Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Các vấn đề bản thể luận trong triết học Mác – Lênin và vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.5 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

1


A. Vấn đề bản thể luận
I- Khái niệm về bản thể luận trước Mác.
1. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông.
1.1. Quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại về bản thể luận:
Với quan điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát, lấy tự
nhiên để giải thích những gì thuộc về tự nhiên. Đây là quan niệm học thuyết về
sự liên hệ, sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong thế giới là âm và dương và
ngũ hành là bản thể làm nên sự tồn tại của thế giới.
Quan điểm về Đạo của Lão tử là quan điểm tiêu biểu của người Trung
Quốc cổ đại về bản thể luận. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, trống
khơng và lặng n nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự
thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có
danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”,
“mập mờ”, “thấp thống” khơng có đặc tính, khơng có hình thể, nhìn khơng nhìn
thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại
bất luận con người có nhận thức được hay không.
1.2. Quan niệm của triết học Ấn Độ cổ trung đại về bản thể luận.
Các nhà triết học ở Ấn Độ cho rằng bản thể của thế giới chính là các vị thần
có tính chất tự nhiên, vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là
thiên giới, trần thế và địa ngục. Sớm nhất là trong khoảng thế kỷ VIII – VI trước
Công Nguyên, bộ kinh Upanisad đã cho rằng bản nguyên tối cao bất diệt của thế
giới là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, đó là thực thể duy nhất, có trước, tồn
tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về nó
sau khi chết. Ngồi ra có nhiều các trường phái khác nhau như phái Samkhya,
trường phái Nyaya Vaisesika và Phật giáo.
Một khái niệm khác của Phật giáo khi đề cập đến vấn đề bản thể luận là


“không”. Và trong kinh Phật có cụm từ “sắc sắc khơng khơng” để nói về sự vơ
thường của cuộc sống. Vạn vật tự sinh tự diệt, chuyển biến không ngừng trong
từng phút giây.
2


2. Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây.
Khái niệm “bản thể luận” được xuất hiện ở thế kỷ XVII tại phương Tây.
Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học
phương Tây tới mức chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của
phương pháp tư duy triết học Tây Âu. Trong mỗi thời kỳ, triết học Phương Tây
lại có những nhà triết học tiêu biểu với nhiều quan niệm về “bản thể luận” khác
nhau, điều đó đã tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về triết học phương Tây.
2.1. Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại.
Ta-let (624-546 TCN) cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể
chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ơng, thực thể đó chính là nước.
Trong cơng cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải kể
đến Pi-ta-go (571-497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà tốn học. Ơng
cho rằng bản ngun thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối toàn
bộ thế giới theo một quy luật nhất định. Vì vậy, con số khơng chỉ là bản ngun
của tồn bộ sự vật mà còn là cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn tại vĩnh
viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tuy
nhiên, uy luật toán học chỉ là một loại quy luật, ngồi ra cịn rất nhiều những quy
luật khác.
Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN) được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới
là lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con
người. Theo ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy
và tàn lụi. Lửa trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa. Cũng như chúng ta
đổi hàng hóa vấy vàng và vàng thành hàng hóa.

Đê-mơ-crit (460-370TCN) đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc
của tồn tại, trong quan hệ của nó với nguyên tử. Theo Đê - mô crits, cơ sở của
thế giới vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ, không thể phân
chia được và tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các nguyên tử khác nhau về hình thức,
trật tự và tư thế. Nguyên tử khơng những vơ hạn về số lượng mà cịn vơ hạn về
hình thức. Các ngun tử khơng kết hợp với nhau tùy tiện , ngẫu nhiên mà theo
3


trật tự nhất định. Sở dĩ các sự vật của thế giới khác nhau là do cấu tạo của
nguyên tử khác nhau lại được sắp xếp theo những trật tự khác nhau và đặc biệt
là ở những tư thế khác nhau.
2.2. Quan niệm triết học Tây Âu thời trung cổ.
Tiêu biểu nhất trong thời kỳ này là nhà triết học Tô-mát Đa-canh. Triết học
của ông được nhờ Thiên Chúa coi là học thuyết duy nhất đúng đắn và làm hệ tư
tưởng của mình. Về quan niệm về bản thể luận, ông cho rằng Thượng đế là cơ
sở tồn tại của thế giới.
2.3. Quan niệm của triết học Tây Âu thời Phục hưng (TK15-16).
Về vấn đề bản thể luận trong thời kỳ này, có một nhà triết học tiêu biểu là
Giooc-đa-nơ Bru-no (1548-1600) ông là nhà triết học, đồng thời là nhà khoa học
tự nhiên vĩ đại người Italia. Phạm trù trung tâm trong triết học của ông là Cái
duy nhất (Uno). Uno chính là thượng đế tồn tại dưới dạng giới tự nhiên (Tự
nhiên thần luận). Ông cũng đã kế thừa và chịu ảnh hưởng của Aritx- tốt, ông cho
rằng có sự thống nhất giữa vật chất và hình dạng trong Uno, mọi hình dạng
chẳng qua chỉ là hình dạng của vật chất mà thơi. Ơng cũng tiếp nhận tư tưởng về
sự thống nhất vật chất của vũ trụ khi cho rằng: “mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ
và vũ trụ nằm trong tất cả mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong
chúng ta”.
2.4. Quan niệm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (TK 17-18).
Một đại diện tiêu biểu của thời kỳ này là Phăng-xi Bê-cơn (1561-1626)

người Anh. Ông là người đã kế thừa những tư tưởng duy vật cổ đại Hy Lạp
trong quan niệm về thế giới, thể hiện ở chỗ ông thường xuyên trích dẫn và ca
ngợi những nhà duy vật. Ông kịch liệt chống lại quan điểm của triết học kinh
viện về vật chất (thụ động, trừu tượng, chế cứng, khơng vận động, dùng trong
tranh luận…). Ơng đưa ra khái niệm “vật chất thứ nhất” để đối lập với khái niệm
vật chất này của triết học kinh viện, trên cơ sở đó, ơng đưa ra 19 dạng vận động
khác nhau của “vật chất thứ nhất”.
Nhà triết học thứ hai trong thời kỳ này là Rơ-nê Đê-các-tơ (1596-1654),
nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của
4


triết học, Đê-các-tơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận. Ông thừa nhận có hai
thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, cùng song song là nguồn
gốc của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
2.5. Quan niệm trong triết học cổ điển Đức (TK XVIII - nửa đầu TK XIX).
Bản thể luận duy tâm cổ điển Đức chịu tác động của những điều kiện kinh
tế - xã hội và chính trị đương thời. Trong khi Anh và Pháp tiến nhanh trên con
đường tư bản chủ nghĩa thì nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và
chính trị. Vì giai cấp tư sản Đức yếu kém, khơng đủ khả năng nắm chính quyền,
nên các nhà lý luận của giai cấp này là những nhà triết học duy tâm, sáng lập ra
các hệ thống triết học rất trừu tượng, tách khỏi đời sống thực tiễn.
2. Bản thể luận là gì?
Bản thể luận là những lý luận nghiên cứu về bản chất của sự tồn tại.
3. Đối với quan niệm của triết học thì bản thể luận chỉ sự tồn tại khác
với thực tiễn luận chỉ sự tư duy.

II. Các vấn đề bản thể luận trong triết học Mác – Lênin
1. Cách tiếp cận, giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác –
Lênin.

Gồm 4 vấn đề:
-

Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất mọi sự vật hiện tượng lại với nhau

-

đó là thế giới vật chất.
Mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận.
2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất.



Đối với Lê nin, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác phản ánh lại và



tồn tại lệ thuộc vào cảm giác
Vật chất tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và khơng phụ thuộc



vào ý thức
Con người có khả năng cảm giác được tồn tại khách quan của vật chất (khơng




thể cảm giác)
Ý thức của ơng chỉ sự phản ánh thế giới hiện thực
5


3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất của ý thức.
Theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin ý thức xuất hiện là có nguồn
gốc tự nhiên đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội- lịch sử- con
người, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con
người và có sự cải biến và sáng tạo
Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề
nguồn gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Nguồn gốc của ý thức bao gồm: nguồn tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Về mặt tự nhiên
Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Nếu khơng có
sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và không có bộ não người
với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ khơng có ý thức. Bộ não
người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức. Các nhân tố bao gồm:


Bộ óc:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản
phẩm của q trình tiến hố lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất
phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều
mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động

của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngồi thơng qua các phản xạ có điều
kiện và không điều kiện.

6




Sự phản ánh:
Cũng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên
cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào
hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức
sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà khơng có sự tác động của
thế giới bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý
thức. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản
ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm
của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh
của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:

1.

Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vơ sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.

2.

Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật.


3.

Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người.
Mặt xã hội
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trị của lao
động, ngơn ngữ và các quan hệ xã hội.
“Sau lao động và cùng với lao động là ngơn ngữ đó là hai sức kích thích
chủ yếu của sự chuyển biến bộ não lồi vật thành bộ não loài người, từ tâm lý
động vật thành ý thức”
-Engels7




Lao động:
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là
hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người
dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã
thực sự có ý nghĩa quyết định đối với q trình chuyển hoá từ vượn thành người,
từ tâm lý động vật thành ý thức.
“Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người,
và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao
động đã sáng tạo ra bản thân con người”
-Engels-

Việc chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý

thức về mục đích của hoạt động biến đổi thế giới. Thực chất của hoạt động lao
động là tác động vào thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người. Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và
ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày
càng cao. Cũng là lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong
mối liên hệ tất yếu, khách quan. Mối liên hệ đó khơng ngừng được củng cố và
phát triển đến mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó". Và ngơn ngữ xuất hiện.


Ngơn ngữ:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì ngơn ngữ là phương tiện để
con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất
của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngơn ngữ là yếu tố quan trọng để
phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.

8


Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản ánh
khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.


Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:
Thể hiện rằng nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người.
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ
quan, là thực tại chủ quan. Ý thức khơng có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh
thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có
lựa chọn. ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người.




-

Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách
quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là
sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải
biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
“Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó”.
-Karl Marx-

-

Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở sự cải biến cái vật chất di chuyển
vào trong bộ não con người thành cái tinh thần, thành những hình ảnh tinh thần.
Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của phản ánh, trong

-

khn khổ và theo tính chất, quy luật của phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái
đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những
cái khơng có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đốn, dự báo về tương lai, có thể
tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức

-


trừu tượng và có tính khái qt cao.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người, song đây là
sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông tin giữa chủ thể
9


và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới
dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực
-

khách quan.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp, dù
dười dạng ý tưởng thì bao giờ cũng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa
trên hoạt động thực tiễn nhất định. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại
trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở của

-

phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức – trong bất kỳ
trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo
ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.



Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản
chất là có tính xã hội:


-

Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã
hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội
khách quan.
“Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến
chừng nào con người còn tồn tại”.
-Karl Marx và EngelsTheo Lenin thì nếu coi tư tưởng (ý thức) là có tính vật chất tức là một bước
sai lầm đến chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm.
*Hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan:



Ý thức là “hình ảnh” về hiện thực khách quan trong óc người với nội dung phản



ánh là khách quan và hiện thực phản ánh là chủ quan.
Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo gần với thực tiễn xã hội. Trong đó được

-

chia thành:
Trao đổi thơng tin có lựa chọn
Xây dựng vào học thuyết lý luận khoa học
Thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thực tiễn
Ý thức mang bản chất lịch sử xã hội do điều kiện và quan hệ xã hội quyết định.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
10



Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vai trị của vật chất
đối với ý thức chính là
-

Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
Vật chất quyết định bản chất của ý thức
Vật chất quyết định sự vận động của ý thức

B-Vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
1.

Nhận thức.
Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về triết học cụ thể:



Đảng kiến định vận dụng, bổ sung, phát triển tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin trong cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Những tư tưởng của V.I.  Lê-nin đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tế cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ luận điểm có tính phương pháp luận
hết sức sâu sắc của V.I.  Lê-nin về mối quan hệ biện chứng giữa “tính phổ biến”
và “tính đặc thù” của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Tất cả các dân tộc đều
sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân
tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội khơng phải một cách hồn tồn giống nhau;
mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của
chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào nhịp độ

này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác
nhau của đời sống xã hội”.
Dù hết sức kiên quyết, không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác,
nhưng chính V.I. Lê-nin cũng nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý
luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Tinh thần đó của ơng và những

11


người mác-xít sau này đã gợi mở cho Đảng ta về việc bổ sung, phát triển học
thuyết Mác - Lênin trong bối cảnh mới hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới, luận điểm của V.I. Lê-nin về “phân tích cụ thể một
tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác” đã luôn được
Đảng ta quán triệt như một nguyên lý phương pháp luận khoa học và cách mạng
của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên những
phương diện chủ yếu sau:
o

Thứ nhất, tư tưởng của V.I. Lê-nin là cơ sở lý luận, được vận dụng kiên định
và sáng tạo, từng bước định hình con đường và bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, từ đó đã đúc
kết những luận điểm lý luận phù hợp với mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam. Đó là những luận điểm lý luận về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, về con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính

sách kinh tế mới” vào mùa xuân năm 1921, V.I. Lê-nin đã tự phê phán về những
sai lầm nghiêm trọng khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay
đổi căn bản những quan niệm, tư duy trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội
tinh thần đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã
tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho
những sáng tạo của Đảng khi xác định mơ hình và bước đi trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Những
quan điểm đổi mới về tư duy kinh tế nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI
(3-1989) khẳng định và bổ sung với những bước tiến mới. Từ kinh nghiệm của 5
năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng

12


đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định sáu
đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
So với sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nêu ra, Đại
hội X đã bổ sung hai đặc trưng là xây dựng “xã hội dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục bổ sung và
phát triển Cương lĩnh cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, trong đó có những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình
xây dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực

hiện Cương lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển
nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng
cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá
độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt
Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng (tháng 1-2016) tiếp tục
khẳng định và phân tích sâu sắc hơn tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam cho phù hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết
luận quan trọng: 1- Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước
ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; 2- Những thành
tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; 3- Những
thành tựu đó khẳng định con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại,
thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm khắc phục
13


những cách hiểu, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí,
trái quy luật khách quan về thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I.  
Lê-nin. Đổi mới, do đó, khơng phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin,
phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và
đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn.
o

Thứ hai, tư tưởng của V.I. Lê-nin về NEP là cơ sở nền tảng để Đảng ta phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sự phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới
V.I. Lê-nin đã bổ sung, cụ thể hóa lý luận Mác về thời kỳ quá độ bằng thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tập trung phân tích về quá
độ trong kinh tế. V.I.  Lê-nin đã chỉ ra năm thành phần kinh tế nước Nga đương
thời, đồng thời chủ trương thực hiện “những bước quá độ nhỏ”, bắc những
“chiếc cầu nhỏ” để đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong “Chính sách kinh tế mới”, cơ
chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới
sự định hướng, kiểm soát của Nhà nước; lợi ích của các chủ thể được quan tâm
đã có tác dụng phục hồi lực lượng sản xuất nhanh chóng, thúc đẩy kinh tế phát
triển, đời sống của cơng nhân, nơng dân được cải thiện. Nhờ có chính sách này
mà đến cuối năm 1925, về cơ bản, Liên Xơ đã hồn thành việc khơi phục nền
kinh tế quốc dân.
Theo tinh thần NEP của V.I. Lê-nin, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới,
trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các
đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, phải 15 năm sau, khái
niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được xác
định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị trường
khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
14


Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế
thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh”.
Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của
các nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo
thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định
nó khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính V.I. Lê-nin cũng đã từng nhấn mạnh:
“Chúng ta khơng hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa
xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư
bản đã thu được”.
Thứ ba, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư tưởng của V.I.

Lê-nin được Đảng ta vận dụng, phát triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai
cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã vận dụng
sáng tạo những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh giai cấp
vào thực tiễn cách mạng nước Nga và xây dựng được liên minh giai cấp công nông bền vững, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I. Lê-nin còn nhiều lần nhấn
mạnh tới vai trị của trí thức và khẳng định, muốn thu hút họ vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải “đảm bảo cho các người trí thức những điều
kiện lao động tốt nhất”.
Tư tưởng của V.I. Lê-nin được Đảng ta nghiên cứu thấu đáo, rút ra những
kinh nghiệm quý báu để xây dựng liên minh giai cấp, tầng lớp ở nước ta trong
15


thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi khởi xướng công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 rất coi
trọng việc thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và

đội ngũ trí thức, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo với ý nghĩa là nền tảng chính trị
- xã hội của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
2001) không chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh cơng - nơng - trí
thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này, coi đây là động lực quan trọng trong q
trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết tồn dân trên cơ sở liên minh
giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII đều tiếp tục khẳng định vai trị, tính tất
yếu của liên minh giữa giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức đối với
việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, có bổ sung những quan điểm, định hướng và giải pháp
mới.
o

Thứ tư, tư tưởng của V.I. Lê-nin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng
sáng tạo, đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng
Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam - nhân tố quan
trọng hàng đầu bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đi đến thắng lợi.
Khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật đảng và phẩm chất tiền
phong của đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh”
trong phong trào cộng sản”, V.I. Lê-nin viết: “Những người Bơn-sê-vích sẽ
khơng giữ được chính quyền, tơi khơng nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả
đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức
16



nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Theo ơng, có ba kẻ thù chính mà người cộng
sản của đảng cầm quyền phải kiên quyết đấu tranh là “tính kiêu ngạo cộng sản
chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn hối
lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng này của V.I.  Lê-nin, kể từ
khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng.
Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là
cơ sở, tiền đề vững chắc bảo đảm cho Đảng ln trong sạch, vững mạnh, hồn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về công tác xây
dựng Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn vị trí của công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng.
Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ,
khách quan và khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của
chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng - đội tiền phong của giai cấp công
nhân - phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di
huấn của V.I. Lê-nin là phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và các đồn
thể chính trị - xã hội; đó phải là những tổ chức bộ máy phục vụ chính trị chứ
chính trị khơng phục vụ bộ máy. Theo V.I. Lê-nin, chính trị được đề cập ở đây
chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của hàng triệu
triệu con người.
o

Thứ năm, Đảng ta vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong nhận diện và xử lý mối quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vấn đề xác định và phân
định nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước được V.I.

Lê-nin quan tâm và chỉ rõ: Chừng nào mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
toàn Đảng cịn tiếp tục làm cơng tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý nhà
nước thì Đảng khơng thể gọi là người lãnh đạo được. Năm 1922, V.I. Lê-nin cho
rằng, giữa Đảng và các cơ quan Xơ-viết hiện nay có những quan hệ không đúng
17


đắn và phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy. Vào những ngày tháng
cuối đời, V.I.  Lê-nin trăn trở rất nhiều về việc cải tổ bộ máy nhà nước. Ông chỉ
ra tình trạng bộ máy nhà nước vẫn ngày càng cồng kềnh, nặng nề; chức năng và
nhiệm vụ của các bộ phận không rõ ràng; quan hệ giữa Đảng và Nhà nước chưa
rành mạch hoặc có chỗ thiếu kết hợp, chưa hài hòa. V.I. Lê-nin phê phán nghiêm
khắc quá trình cải tổ mang tính hình thức và kém hiệu quả, để cho bộ máy nhà
nước lại rơi vào quỹ đạo nhà nước cũ và tệ quan liêu bùng phát.
Thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự tham gia quản lý nhà nước của toàn thể
nhân dân lao động và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, V.I. Lê-nin khẳng định: “Cần phải xây dựng ngay chế độ dân
chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham
gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, khơng có “sự
giám sát” từ trên, khơng có quan lại”.
Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã
hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam
sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ.


Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt
Nam vận dụng, phát triển lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, hành trình bơn ba tìm đường
cứu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác Lênin, đến với con đường cứu nước đúng đắn khi được đọc tác phẩm “Sơ thảo
lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.
Lênin và khẳng định:

1)

“Hỡi đồng bào bị đọa đầy, đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta”
18


2)

“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con

3)

đường cách mạng vô sản”
Cách mệnh “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững

4)

thuyền mới chạy”
“Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” và “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh


5)

nhất là chủ nghĩa Lênin”
“Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành cơng thì phải
dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hi
sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”
và Người đã nỗ lực hoạt động, xúc tiến, chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam mùa xuân năm 1930.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đã cho thấy, trên nền
tảng những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo,
phù hợp điều kiện của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương,
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn để lãnh đạo nhân dân Việt Nam
giành thắng lợi trong cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945, sáng lập Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp
và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước Đại hội VII của Đảng, văn kiện các kỳ Đại hội và Điều lệ Đảng đều
khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Song từ quá trình nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc
hơn về vị trí, vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của tiến
trình cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, không chỉ giải quyết vấn
đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động, nhằm giải quyết
19


những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam đòi hỏi. Tư tưởng của Người được
hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền

thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt
Nam; tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn
hóa phương Đơng, phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc; đã nỗ lực xây dựng
chế độ dân chủ cộng hòa, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, với một
Đảng phụng sự và liêm chính, Chính phủ liêm kiết và sáng tạo, đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư… Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người đã “để lại một dấu ấn trong quá
trình phát triển của nhân loại...; là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một
dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Vì thế, tại Đại hội VI (12/1986), Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh:
“Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung
điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”; đồng thời, khẳng định tư tưởng Hồ
Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh
thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991);
trong đó, khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất
nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của
20



nhân dân”. Đây là bước phát triển lớn trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực
tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng; thể hiện rõ quan điểm nhất quán về mặt tư
tưởng: cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận
cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cương lĩnh năm
91 không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong tồn Đảng mà cịn thể hiện
rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch đi
ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với thời gian, Đảng đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn
diện cống hiến vô giá về lý luận, tư tưởng của Người được thực tiễn cách mạng
Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX chứng thực và khẳng định tại Đại hội IX
rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Tiếp đó,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi”.
Thực tiễn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho

21


hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, hội
nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng
tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy
luật phát triển của thời đại.
2.

Trong hoạt động thực tiễn.



Cách mạng Việt Nam đã áp dụng lí luận triết học để đề ra đường lối
đổi mới.
Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đồng thời có đóng góp quan trọng vào sự phát
triển Triết học Mác – Lênin trong điều kiện mới.



Đổi mới vận dụng sáng tạo, phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bằng tư duy biện chứng, phân tích sâu
sắc tình hình cách mạng Việt Nam, trong “Chính cương vắn tắt, Luận cương

năm 1930”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã sáng suốt
định ra đường lối lãnh đạo nhân dân làm “cách mạng tư sản dân quyền”, rồi tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Trên cơ sở lí luận về tình thế, thời cơ cách
mạng, phân tích cụ thể tình hình, so sánh lực lượng, tình thế, thời cơ cách mạng,
phân tích cụ thể tình hình, so sánh lực lượng, nắm chắc thời cơ, lãnh đạo toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi
năm 1945, đánh bại thực dân Pháp năm 1954 và đế quốc Mỹ thống nhất Tổ quốc
năm 1975 đã khẳng định tính đúng đắn, khoa học, sự đóng góp, làm phong phú
lý luận Mác – Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt đường lối thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược – xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất tổ Tổ quốc ở Miền Nam sau năm 1954 là
22


một đóng góp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển triết học
Mác – Lênin.


Nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính
sách hiệu quả xử lý vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã làm rõ thêm lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ
dài; phân tích chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay; thực hiện
đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
giải quyết đúng đắn giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; đưa ra quan điểm
chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm giữ vững độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là những đóng góp quan trọng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong phát triển kho tàng lý luận Mác – Lênin trong đó có triết

học.



Vai trò của lý luận triết học mác – lênin giúp đảng giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đổi mới điều chỉnh thích
nghi, phát triển trong điều kiện mới và đặc điểm như: tồn cầu hóa,
tiến bộ lên chủ nghĩa lần thứ tư.
Kể từ khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã tỏ rõ tính ưu việt của một mơ hình xã hội mới do con người, vì hạnh
phúc con người. Tuy nhiên, mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thự, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan đã bộc lộ những hạn chế của nó mà nổi bật nhất là
một cơ chế quản lí kinh tế - xã hội mang tính quan liêu bao cấp. Chính trong tình
trạng này, cần phải có một cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách
mạng để lí giải, phân tích sự khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội
thế giới và phương hướng khắc phục để phát triển.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận
triết học, trong đó hạt nhân là phép chứng duy vật. Cơng cuộc đổi mới toàn diện
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy lý
23


luận, trong đó có vai trị của triết học Mác – Lênin. Triết học phải góp phần tìm
được lời giải đáp về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời
qua thực tiễn để bổ sung, phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Vai trò của triết học Mác – Lênin rất quan trọng cịn do chính u cầu đổi
mới nhận thức triết học hiện nay. Bên cạnh mặt tích cực khơng thể phủ nhận,
việc nhận thức và vận dụng lý luận Mác – Lênin, sau một thười gian dài mắc
phải giáo điều, xơ cứng, lạc hậu, bất cập, là một trong những nguyên nhân của
sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới. Nhiều vấn đề lý luận, do những

hạn chế của điêu kiện lịch sử mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa
giải luận một cách đầy đủ hoặc chưa thể dự báo hết. Do đó, việc tiếp tục bổ
sung, đổi mới là nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học Mác – Lênin trong
giai đoạn hiện nay.
Vai trò của thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác – Lênin thể
hiện rõ đổi với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Nếu khơng
có đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận, thì sẽ khơng có sự nghiệp đổi mới.
Triết học Mác – Lênin là nền tảng, cơ sở cho quá trình đổi mới tư duy ở Việt
Nam. Một trong những điểm nhấn của thế giới quan, phương pháp luật triết học
Mác – Lênin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng, đó là sự
vận động biến đổi khơng ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố góp phần
xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, về mơ hình
xã hội chủ nghĩa, về các bước, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v…đó chính
là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn
nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới, trong
điều kiện, hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước
Đông Âu, chủ nghĩa tư bản không những không sụp đổ mà cịn có sự phát triển
mạnh mẽ hơn thế. Nói tóm lại, thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp
chúng ta nhìn nhận và đánh giá bối cảnh mới, đánh giá cục diện thế giới, các
mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước và con
24


đường phát triển tương lai. Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã chỉ ra logic
và sự phát triển xã hội loài người là chủ nghĩa xã hội.
Nếu như thế giới quan triết học Mác – Lênin giúp chúng ta xác định con
đường, bước đi, thì phương pháp luận triết học Mác – Lênin giúp chúng ta giải
quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn

đổi mới hơn 30 năm qua. Đó khơng chỉ là những vấn đề, điều kiện cụ thể của
Việt Nam, mà còn là những vấn đề, thực tiễn chung của thế giới, của tồn cầu
hóa, của phát triển khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức, của hội nhập quốc
tế. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin chúng ta đã giải
quyết tốt các vấn đề cơ bản của quá trình đổi mới như mối quan hệ giữa kinh tế
thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết các
mối quan hệ khác.


Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng, phịng và chống suy
thối về tư tưởng chính trị.
Việt Nam đang đẩy mạnh tồn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế
trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn biến khó lường
cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội, nhất là sự tác động từ mặt
trái của cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập đã làm cho một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hoang
mang, dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội... Trong khi đó, các thế lực thù
địch khơng ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hịa bình” nhằm
chống phá Đảng, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thế giới có thể đổi thay, nhưng hơn bao giờ hết, thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam địi hỏi tồn Đảng, toàn dân, toàn quân phải: “Chú trọng xây
dựng Đảng về chính trị. Kiên định (là vững vàng, khơng dao động, thay đổi lập
trường, ý chí trước mọi trở ngại) chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường luố đổi mới” - coi
25



×