.
Sự mâu thuẫn đã tồn tại khi đại dịch bùng phát, xuất phát từ Liên hiệp quốc (LHQ)
đã không thể hiện mạnh mẽ vai trò thúc đẩy nỗ lực hợp tác giữa các quốc gia nhằm ứng
phó với sự tàn phá của Covid-19. Việc này càng làm sự chia rẽ sâu sắc giữa các siêu
cường như Trung Quốc và Mỹ thêm trầm trọng. Song song đó, sự phản ứng chưa kịp thời
của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng dẫn đến những tranh luận lớn về vai trò chống
dịch của tổ chức này, thậm chí trở thành sàn diễn chính trị giữa các nhóm quốc gia thân
Mỹ và các quốc gia ủng hộ Trung Quốc. Đối với Mỹ, việc tăng cường hợp tác và giải
quyết được các vấn đề nội bộ trong nước lẫn quốc tế là bài tốn khó nhằm thiết lập trật
tự quốc tế mới theo ý muốn.
Mỹ có thể nhìn vào bài học lịch sử khi đã xây dựng trật tự mới thời hậu Thế chiến thứ
II (năm 1945) thành cơng, thay vì phải chấp nhận trật tự chủ nghĩa phát xít dẫn dắt thời
hậu Thế chiến thứ I (năm 1919). Trong giai đoạn hiện nay, hành động đầu tiên Mỹ và các
liên minh hướng đến là trừng phạt Trung Quốc, do nghi ngờ quốc gia này cố tình làm lây
lan Covid-19, càng làm sự chia rẽ giữa các nước thêm trầm trọng hơn. Hơn bao giờ hết,
Mỹ và Trung Quốc hãy cho thấy vai trị của mình trong việc tìm ra giải pháp để chấm dứt
Covid-19, đặc biệt là quá trình tìm ra vaccine điều trị, thay vì sự đơi co trên bàn cân chính
trị hiện nay. Chấm dứt Covid-19 mới là những gì thế giới đang cần.
6. Khủng hoảng lương thực và nạn đói trên thế giới
Vấn đề an ninh lương thực luôn được các quốc gia quan tâm, đặc biệt trong tình thế khó
khăn lúc này. Covid-19 đã không chỉ gây ra mối nguy hại cho sức khỏe cộng đồng, tàn phá
hệ thống kinh tế thế giới, cịn tác động lớn đến sinh kế của nhóm người dân dễ bị tổn thương
như nơng dân, người có thu nhập thấp, người đang thất nghiệp. Vào thời điểm này, việc
giải quyết khủng hoảng lương thực và nạn đói là vấn đề cấp bách phải xử lý, khi thế giới
đang chứng kiến sự đổ vỡ trong chuỗi cung ứng lương thực tồn cầu do đại dịch Covid-19.
Tổ chức Nơng lương quốc tế (FAO), Quỹ nhi đồng quốc tế (UNICEF), Chương trình Lương

thực quốc tế (WFP) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đã thống kê có khoảng 690 triệu
người trên tồn cầu lâm vào cảnh đói ăn (phần lớn đến từ châu Á).
Với tác động của đại dịch Covid-19, con số này có thể tăng thêm 132 triệu người, nâng
tổng số lên 822 triệu người lâm vào cảnh đói, chiếm 10,6% tổng dân số tồn cầu, điển
30


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

hình như Nam Phi và Venezuela đã xuất hiện nạn đói trên diện rộng. Thậm chí ngay cả
Mỹ, số liệu từ LHQ cho thấy nền kinh tế số 1 thế giới có khoảng 2% dân số khơng thể ăn
như ý muốn, nghĩa là chỉ ăn theo chế độ tối thiểu để sống sót, tương tự tại Ấn Độ là 78%.
Số liệu ước tính từ tổ chức Oxfam International dự báo đến cuối năm 2020 trên thế giới
sẽ có khoảng 12.000 người chết mỗi ngày vì đói, ngun nhân do ảnh hưởng của Covid19. Các dự báo còn chỉ ra rằng số người chết vì đói do dịch bệnh gây ra có thể nhiều hơn
số người thiệt mạng vì Covid-19.
Thống kê từ LHQ cũng minh chứng rằng lương thực trên toàn thế giới hiện này hoàn
toàn đủ đáp ứng nhu cầu cơ bản của mỗi người dân. Điều này hàm ý trong khi một số quốc
gia không thể tiếp cận với lương thực, thực phẩm, tại nhiều quốc gia khác lại đang dư thừa.
FAO ước tính có khoảng 2 tỷ người trên thế giới không được tiếp cận với lương thực, thực
phẩm cần thiết. Kết quả này càng làm rõ hơn sự bất bình đẳng trong xã hội hiện nay, khi
“kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”.
7. Kết luận
Trước những tác động của đại dịch và các phản ứng chính sách từ các quốc gia trên thế giới,
Việt Nam đã thực thi những quyết sách hợp lý mang tính thực dụng và tầm nhìn dài hạn cao,
trong đó sức khỏe người dân vẫn là kim chỉ nam của những thiết kế chính sách. Correa và
cộng sự (2020) cho rằng đại dịch là ngun nhân chính gây ra suy thối kinh tế, không phải
do các biện pháp y tế công cộng, quốc gia nào kiểm soát dịch bệnh càng tốt khả năng phục
hồi kinh tế trong trung, dài hạn càng cao. “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng” rất phù

hợp với bối cảnh hiện nay cũng như truyền thống của Việt Nam, khi nguồn lực về y tế và
ngân sách có hạn, việc đưa ra các giải pháp phòng chống dịch mạnh dạn, kịp thời có lẽ là
biện pháp tốt nhất để tránh sự đổ vỡ từ y tế đến kinh tế như trường hợp của Mỹ. Những giải
pháp về kinh tế cũng được Chính phủ thực thi nhanh chóng, các chính sách tiền tệ và tài khóa
được Chính phủ triển khai để hỗ trợ những nhóm đối tượng dễ tổn thương nhất. Hiện tại, các
chính sách Việt Nam thực thi cho thấy tầm nhìn và khả năng phản ứng linh hoạt, việc này
hàm ý sự chuẩn bị kỹ lường từ giải pháp đến nguồn lực ngân sách.
“Trong nguy có cơ” có lẽ là câu nói phù hợp lúc này để tìm ra con đường thốt khỏi sự tàn
phá của dịch bệnh, các giải pháp để giúp nền kinh tế chuyển mình, khẳng định vị thế với phần
cịn lại của thế giới, hoặc trở thành nền kinh tế có thu nhập cao như mục tiêu của Việt Nam vào
năm 2045. Covid-19 có thể sẽ thúc đẩy q trình cải cách nền kinh tế và thay đổi những động
lực tăng trưởng trước đây. Điển hình như động lực về thương mại của Việt Nam trước đây có
lẽ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự đứt gãy của chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như sự
thối trào của tồn cầu hóa. Bên cạnh đó là sự cải cách trong cách vận hành nền kinh tế, cũng
như phát huy tối đa tiềm lực trong nước, thay vì phải phụ thuộc vào thương mại.
31


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Tài liệu tham khảo
Asian Development Bank (2020). ADB Covid-19 Policy Database. Truy cập ngày 15/09/2020 từ
.
Asian Development Bank (2020). An Updated Assessment of the Economic Impact of COVID-19
(May 2020). Metro Manila: ADB.
Congressional Research Service (2020). Global Economic Effects of COVID-19 (August 2020).
Washington, DC: CRS.
Felipe, J., & Fullwiler, S. (2020). ADB Covid-19 Policy Database: A Guide. Asian Development

Review, 37(2), 1-20.
International Monetary Fund (2020). World Economic Outlook (June 2020). Washington, DC: IMF.
Nguyễn Khắc Quốc Bảo & Tô Công Nguyên Bảo (2020). Phản ứng chính sách của một số nước trên
thế giới trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và các tác động đến Việt Nam. Tài liệu trình bày tại
Diễn đàn “Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 9 tháng năm 2020 và một số giải pháp”, do Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội đồng tổ chức, tại Cần Thơ, ngày 24/09/2020.
Peterson Institute For International Economics (PIIE) (2020). US unemployment rate falls in August
as many workers on temporary layoffs return to work. Truy cập ngày 15/09/2020 từ
/>World Bank (2020). Global Economic Prospects (June 2020). Washington, DC: WB.
World Health Organization (2020). WHO Coronavirus Disease (COVID-19) Dashboard. Truy cập
ngày 30/09/2020 từ .
World Trade Organization (2020). World Trade Statistical Review 2020. Geneva: WTO.

32



×