Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số gợi ý đối với chính sách tài khóa của Việt Nam từ Covid-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.23 KB, 10 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

26.

1Phạm

Quốc Việt*

Tóm tắt
Bài viết đánh giá tác động của Covid-19 đến thu, chi ngân sách nhà nước và gia tăng nợ
quốc gia tại các nền kinh tế trong năm 2020; từ đó nêu bật tính cấp thiết của việc mở
rộng nguồn thu thuế từ các chủ thể được hưởng lợi từ dịch bệnh. Bài viết cũng trình bày
thực trạng phục hồi kinh tế sau Covid-19 theo mơ hình chữ K, với sự phát triển mạnh mẽ
của các tập đồn cơng nghệ (Big Tech) và những đe dọa từ thực trạng này đến chính
sách tài khóa của các quốc gia. Một số đề xuất đối với chính sách tài khóa của Việt Nam
trong thời gian tới bao gồm: (1) Áp dụng mức thuế tối thiểu tồn cầu cho các cơng ty đa
quốc gia theo sáng kiến cải cách thuế của OECD; (2) Áp dụng nguyên tắc thu thuế theo
điểm đến đối với các giao dịch kinh doanh dựa trên nền tảng số, không chỉ đối với các
giao dịch xuyên quốc gia, mà bao gồm cả giao dịch nội địa; (3) Tiếp tục khẳng định đồng
tiền ảo, nếu không được các ngân hàng trung ương phát hành, khơng phải là phương tiện
thanh tốn.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, nền tảng số, tiền ảo, Covid-19.
1. Giới thiệu
Tình trạng gia tăng các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động, trong bối cảnh
chuỗi cung ứng hàng hóa thực và đi lại của con người bị cắt đứt, dẫn đến sụt giảm GDP
trầm trọng, và theo đó là nguồn thu của ngân sách nhà nước. Hậu quả là nợ quốc gia tăng
vọt trên bình diện tồn cầu, có thể xảy ra tình trạng cạnh tranh thu hút nguồn tài trợ giữa
các quốc gia và đẩy các nước đang phát triển với quy mô GDP nhỏ ra khỏi thị trường tài
chính tồn cầu. Tình trạng này buộc các quốc gia phải tìm kiếm các nguồn thu thuế mới,



*Trường Đại học Tài chính – Marketing | Email liên hệ:

379


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

và hợp lý hơn cả là từ những chủ thể kinh tế đã hưởng lợi từ dịch bệnh, đó là các tập đồn
cơng nghệ lớn.
Tuy vậy, sự lớn mạnh của các tập đồn cơng nghệ lớn đã làm cho các ngun tắc thu
thuế hiện tại trở nên lỗi thời. Mặt khác, việc ứng dụng các nền tảng thanh tốn dựa trên
cơng nghệ blockchain của các tập đoàn này cho phép sử dụng các đồng tiền ảo, có khả
năng đe dọa độc lập tiền tệ và ổn định tài khóa của các quốc gia.
Bài viết này khởi đầu từ đánh giá thực trạng thâm hụt tài khóa và gia tăng nợ quốc
gia do Covid-19, phân tích quyền lực của các tập đồn cơng nghệ và đe dọa của chúng
đối với chính sách tài khóa, và kết thúc bằng một số gợi ý chính sách có liên quan cho
Việt Nam.
2. Thâm hụt tài khóa và gia tăng nợ quốc gia do COVID-19
Covid-19 đã gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội tại các quốc
gia trên thế giới khi nhiều quốc gia áp dụng giãn cách xã hội, hạn chế xuất nhập cảnh. Hậu
quả là nhiều quốc gia rơi vào suy thoái từ sau khủng hoảng tài chính 2007-2008.
Bảng 1. Tăng trưởng GDP năm 2020 của các nền kinh tế mức thu nhập đầu người
Tốc độ tăng trưởng GDP
2020
Các nền kinh tế phát triển
Nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
Thế giới


2019

2015-2019

-5,8%

1,7%

0,8%

-3,3%

3,7%

3,08%

-4,4%

2,8%

2,06%

Nguồn: />
Bảng 1 cho thấy hầu hết các nền kinh tế có tăng trưởng âm trong năm 2020, bình qn
tồn cầu sụt giảm GDP ở mức -4,4%; các nền kinh tế phát triển chịu ảnh hưởng lớn hơn,
với mức sụt giảm lên đến gần 6%, gần gấp đôi mức sụt giảm của các nền kinh tế mới nổi
và đang phát triển.
Vấn đề kinh tế này đã gây ra tác động mạnh mẽ đến thu, chi NSNN và cân đối NSNN
tại các nền kinh tế.


380


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Bảng 2. Thu, chi NSNN và cân đối NSNN của các nền kinh tế theo mức thu nhập
đầu người năm 2020
Thu NSNN (so với GDP)

Chi NSNN (so với GDP)

Cân đối NSNN (đã điều chỉnh
chu kỳ, so với GDP)

2020

So với
2019

So với
20152019

2020

So với
2019


So với
20152019

2020

So với
2019

So với
20152019

Các nền kinh tế
phát triển

34,78%

97,45%

96,22%

49,17%

126,11%

126,45%

-11,60%

313,74%


428,53%

Nền kinh tế
mới nổi và thu
nhập trung bình

24,28%

89,87%

89,59%

35,00%

109,63%

111,16%

-8,98%

187,46%

221,43%

Nền kinh tế thu
nhập thấp

12,96%

88,30%


89,33%

19,19%

102,62%

105,23%

-11,32%

149,39%

153,05%

Nguồn: />
Bảng 2 bên dưới cung cấp thông tin về thu, chi NSNN và cân đối NSNN của các nền
kinh tế theo mức thu nhập đầu người. Mặc dù tỷ lệ thu, chi NSNN so với GDP có thể
khác nhau (tỷ trọng thu, chi NSNN so với GDP giảm dần từ các nền kinh tế phát triển
đến các nền kinh tế thu nhập thấp), nhưng có thể thấy rõ:
▪ Thu NSNN năm 2020 sụt giảm so với năm 2019 và bình quân giai đoạn 20152019, các nền kinh tế phát triển sụt giảm nhẹ (3-4%), cịn nền kinh tế thu nhập
trung bình và thu nhập thấp sụt giảm mạnh (trên 10%). Số liệu thống kê cho thấy
ảnh hưởng của Covid-19 đến thu NSNN lớn hơn ở các nước có thu nhập thấp hơn,
dẫn đến việc duy trì chi thường xuyên của bộ máy nhà nước tại các nền kinh tế
này trở thành thách thức lớn.
▪ Chi NSNN năm 2020 tăng so với năm 2019 và bình quân giai đoạn 2015-2019,
các nền kinh tế phát triển tăng hơn 26%, các nền kinh tế thu nhập trung bình tăng
khoảng 10%, cịn các nền kinh tế thu nhập thấp tăng ít nhất (3-5%). Số liệu này
khẳng định lập luận nêu trên, khi “dư địa” sử dụng cơng cụ chính sách tài khóa để
hỗ trợ doanh nghiệp và công dân lớn hơn tại các nền kinh tế đã phát triển.

▪ Cân đối NSNN năm 2020 của các nền kinh tế đều thâm hụt từ 9-11% GDP. Nếu
so với năm 2019, thâm hụt NSNN mở rộng từ 1,5-3 lần; cịn nếu so với bình qn
giai đoạn 2015-2019, thâm hụt NSNN mở rộng từ 1,5-4 lần. Điều này cho thấy
mức độ cạnh tranh trong tìm kiếm nguồn tài trợ cho chi NSNN tại các quốc gia là
rất cao, đặc biệt tại các nền kinh tế đã phát triển và thu nhập trung bình (có thâm
hụt NSNN tăng từ 2-4 lần so với trước đó). Những nền kinh tế có thu nhập thấp,

381


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

với xếp hạng tín nhiệm dưới mức đầu tư, chi phí tài trợ cao, có nguy cơ bị loại
khỏi cuộc cạnh tranh này.
Mất cân đối NSNN nghiêm trọng trong năm 2020 đã làm gia tăng nợ quốc gia trên phạm
vi toàn cầu.
Bảng 3. Nợ quốc gia năm 2020 của các nền kinh tế theo mức thu nhập đầu người
Nợ quốc gia (so với GDP)
2020

2019

20152019

2020 so với
2019

2020 so với

2015-2019

Các nền kinh tế phát triển

125,45%

105,26%

108,35%

119,18%

115,78%

Nền kinh tế mới nổi và thu
nhập trung bình

62,20%

52,62%

50,53%

118,20%

123,09%

Nền kinh tế thu nhập thấp

43,28%


39,43%

39,98%

109,78%

108,27%

Nguồn: />
Trong giai đoạn 2015-2019, các nền kinh tế phát triển đã giảm nợ quốc gia, khi tỷ lệ
nợ năm 2019 là 105,26% GDP, thấp hơn tỷ lệ bình quân trong giai đoạn 2015-2019
(108,35%), thì tỷ lệ nợ năm 2020 tăng vọt lên mức 125,45%; tăng gần 20% so với năm
2019. Tình hình tương tự đối với các nền kinh tế thu nhập trung bình và thu nhập thấp,
với tỷ lệ nợ công năm 2020 tăng lần lượt 18% và 9,78% so với số liệu năm 2019. World
Bank, trong ấn phẩm Viễn cảnh kinh tế toàn cầu 2021, đã cung cấp số liệu về nợ chính
phủ tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tăng 9 điểm phần trăm GDP chỉ trong
năm 2020, mức tăng cao nhất kể từ thập niên 1980. Bên cạnh đó, nợ tư nhân tại các nền
kinh tế này cũng tăng mạnh do suy thối kinh tế tồn cầu.
Nợ quốc gia tăng cao, một mặt làm gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường nợ nội
địa và quốc tế, có khả năng xảy ra hiện tượng chèn lấn của các nền kinh tế lớn đối với
nền kinh tế nhỏ của khu vực nhà nước đối với khu vực tư nhân; mặt khác làm gia tăng rủi
ro vỡ nợ và nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ trong tương lai, khi tốc độ hồi phục kinh tế
chậm hơn mong đợi.
3. Phục hồi kinh tế dạng chữ K và quyền lực của các tập đồn cơng nghệ
Đại dịch Covid-19 và các chính sách hỗ trợ từ chính phủ các quốc gia có thể gây ra một
số mơ hình phục hồi kinh tế như mơ hình chữ V (kinh tế suy giảm mạnh, sau đó phục hồi
mạnh mẽ), mơ hình chữ W (kinh tế suy thoái, phục hồi nhẹ, tiếp tục rơi vào suy thoái
382



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

trước khi phục hồi vững chắc), mơ hình chữ L (kinh tế suy thối nghiêm trọng, nhiều năm
sau đó chưa trở lại xu thế tăng trưởng); nhưng nhiều nhà kinh tế và quản trị doanh nghiệp
cho rằng mơ hình chiếm ưu thế là phục hồi kinh tế dạng chữ K. Mô hình chữ K cịn gọi
là mơ hình phục hồi 2 tầng, khi một bộ phận của nền kinh tế phục hồi dạng chữ V, và bộ
phận còn lại phục hồi dạng chữ L. Chẳng hạn, các ngành du lịch, giải trí, hàng khơng…
đã chịu ảnh hưởng tiêu cực từ giãn cách xã hội và hạn chế đi lại, khả năng phục hồi trong
tương lai phụ thuộc vào kết quả kiểm sốt dịch bệnh; thì thương mại điện tử, dược phẩm
và thiết bị y tế lại có những tăng trưởng vượt bậc. Mơ hình chữ K cịn liên quan đến sự
phân hóa to lớn trong thu nhập (bất bình đẳng thu nhập gia tăng), trong tìm kiếm việc làm
của các tầng lớp dân cư trong một quốc gia (tùy thuộc vào khả năng tiếp cận thị trường
số trong tương lai), sự phân hóa giữa các doanh nghiệp theo quy mơ (doanh nghiệp nhỏ,
siêu nhỏ ngưng hoạt động chiếm tỷ lệ áp đảo so với doanh nghiệp lớn), giữa kinh tế thực
và kinh tế tài chính (các thị trường chứng khốn đã phục hồi ở mức trước dịch bệnh, còn
kinh tế thực vẫn gặp nhiều khó khăn) và rộng hơn là sự phân hóa giữa các quốc gia theo
mức độ phát triển và thu nhập (các nền kinh tế thu nhập trung bình và thu nhập thấp hạn
chế trong chính sách tài khóa và vay nợ, đã nêu ở phần 2 của bài viết này).
Báo cáo rủi ro toàn cầu 2021 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã chia sẻ kết quả khảo
sát gần nhất từ phía các nhà quản trị, trong đó nêu các lĩnh vực dịch chuyển theo hướng
tích cực hoặc tiêu cực trong năm 2020, so với bình quân giai đoạn 2017-2019, từ các nền
kinh tế đã phát triển và mới nổi. Đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, những
lĩnh vực được cải thiện nhiều nhất theo mức độ là: (1) Hợp tác trong nội bộ cơng ty; (2)
Phản ứng của chính phủ đối với sự thay đổi; (3) Hiệu quả của dịch vụ đào tạo; (4) Tính
sẵn có của vốn mạo hiểm; (5) Năng lực thu hút nhân tài của quốc gia. Ngược lại, những
lĩnh vực bị hạ bậc đánh giá bao gồm: (1) Gia tăng chi phí kinh doanh liên quan đến tội
phạm và bạo lực; (2) Giảm tính độc lập của tư pháp; (3) Gia tăng tội phạm có tổ chức;

(4) Gia tăng vị thế thống lĩnh thị trường; (5) Lịng tin của cơng chúng vào chính trị gia.
Từ kết quả đánh giá này, kết hợp với mơ hình phục hồi dạng chữ K, có thể thấy được
sự tăng trưởng mạnh mẽ của các thực thể kinh tế lớn có ưu thế về công nghệ số qua đại
dịch Covid-19. Số liệu cho thấy tỷ trọng của 10 cơng ty có vốn hóa lớn nhất (trong đó có
6 cơng ty Facebook, Apple, Amazon, Netflix, Microsoft, và Alphabet - công ty mẹ của
Google) trong chỉ số S&P 500 tăng từ mức 19,1% năm 2019 lên 27,6% trong năm 2020(2),
áp đảo 490 công ty còn lại trong chỉ số này.

Ritholtz B. (2018). Top-Heavy Stock Indexes Are Nothing to Fear. Truy cập tại:
/>(2)

383


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Sự trỗi dậy của các tập đồn cơng nghệ lớn, đại diện là Amazon, Apple, Facebook và
Google, nổi tiếng bằng sự đổi mới công nghệ và thúc đẩy ứng dụng công nghệ kỹ thuật
số hơn bất kỳ công ty nào khác từ nhiều năm qua, được hỗ trợ bởi các hậu quả của Covid19 như giãn cách xã hội và sự ngưng trệ của hoạt động kinh tế thực, đã làm gia tăng quyền
lực kinh tế (và kéo theo đó là quyền lực chính trị) của các tập đồn cơng nghệ, thường
được gọi là Big Tech. Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới hạn bởi ảnh hưởng của Big
Tech đối với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của các quốc gia.
Như đã trình bày ở phần 2, thu NSNN sụt giảm mạnh ở các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển trong năm 2020, cùng với áp lực mở rộng tài khóa để thúc đẩy phục hồi
kinh tế và hỗ trợ an sinh xã hội, đặt ra yêu cầu tìm kiếm nguồn thu thuế mới, đặc biệt từ
các chủ thể hưởng lợi nhiều nhất từ dịch bệnh, các Big Tech. Tuy nhiên, những nỗ lực
nhằm chấn chỉnh hệ thống thuế quốc tế vẫn đang diễn ra kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế
cuối cùng vào năm 2008 và việc đánh thuế các công ty công nghệ vẫn đang chứng tỏ là

một thách thức. Các Big Tech đã định hình mơ hình kinh doanh mới thơng qua việc liên
kết các chủ thể nguồn tài nguyên khác nhau, không phân biệt chủ thể quốc gia.
Theo Borrett (2021), các công ty công nghệ khổng lồ của Mỹ đã nhiều lần bị chỉ
trích vì trả mức thuế rất thấp trên khắp thế giới, bất chấp việc họ được định giá thị trường
hấp dẫn và tốc độ tăng trưởng chưa từng có. Báo cáo về “Silicon Six” (Google, Amazon,
Apple, Facebook, Microsoft và Netflix) của tổ chức Fair Tax Mark cho thấy khoảng cách
giữa thuế pháp định và thuế hiệu lực là 155,3 tỷ USD trong giai đoạn 2010-2019. Việc
thu thuế các tập đồn cơng nghệ ngày càng khó khăn khi mơ hình kinh doanh mới có các
yếu tố về vốn và lao động ở trên không gian mạng, được phát triển mạnh do Covid-19,
do đó các quy tắc thuế hiện hữu không thể giúp phát hiện địa điểm diễn ra hoạt động kinh
tế, nên hầu như không thể đánh thuế theo lãnh thổ (territorial taxation) hay theo người cư
trú (resident-based taxation). Một sáng kiến cải cách hệ thống thuế toàn cầu mà OECD
đã đưa ra từ sau khủng hoảng tài chính 2007-2008, nhằm phản ánh thực tế của một nền
kinh tế số hóa và tồn cầu hóa dựa trên 2 trụ cột mới: (1) Trụ cột đầu tiên tìm cách đảm
bảo rằng các quốc gia có thể đánh thuế các công ty không nắm giữ bất kỳ tài sản vật chất
nào trên thị trường mà thu lợi nhuận từ những người dùng ở đó (destination-based
taxation); (2) Trụ cột thứ hai nhằm giải quyết vấn đề định giá chuyển giao thông qua áp
mức thuế tối thiểu toàn cầu cho tất cả các công ty đa quốc gia, dù kỹ thuật số hay khơng.
Trong khi đề xuất này cịn đang trong vịng thảo luận (dự kiến đến giữa năm 2021), một
số quốc gia châu Âu đã hoặc đang lên kế hoạch triển khai thuế dịch vụ kỹ thuật số (Digital
Services Tax – DST). Tuy nhiên, cách tiếp cận khác nhau đối với thuế DST đưa ra mức
độ phức tạp cao, gây tốn kém khơng chỉ đối với các Big Tech, vốn có các dòng doanh thu
384


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

và mơ hình kinh doanh hết sức đa dạng, mà cịn đối với các chính phủ, những

người phải thu thập và kiểm toán tất cả các nguồn khác nhau này (Borrett, 2021).
Một nguy cơ khác mà các Big Tech có thể ảnh hưởng đến dự định thu thuế của các
quốc gia, đó là việc vận hành hệ thống thanh tốn riêng của mình. Trong những năm qua,
các Big Tech đã nỗ lực thúc đẩy việc áp dụng tiền ảo (cryptocurrency) và công nghệ
blockchain, bằng cách thu hẹp khoảng cách giữa thế giới tài chính truyền thống và thế
giới tiền ảo bằng các dịch vụ thanh toán tương ứng của họ: Amazon Pay, Apple Pay,
Facebook Pay, và Google Pay. Mặc dù các dịch vụ thanh toán này đều hỗ trợ thanh toán
giao dịch bằng các đồng tiền pháp định, nhưng các dịch vụ này đã hỗ trợ thanh toán bằng
các loại tiền ảo, như Google Pay với sàn giao dịch tiền ảo Coinbase, hay Apple Pay và
PayPal với nền tảng thông tin tiền ảo NewsCrypto. Với tính ẩn danh cao của cơng nghệ
blockchain và với việc sử dụng tiền ảo trong thanh toán các giao dịch trực tuyến, việc
quản lý và thu thuế theo điểm đến (destination – based taxation) trở nên bất khả thi. Hơn
nữa, các Big Tech đã và đang triển khai các dự án tiền ảo của riêng mình. Amazon đã
cung cấp nền tảng dịch vụ blockchain của mình với tên gọi Amazon Managed
Blockchain. Facebook cũng có kế hoạch khởi động dự án tiền ảo của riêng mình được
gọi là Libra, nhưng gặp chỉ trích và phản đối mạnh mẽ từ phía các ngân hàng trung ương.
Đầu năm 2021, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã cảnh báo sự tham gia của các
Big Tech vào các dự án tiền ảo là gây nguy hiểm cho quyền riêng tư, gia tăng rủi ro cho
môi trường cạnh tranh và thậm chí đe dọa chủ quyền tiền tệ (Stolton, 2021).
4. Một số đề xuất chính sách liên quan
Rõ ràng đại dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng tiêu cực trầm trọng đối với chính sách tài
khóa, qua đó tác động đến nợ quốc gia và nợ công tại các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển trong năm 2020. Mặc dù Việt Nam là một trong những nền kinh tế hiếm hoi
đạt được mức tăng trưởng dương và có tỷ lệ nợ công được cải thiện đáng kể trong năm
2020, nhưng cần quan tâm đến vấn đề thu thuế từ các tập đồn đa quốc gia, đặc biệt là
những cơng ty có nền tảng cơng nghệ lớn.
Đề xuất thứ nhất liên quan đến việc nghiên cứu vận dụng sáng kiến cải cách thuế của
OECD. Về vấn đề quản lý thuế đối với giao dịch liên kết, Việt Nam đã phát triển các quy
định, thủ tục trong nhiều năm; nhưng kết quả đạt được chưa như mong đợi do nhiều
nguyên nhân, chủ yếu là nguyên nhân khách quan như thiếu hụt cơ sở dữ liệu về giao

dịch và tồn tại sự khác biệt về thuế suất giữa các quốc gia. Trụ cột cải cách thuế thứ hai
của OECD liên quan đến ý tưởng đặt ra một mức thuế tối thiểu toàn cầu (Global minimum
tax) - tức mức thuế áp dụng cho các cơng ty có thu nhập từ hoạt động xun biên giới
đang nộp thuế dưới một ngưỡng nhất định. Việt Nam cần tích cực ủng hộ sáng kiến cải
385


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

cách thuế nói trên để áp dụng cho các cơng ty có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, trong thời gian gần nhất, Việt Nam cần rà soát lại các ưu đãi về thuế thu nhập doanh
nghiệp (miễn thuế, giảm thuế, thuế suất ưu đãi, chuyển lỗ) để chuẩn bị lộ trình điều chỉnh
mức thuế tối thiểu của mình khơng mâu thuẫn với mức thuế tối thiểu tồn cầu theo đề
xuất của OECD.
Liên quan đến các công ty có nền tảng cơng nghệ lớn và các giao dịch thực hiện trên
không gian mạng, OECD đã và đang phát triển các quy tắc để buộc các công ty kỹ thuật
số phải nộp thuế tại nơi họ kinh doanh, thay vì nơi họ đăng ký cơng ty con. Luật Quản lý
thuế (2019)(3) của Việt Nam đã bước đầu ban hành quy định về thuế đối với các hoạt động
“kinh doanh dựa trên nền tảng số” (digital platform); cụ thể là giao nhiệm vụ quản lý,
giám sát các giao dịch xuyên biên giới liên quan đến hoạt động này cho NHNN và Bộ
Tài chính, đồng thời ngân hàng thương mại và các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian
thanh toán có nhiệm vụ khấu trừ, nộp thay thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngồi
khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam(4). Quy định này đã giải quyết được các trường
hợp nhà cung cấp khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần có những định
nghĩa chi tiết hơn về các biểu hiện của “kinh doanh dựa trên nền tảng số”, đồng thời đơn
giản hóa các thủ tục kê khai và khấu trừ thuế đối với các hoạt động này. Bên cạnh đó,
Luật Quản lý thuế (2019) mới chỉ đề cập đến quản lý thuế đối với giao dịch xuyên biên
giới, mà chưa tính đến các giao dịch trong nước dựa trên nền tảng số, trong trường hợp

nhà cung cấp không phải là pháp nhân, khơng đăng ký kinh doanh. Vì vậy, cần ban hành
quy định chung về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng số, mà
thanh toán xuyên biên giới chỉ là một trường hợp đặc biệt.
Đề xuất cuối cùng liên quan đến xu thế thanh toán qua các nền tảng blockchain với
việc sử dụng tiền ảo. Như đã nêu ở phần 3, các Big Tech đang đẩy mạnh các nền tảng hỗ
trợ thanh toán giao dịch sử dụng cơng nghệ blockchain với tính ẩn danh cao, cho phép sử
dụng đồng tiền ảo trong thanh tốn, có thể dẫn đến vơ hiệu hóa quy định quản lý thuế đối
với hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng số mà Việt Nam mới ban hành. Liên quan
đến tiền ảo, nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã cảnh báo những nguy cơ
từ việc đầu tư, giao dịch tiền ảo của các chủ thể trong nền kinh tế. Võ Đức Toàn (2021)
cho rằng giao dịch tiền ảo chứa đựng nhiều rủi ro, tạo điều kiện cho phát triển các loại tội
phạm công nghệ cao, rửa tiền, trốn thuế, tham nhũng, đặc biệt là các rủi ro trên thị trường
tài chính. Trần Văn Biên và Nguyễn Minh Oanh (2020) đã đánh giá tiền ảo từ khía cạnh
pháp lý, cho rằng Việt Nam cần có định nghĩa rõ ràng, cụ thể về tiền ảo; ghi nhận tiền ảo
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 13/06/2019
Nghị định 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản
lý thuế
(3)
(4)

386


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

là một loại tài sản mới, và là một loại tài sản đặc biệt lưu thơng có điều kiện; chưa nên
cơng nhận tiền ảo là phương tiện thanh toán; cần thu thuế đối với các hoạt động liên quan
đến tiền ảo; cho phép thành lập và kiểm soát các sàn giao dịch liên quan đến tiền ảo, cho

phép và kiểm soát phát hành tiền ảo ra công chúng (Initial Coin Offerings – ICO).
Từ năm 2017, Việt Nam đã triển khai Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử
lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo(5), với 6 nhiệm vụ chính: (1) Rà sốt,
đánh giá thực trạng pháp luật về tài sản ảo, tiền ảo ở Việt Nam và nghiên cứu, khảo sát
kinh nghiệm quốc tế liên quan; (2) Rà soát, nghiên cứu và đề nghị sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới văn bản quy phạm pháp luật về tiền điện tử; (3) Lập đề nghị xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật về tài sản ảo, tiền ảo; (4) Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới văn bản quy phạm pháp luật về thuế đối với tài sản ảo, tiền ảo; (5) Nghiên cứu,
đề xuất biện pháp phòng, chống, xử lý các vi phạm liên quan đến tài sản ảo, tiền ảo; (6)
Nghiên cứu, lập đề xuất sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh nhằm hoàn thiện khung pháp
lý quản lý, xử lý tài sản ảo, tiền ảo.
Từ thực trạng quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng số tại Việt
Nam, cần tiếp tục khẳng định: (1) Tiền ảo, nếu không phải do các Ngân hàng trung ương
pháp hành, không được xem là phương tiện thanh toán; việc sử dụng tiền ảo trong thanh
toán phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh “Phát hành, cung ứng, sử dụng
các phương tiện thanh tốn khơng hợp pháp”; hoặc “làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
tiền giả” (đã được quy định tại các Điều 206, 207, Bộ Luật Hình sự 2015); (2) Tiền ảo,
tài sản ảo cần được pháp luật quy định là một loại tài sản đặc biệt, kèm theo đó là các
quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản này, bao gồm nghĩa vụ thuế liên quan đến tài sản
ảo và thu nhập từ tài sản ảo.
Tài liệu tham khảo
Trần Văn Biên, Nguyễn Minh Oanh (2020). Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở Việt Nam
hiện nay. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2020.
Võ Đức Toàn (2021). Tiền ảo và tác động của tiền ảo đến thị trường tài chính Việt Nam. Tạp chí
Cơng Thương, số 1, tháng 1 năm 2021.
Borrett A. (2021). Consensus is emerging on how to tax Big Tech. Monitor Daily. Truy xuất từ:
/>Fair Tax Mark (2019). The Silicon Six and their $100 billion global tax gap. Truy xuất từ:
/>
Quyết định 1255/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/8/2017 phê duyệt Đề án hoàn thiện khung
pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo

(5)

387


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

International
Monetary
Fund
(2021).
/>
IMF

Datamapper.

Truy

xuất

từ:

Organization for Economic Cooperation and Development (2020). Tax Policy Reforms 2020 –
OECD and Selected Partner Economies. Truy xuất từ: />Stolton S. (2021). ECB issues stark warning on Big Tech cryptocurrency projects. EURASTIV.
Truy xuất từ: />World Bank (2021). Global Economic Prospects 2021. Truy
/>
xuất


từ:

World Economic Forum (2021). The Global Risks Report 2021. Truy xuất từ:
/>
388



×