Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Luận văn Quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.18 KB, 92 trang )

UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

NGUYỄN THỊ NGUYỆT

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Phú Thọ, tháng 3 năm 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay nhận thức và quan
điểm về ngành y đã có nhiều thay đổi cơ bản. Ngành y là một ngành quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân, được coi là"ngành quan trọng"mang tính chất dịch vụ nhằm phục
vụ các nhu cầu mang tính chất phúc lợi xã hội.”Ngành y tế thơng qua các hoạt động của
mình mang lại thu nhập"khơng “đặt mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu quan trọng nhất”,
tích cực hoạt động khơng vì lợi nhuận, cơng tác về ngành y tế và chăm sóc sức khỏe của
nhân dân đã được Đảng và Nhà nước xác định là ngành, lĩnh vực quan trọng nhất, trực
tiếp và mang tính quyết định.Ngành y có nhiều đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội
của đất nước.
Thực tiễn hiện nay đã và đang địi hỏi quản lý tài chính ở bệnh viện, Bệnh viện y
tế phải đảm bảo“các mục tiêu về tài chính vừa đảm bảo tính hiệu quả, cơng bằng trong
cơng tác chăm sóc sức khoẻ người dân.Quản lý tài chính y tế trở thành “chìa khố quyết
định sự thành cơng hay thất bại trong việc quản lý bệnh viện, Bệnh viện y tế; quyết định
sự tụt hậu hay phát triển của bệnh viện, Bệnh viện y tế”.
Ngày nay trong thời kỳ đổi mới, các chính sách đầu tư, quản lý các nguồn tài
chính trong ngành Y ở tỉnh Phú Thọ đã có một nhiều chuyển biến tích cực như cơ sở vật


chất, trang thiết bị ngày càng hiện đại. Các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe, khám chữa
bệnh,cung ứng thuốc ngày càng được đầu tư đa dạng. Ngành Y tế Tỉnh Phú Thọ đã góp
phần đáng kể trong vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Trong đó, hoạt động
quản lý tài chính đối với ngành Y tế của Tỉnh Phú Thọ vẫn cịn những bất cập do ngành
y có nhiều đặc thù riêng khác biệt so với ngành khác, các cơ chế chính sách của nhà
nước chưa đồng bộ làm ảnh hưởng đến việc quản lý các nguồn tài chính trong ngành y
tế, mặt khác cán bộ làm cơng tác quản lý tài chính trong các đơn vị y tế trình độ chưa
đồng đều.
1


Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ là một đơn vị y tế trong hệ thống ngành y ở Việt
Nam, có chức năng, nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, thực hiện các dịch vụ
kỹ thuật, là đơn vị khám bệnh, chữa bệnh gần với dân, có nhiệm vụ thực hiện phòng chữa bệnh cho nhân dân hàng ngày. Quản lý tốt cơng tác tài chính đối với Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Phú Thọ góp phần phát triển nền kinh tế - xã hội của Phú Thọ nói riêng và của
đất nước nói chung, giai đoạn cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ngày nay, các nhu cầu
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe người dân ngày càng cao do đó chất lượng ngành y ngày
càng cao. Quản lý tốt nguồn tài chính tại Bệnh viện là yếu tố quan trọng “quyết định
hiệu quả và chất lượng công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho người thầy thuốc trong cơng
tác phịng bệnh và chữa bệnh.”
Do vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Phú Thọ” mang cả ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay có một số đề tài luận văn thạc sỹ nghiên cứu về quản lý tài chính, hồn
thiện cơ chế quản lý tài chính, nâng cao chất lượng quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính,… tại một bệnh viện cấp huyện, cấp tỉnh, cấp thành phố, hay bệnh
viện: Trung ương, quân đội, chuyên khoa,… Tuy nhiên hiện nay chưa có luận văn thạc
sỹ nào nghiên cứu về quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở những lý luận cơ bản về quản lý tài chính, đề tài có nhiệm vụ nghiên
cứu thực trạng quản lý cơng tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ
giai đoạn 2017 - 2019, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động quản lý tài chính trong các
bệnh viện, bệnh viện đa khoa thuộc tỉnh.
2


- Phân tích thực trạng hoạt động quản lý tài chin tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2017-2019, qua đó đánh giá rõ kết quả đã đạt được, chỉ ra các mặt còn
tồn tại, nguyên nhân.
- Đề xuất ra một số giải pháp nhắm nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Cơng tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Cơng tác quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2017 – 2019, giải pháp và tầm nhìn đến năm 2025.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, để thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau: Thu thập thông tin bằng các phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học,
quan sát... để phân tích, đánh giá hoạt động quản lý tài chính theo cách tiếp cận hệ
thống, cách tiếp cận lịch sử, logic, cách tiếp cận định lượng và định tính.
Đồng thời luận văn sử dụng kỹ thuật thống kê, phân tích SWOT, tổng hợp, sơ đồ,
đồ thị, biều đồ, bảng biểu để phân tích xử lý số liệu.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo... nội dung chính

của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính tại Bệnh viện
Đa khoa thuộc Tỉnh
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Phú Thọ
3


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THUỘC TỈNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quản lý tài chính
Có rất nhiều các khái niệm về Quản lý tài chính , Quản lý tài chính được xác định
như sau: "Quản lý tài chính là một mơn khoa học quản trị nghiên cứu các mối quan hệ
tài chính phát sinh trong quá trình sản xuất và kinh doanh của một doanh nghiệp hay
một tổ chức. Nói một cách khác, quản trị tài chính là quản trị nguồn vốn (bao gồm
vốn tiền mặt, vốn, tài sản và các quan hệ tài chính phát sinh như: khoản phải thu - khoản
phải trả).
Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn,
đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của tổ chức. Đây là công việc rất quan
trọng đối với tất cả các tổ chức bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức và phương thức mà
nhà quản lý thu hút vốn để thành lập, duy trì và mở rộng các hoạt động nhất định."
Có rất quan điểm khác nhau về quản lý tài chính theo tác giả: ''Quản lý tài chính là
việc sử dụng những thơng tin phản ánh chính xác thực trạng tình trạng tài chính của một
doanh nghiệp để phân tích chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của nó và lập ra kế hoạch kinh
doanh. Quản lý tài chính là sự chọn lựa rồi đưa ra quyết định tài chính, tổ chức thực hiện
các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động về tài chính của tổ chức."
1.1.2. Quản lý tài chính trong lĩnh vực Y tế
Cũng như khái niệm về tài chính trong các lĩnh vực khác,"tài chính trong y tế

được hiểu là tổng thể các hoạt động thu - chi bằng tiền trong quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ nhằm duy trì và phát triển sự nghiệp y tế" .
“Ở Việt Nam, trong cơ chế bao cấp trước đây, nguồn kinh phí cho hoạt động y tế
chủ yếu do NSNN cấp. Chuyển sang cơ chế thị trường và đặc biệt trong những năm gần
đây, các hoạt động sự nghiệp y tế đã chuyển sang là sự nghiệp có thu, một số đơn vị sự
4


nghiệp chuyển sang mơ hình tử chủ. Đặc trưng nổi bật của hệ thống y tế là các bệnh
viện, các bệnh viện có trách nhiệm khám bệnh, chữa bệnh cho cán bộ và nhân dân theo
đúng luật bảo vệ sức khoẻ của Nhà nước.”
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, bên cạnh một đội ngũ y, bác sĩ giỏi về
chuyên môn, cơ sở vật chất tương ứng với nhiệm vụ đã được giao...các bệnh viện phải
có tiềm lực nguồn tài chính của mình đủ mạnh để duy trì và phát triển hoạt.
1.1.3. Quản lý tài chính bệnh viện
Quản lý tài chính bệnh viện theo nghĩa rộng được hiểu là: “Sự tác động liên tục
có hướng đích, có tổ chức của các nhà quản lý bệnh viện lên đối tượng và q trình
hoạt động tài chính của bệnh viện nhằm xác định nguồn thu và các khoản chi, tiến
hành thu chi theo đúng pháp luật, đúng các nguyên tắc của Nhà nước về tài chính, đảm
bảo kinh phí cho mọi hoạt động của bệnh viện.”
Ở Việt Nam: “Quản lý tài chính bệnh viện là một nội dung của chính sách kinh
tế - tài chính y tế do Bộ Y tế chủ trương với trọng tâm là sử dụng các nguồn lực đầu tư
cho ngành y tế để cung cấp các dịch vụ y tế một cách hiệu quả và công bằng. Tính hiệu
quả chú trọng đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật, phương pháp phân phối nguồn lực,
hiệu lực quản lý hành chính và chất lượng dịch vụ y tế cung cấp cho nhân dân. Tính
cơng bằng địi hỏi cung cấp dịch vụ y tế bằng nhau cho những người có mức độ bệnh
tật như nhau, thoả mãn nhu cầu khám chữa bệnh của mọi người khi ốm đau theo một
mặt bằng chi phí nhất định mà khơng địi hỏi khả năng chi trả của người bệnh là điều
kiện tiên quyết.”
Do vậy: “Quản lý tài chính trong bệnh viện ở Việt Nam được định nghĩa là việc

quản lý toàn bộ các nguồn vốn, tài sản, vật tư của bệnh viện để phục vụ nhiệm vụ khám
chữa bệnh, đào tạo và nghiên cứu khoa học.”
Theo Nhiều tác giả, 2001, quản lý bệnh viện. "Quản lý TC trong bệnh viện của
Việt Nam gồm:
5


Sử dụng, quản lý các nguồn kinh phí NSNN cấp và các nguồn được coi là NSNN
cấp như viện phí, bảo hiểm y tế, viện trợ… theo đúng quy định của Nhà nước.
Tăng nguồn thu hợp pháp, cân đối thu chi, sử dụng các khoản chi có hiệu quả,
chống lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Thực hiện chính sách ưu đãi và đảm bảo công bằng về khám, chữa bệnh cho các
đối tượng ưu đãi xã hội và người nghèo.
Từng bước tiến tới hạch tốn chi phí và giá thành khám chữa bệnh.
Mục tiêu của quản lý TC trong bệnh viện: Hiệu quả thực hiện của TC kế toán là
mục tiêu quan trọng của quản lý TC bệnh viện. Các yếu tố của mục tiêu này bao gồm:
Một là, duy trì cán cân thu chi: đây là điều kiện tiên quyết và bắt buộc của quản
lý TC bệnh viện và cũng là tiêu chuẩn cho sự thành công trong cơ chế quản lý mới –
tiến tới hạch tốn chi phí.
Hai là, Bệnh viện phải cải thiện chất lượng thông qua một số chỉ tiêu chun mơn
như: tỉ lệ chẩn đốn sai, tỉ lệ tử vong, tỉ lệ giường bệnh so tổng số bệnh nhân,…
Ba là, nhân viên hài lòng với bệnh viện: Đời sống cán bộ công nhân viên được
cải thiện, cải thiện phương tiện làm việc, xây dựng văn hóa Bệnh viện.
Bốn là, Bệnh viện phát triển cơ sở vật chất, phát triển các chuyên khoa.
Năm là, Công bằng y tế: chất lượng phục vụ công bằng, như nhau cho toàn bộ
các đối tượng.
Các mục tiêu được thể hiện qua sơ đồ 1.1:

6



BỆNH NHÂN
2. Chất lượng

5. Công bằng y tế

Y TẾ NHÀ NƯỚC

NHÂN VIÊN B. VIỆN

4. Phát triển BV

3. Được hài lòng

BAN GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN
1.Cán cân thu chi

Sơ đồ 1.1 Mục tiêu cần đáp ứng của Quản lý TC bệnh viện
Như vậy, quản lý TC bệnh viện phải đáp ứng cùng lúc bốn đối tác: Bệnh nhân,
nhân viên trong bệnh viện, Ban Giám đốc bệnh viện và Nhà nước. Cụ thể:
- Với bệnh nhân: chất lượng chăm sóc và cơng bằng y tế.
- Với nhân viên: được hài lòng do đời sống được cải thiện.
- Yêu cầu của Ban Giám đốc: hoàn thành trách nhiệm thực hiện cán cân thu chi.
- Y tế Nhà nước: phát triển bệnh viện."
“Trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, quản lý tài chính bệnh viện phải cùng
lúc đạt được năm mục tiêu ở trên. Tuy nhiên, ở một số vùng kinh tế khó khăn cần phải
sắp xếp các mục tiêu trên theo thứ tự của ưu tiên nào cần phấn đấu trước.”
1.2. Nội dung quản lý tài chính tại bệnh viện đa khoa thuộc tỉnh
1.2.1. Lập dự toán
Việc lập dự toán thu chi"các nguồn kinh phí của bệnh viện"là thơng qua các

nghiệp vụ tài chính để cụ thể hố định hướng phát triển, kế hoạch hoạt động ngắn hạn
của bệnh viện, trên cơ sở tăng nguồn thu hợp pháp và vững chắc, đảm bảo được hoạt
động thường xuyên của bệnh viện, đồng thời từng bước củng cố và nâng cấp cơ sở vật
chất của bệnh viện, tập trung đầu tư đúng mục tiêu ưu tiên nhằm đạt hiệu quả cao, hạn
7


chế tối đa lãng phí và tiêu cực, từng bước tính cơng bằng trong sử dụng các nguồn đầu
tư cho"bệnh viện [26]."
Cơ sở để lập dự toán là:
* Phương hướng nhiệm vụ trong từng gia đoạn của đơn vị;
* Các chỉ tiêu, kế hoạch có thể thực hiện được;
* Kinh nghiệm thực hiện các năm trước;
* Khả năng cung cấp của NSNN;
* Khả năng cấp vật tư của Nhà nước - Thị trường;
* Năng lực tổ chức quản lý, kỹ thuật của đơn vị
1.2.1.1. Các nguồn tài chính của bệnh viện
Nguồn kinh phí của các Bệnh viện được Nhà nước cho phép hình thành từ các
kênh như:
* Nguồn từ ngân sách nhà nước cấp
Ở những nước đang phát triển, ngân sách nhà nước cấp là nguồn kinh phí cung
ứng tài chính quan trọng nhất phục vụ mọi hoạt động của bệnh viện. Ở nước ta hiện
nay, Ngân sách Nhà nước cấp cho bệnh viện có nhiều cách hiểu khác nhau. NSNN cấp
cho bệnh viện từ các nguồn đầu tư kinh phí thơng qua kênh phân bổ của Chính
phủ.“Hàng năm Quốc hội, Chính phủ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính sẽ quyết định
cấp một khoản kinh phí cho Ngân sách Y tế, phần quan trọng nhất là cho các Bệnh viện
(khối khám chữa bệnh), trong đó nguồn ngân sách cấp cho bệnh viện bao gồm như thu
viện phí, chi sự nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN, chi từ bảo hiểm y tế và
viện trợ nước ngồi…”
Nhìn chung,"nguồn NSNN cấp cho bệnh viện ở đây được hiểu là khoản chi cho

bệnh viện từ ngân sách nhà nước cấp cho sự nghiệp y tế, cân đối từ nguồn thuế trực thu
và thuế gián thu. Bao gồm các khoản chi đầu tư, chi vận hành hệ thống. Tỷ lệ Ngân
sách căn cứ vào sự tăng trưởng ngân sách nhà nước hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ
tăng lên của Ngành y tế, của các Bệnh viện, và kế hoạch hàng năm của ngành, của khối
8


khám chữa bệnh. Việc cấp phát ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế, cho các Bệnh
viện phải căn cứ theo Luật Ngân sách, phải có kế hoạch năm, phải có định mức chi cho
mỗi người dân (bao nhiêu đồng/người dân/ năm), phải có chi cho mỗi giường bệnh (bao
nhiêu triệu/giường bệnh/năm). Các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương có Bệnh viện
do địa phương quản lý nhưng hoạt động mang tính chất khu vực được phân bổ thêm
một phần kinh phí để thực hiện cơng tác khám, chữa bệnh. Mức hỗ trợ cụ thể do Chính
phủ trình Quốc hội quyết định trong phương án phân bổ Ngân sách Trung ương. Cho
đến nay tại Việt Nam, hàng năm các bệnh viện nhận được một khoản kinh phí được cấp
từ ngân sách của Chính phủ căn cứ theo định mức tính cho một đầu giường bệnh/năm
nhân với số giường bệnh kế hoạch của bệnh viện. Số kinh phí này thường đáp ứng được
từ 30% - 50% nhu cầu chi tiêu tối thiểu"của bệnh viện."
* Nguồn thu từ viện phí
Đây là nguồn thu rất cơ bản và lâu dài là nguồn thu quyết định của Ngân sách
Bệnh viện.
Hiện tại,"các Bệnh viện đang thực hiện việc thu một phần viện phí theo Nghị
định số 13/NĐ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 17/7/2013. Một
phần viện phí là phần chi phí khám, chữa bệnh được"tính theo giá dịch vụ đối với người
bệnh ngoại trú và theo ngày điều trị đối với người bệnh nội trú. Một phần viện phí mới
chỉ tính“với tiền thuốc, dịch truyền, máu, hố chất, xét nghiệm, phim X. Quang, vật tư
tiêu hao thiết yếu và dịch vụ khám chữa bệnh, chưa tính khấu hao tài sản cố định, chi
phí sửa chữa thường xuyên, chi phí hành chính, đào tạo nghiên cứu khoa học, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị lớn..."
Trong nghị định và thông tư nêu trên quy định rõ :

"- Các đối tượng nộp một phần viện phí (2 đối tượng)
+ Người khơng có thẻ BHYT và khơng thuộc đối tượng miễn giảm một phần viện
phí.
+Người có thẻ BHYT nhưng muốn khám chữa bệnh theo yêu cầu.
9


- Các đối tượng miễn nộp một phần viện phí(6 đối tượng).
+ Người người già yếu không nơi nương tựa tàn tật, người tàn tật, trẻ mồ côi.
+ Trẻ em dưới 6 tuổi.
+ Người bị bệnh động kinh, bệnh lao phổi, tâm thần phân liệt, bệnh phong.
+ Người bệnh ở các xã được Uỷ ban Dân tộc và Miền núi quyết định công nhận
là vùng cao.
+ Đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới, khai hoang trong thời gian 3 năm kể
từ khi đến.
+ Người bệnh trong diện quá nghèo."
- Các đối tượng có BHYT được BHYT thanh tốn một phần viện phí cho cơ sở
khám chữa bệnh.
- Các đối tượng"thuộc diện chính sách đang được hưởng trợ cấp hàng tháng được
Nhà nước cấp kinh phí để cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý trực tiếp
mua thẻ BHYT, khi khám bệnh, chữa bệnh được cơ quan BHYT thanh tốn một phần
viện phí với các cơ sở khám chữa bệnh."
Trong thông tư trên đã quy định cách tính một phần viện phí và ban hành tạm
thời khung giá các dịch vụ y tế. Cụ thể là giá một phần viện phí đối với người bệnh nội
trú, ngày điều trị nội trú, đối với người bệnh ngoại trú và hình thức thu một phần viện
phí. Cụ thể:
+ “Khung giá khám bệnh và kiểm tra sức khoẻ.”
+ “Khung giá một ngày giường bệnh và khung giá tối đa một ngày điều trị
nội trú.”
+ “Khung giá các dịch vụ kỹ thuật và xét nghiệm.”

Quy định việc sử dụng số viện phí thu được như sau:
Khoản thu một phần viện phí cả tiền viện phí do cơ quan BHYT trả cho người
bệnh là nguồn thu của NSNN, được sử dụng theo quy định sau :
10


+ “70% sử dụng cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thu khoản viện phí đó để bổ
sung kinh phí mua thuốc, máu, dịch truyền, hoá chất, phim X quang, vật tư, trang thiết
bị, dụng cụ y tế phục vụ người bệnh kịp thời.”
+ “30% dành để khen thưởng cho cán bộ cơng nhân viên có tinh thần trách nhiệm
cao đối với người bệnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ chun mơn; trong đó đơn vị trích
từ 2 – 5% để nộp cơ quan chủ quản ( Bộ Y tế, Sở Y tế, Bộ, nghành ) để lập quỹ hỗ trợ
và khen thưởng cho các đơn vị, cá nhân có thành tích trong cơng tác khám chữa bệnh và
các Bệnh viện khơng có điều kiện thu viện phí.”
* Nguồn thu từ bảo hiểm y tế
Theo quy định của Bộ Tài chính, nguồn thu bảo hiểm y tế: “Là một phần ngân
sách sự nghiệp y tế của Nhà nước giao cho bệnh viện quản lý và sử dụng để đảm bảo
chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Nguồn thu chỉ đảm bảo một phần nhu cầu
chi tiêu tối thiểu của các bệnh viện công.”
Các cơ"sở khám chữa bệnh được cơ quan BHYT thanh tốn chi phí về BHYT
theo hợp đồng trên cơ sở số lượt khám, điều trị ngoại trú, ngày giường nội trú tuỳ theo
từng Bệnh viện, từng thời gian và theo hướng dẫn của Bộ Y tế, trong đó bao gồm:
- Tiền: Thuốc, dịch truyền, máu, xét nghiệm, chiếu chụp phim XQ, phẫu thuật.
- Tiền vật tư tiêu hao tính trên giường bệnh.
- Tiền lương của Bác sỹ và nhân viên y tế."
Trong tổng quỹ BHYT để chi trả cho khám chữa bệnh: 45% được giành cho bệnh
nhân điều trị ngoại trú và 50% giành cho bệnh nhân điều trị nội trú.
Khi thanh tốn, bộ phận Tài chính của Bệnh viện thanh tốn theo bảng giá viện
phí đã được Bộ Y tế (đối với Bệnh viện trực thuộc Bộ) hay UBND tỉnh quy định (đối
với các Bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố ). Toàn bộ số thu từ BHYT, Bệnh viện được

phân phối sử dụng như số thu đối với một phần viện phí. Tức là:
+ 70% bổ sung vào kinh phí để phục vụ người bệnh .
+25 – 28 % trích quỹ khen thưởng tại cơ sở .
11


+2-5% nộp cơ quan chủ quản để thành lập quỹ hỗ trợ cho các đơn vị khơng có
điều kiện thu viện phí hay thu BHYT( phong, lao, tâm thần...)
* Nguồn thu từ viện trợ quốc tế
Nguồn viện trợ"được quy định là một phần ngân sách của Nhà nước giao cho
bệnh viện quản lý và sử dụng. Là một nguồn kinh phí khá quan trọng. Hiện nay, các
bệnh viện trong và ngồi cơng lập đều có rất nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn viện
trợ từ trong và ngoài nước như: Nguồn vốn tài trợ của Chính phủ nước ngồi, các tổ
chức phi Chính phủ, các hội từ thiện, cá nhân, các chương trình dự án nước ngồi... Ví
dụ, theo chế độ quản lý tài chính của Nhà nước đối với nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức ODA thì viện trợ gồm:"
- Nguồn hỗ trợ phát chính (Official Development Assistance – ODA ) của nước
ngoài cho nước ta là nguồn thu của NSNN, phải được kế hoạch hoá phản ánh đầy đủ
vào NSNN và quản lý theo chế độ NSNN hiện hành.
- Các khoản ODA khơng hồn lại được sử dụng dưới hình thức cấp phát vốn
NSNN hoặc tín dụng Nhà nước. Hình thức này chủ yếu tập trung cho các chương trình
dự án kinh tế - xã hội thuộc các đối tượng do NSNN đảm nhiệm (cấp vốn xây dựng cơ
bản hoặc kinh phí sự nghiệp).
- Các Bệnh viện có viện trợ nước ngồi (ODA) phải đảm bảo"thực hiện đúng
mục tiêu, đối tượng và các cam kết khác đã ghi trong chương trình dự án ..."
- Khi nhận tiền, hàng viện trợ thì nhất thiết phải có giấy xác nhận hàng, tiền viện
trợ do Ban quản lý và tiếp nhận hàng viện trợ Quốc tế của Bộ Tài chính xác nhận, có
ghi thu ghi chi qua NSNN, có ghi chép vào sổ sách của đơn vị và sử dụng đúng mục
đích, có hiệu quả, hàng năm phải quyết tốn theo chế độ kế toán quy định và phải chịu
sự kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan chức năng .

* Các nguồn thu khác
Ngoài những nguồn thu cơ bản như đã nêu trên, ở một số bệnh viện còn có
nguồn thu khác mà chế độ tài chính có quy định như sau:
12


- Thu do thanh lý - nhượng bán tài sản: Các bệnh viện được phép nhượng bán hoặc
thanh lý tài sản, vật tư thuộc đơn vị mình cho đơn vị, cá nhân khác có nhu cầu nhưng
khơng được làm ảnh hưởng tới chất lượng khám chữa bệnh và các phương tiện phục vụ
cơng tác chun mơn của mình;
- Thu về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị gồm:
+Dịch vụ KCB tự nguyện: Hiện nay, đời sống của người dân ngày càng được cải
thiện nhu cầu khám chữa bệnh tự nguyện của người dân ngày càng cao để đáp ứng nhu
càu của người dân một số bệnh viện có tổ chức một số họat động sản xuất kinh doanh
có thu phục vụ nhân dân trong tỉnh và khu vực.
+ Nguồn thu từ trông giữ xe đạp xe máy tại cổng bệnh viện: Thực hiện đúng
quyết định của UBND tỉnh Phú Thọ. Tổng số thu được sau khi trừ các khỏan phải nộp
NSNN của nguồn thu từ dịch vụ trông giữ xe đạp xe máy được phân bổ như sau: 20%
chi trả tiền công cho người trông giữ xe, CBCNVC và tiền công cho ban chỉ đạo thực
hiện, 30-50% chi hỗ trợ chuyên môn, làm lán xe, tu sửa nhà cửa phục vụ trông xe..., 3050% chi cho các hoạt động bệnh viện như: chi hội họp, chi hiếu hỉ, chi ngoại giao, chi
giao dịch... Còn lại bổ sung quỹ khen thưởng chi cho CBCNVC theo quy định khen
thưởng của Bệnh viện.
+ Một số hoạt động sản xuất kinh doanh có thu khác: pha dịch truyền, khám
bệnh tại nhà, làm thuốc bôi, quầy quán căng tin, nhà thuốc Bệnh viện...
Các hoạt động này thường có chênh lệch thu lớn hơn chi. Nếu cơ sở khám chữa
bệnh có hoạt động thu thì trước hết phải đăng ký với các cơ quan chức năng: cấp giấy
phép, quản lý thị trường, thuế để hợp pháp hố hoạt động của cơ sở mình. Sau khi hạch
toán đầy đủ và chi tiết, nộp các khoản thuế theo quy định, số lãi còn lại được phân phối
như sau:
- 35% bổ sung hoạt động của đơn vị hành chính sự nghiệp.

- 65% để trích quỹ khen thưởng và phúc lợi.
Nếu đơn vị khơng thể hạch tốn riêng các hoạt động này đối với khấu hao cơ bản,
13


tiền lương, tiền thuê nhà, tiền điện nước... thì nộp NSNN:
- 5% doanh thu đối với sản xuất .
- 10% doanh thu đối với các dich vụ.
- 15% doanh thu đối với các hoạt động thương nghiệp.
Số cịn lại trích tối đa cho quỹ khen thưởng không quá 3 tháng lương cơ bản cấp bậc
hoặc chức vụ. Nếu còn, bổ sung thêm kinh phí hoạt động của Bệnh viện .
1.2.1.2.Về phân phối sử dụng nguồn kinh phí
“Chi trong Y tế được hiểu là quá trình phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
nhằm duy trì sự tồn tại và hoạt động của hệ thống y tế từ Trung ương đến cơ sở nhằm
thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.”
Chi trong Y tế có thể được phân loại theo các tiêu thức sau:
* Theo chức năng nghành Y tế
Nội dung chi trong hoạt động y tế bao gồm các khoản chi: phòng bệnh; chữa
bệnh; đào tạo; nghiên cứu khoa học y dược; quản lý hành chính và chi khác. Phân loại
các khoản chi này phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình sử dụng vốn cho
chuyên môn nghiệp vụ cho ngành y tế như thế nào, qua đó đánh giá mức độ đã chi cho
chuyên môn nghiệp vụ xem như vậy đã hợp lý chưa nếu chưa hợp lý sẽ được điều chỉnh
sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội.
*Theo tính chất các khoản chi
Nội dung chi trong hoạt động Y tế bao gồm:
"- Chi đầu tư như: xây lắp, thiết bị, chi khác về đầu tư.
- Chi thường xuyên như: Chi cho đội ngũ bác sỹ và cán bộ nhân viên Y tế, chi
hội nghị phí, chi bù lỗ giá, chi cơng tác phí, chi đào tạo và chi khác.
Phân loại tính chất các khoản chi giúp ta quản lý một cách chặt chẽ khoản chi
dành cho thường xuyên và chi đầu tư,từ đó có thể có được những thơng tin chính xác về

tình hình quản lý các chế độ chính sách, lương.... tại các đơn vị thụ hưởng.

14


Có 4 nhóm chính phân loại trong cơng tác quản lý các khoản chi tiêu thường
xuyên như sau:
* Nhóm I: Chi thanh toán cá nhân (chi cho con người):
Là các khoản chi như lương và phụ cấp lương (được trả theo chế độ quy định
hiện hành, như quy định về nâng bậc lương hàng năm) và các khoản phải trả phải nộp
theo lương như : BHYT, BHXH, BHTN. Là khoản bù đắp hao phí sức lao động, duy trì
q trình tái sản xuất sức lao động cho đội ngũ nhân viên của bệnh viện. Theo quy định
chi thanh toán cá nhân là nhóm chi tương đối ổn định, chiếm gần 20% tổng kinh phí và
thay đổi khi biên chế thay đổi. Cụ thể:
- Tiền lương, tiền công bao gồm: lương ngạch bậc, lương tập sự, lương hợp đồng,
tiền công hợp đồng theo vụ, việc.
- Tiền phụ cấp như: chức vụ, làm thêm giờ, làm đêm, độc hại nguy hiểm và tiền
phụ cấp đặc biệt của ngành.
- Tiền thưởng
- Các khoản đóng góp: BHYT, BHXH, kinh phí cơng đồn.
- Phúc lợi tập thể: các phúc lợi khác, trợ cấp khó khăn thường xuyên.
- Các khoản thanh toán khác cho cá nhân: trợ cấp khó khăn đột xuất và thường
xuyên, tiền tàu xe vàphúc lợi khác.
* Nhóm II: Chi quản lý hành chính, chi nghiệp vụ chun mơn
- Chi quản lý hành chính:
Bao gồm các khoản chi: chi phí mua ngồi như: tiền hội nghị;thơng tin liên
lạc,tiền điện; tiền nước; văn phịng phẩm …. chi quản lý hành chính mang tính gián tiếp
để duy trì hoạt động bộ máy quản lý bệnh viện.Vì vậy, nhóm chi này phải kịp thời, chi
đúng,sử dụng tiết kiệm,chi đủ, kịp thời và tránh lãng phí, hiệu quả. Nhóm chi ngày
chiếm tỷ lệ khoảng từ 10-15% tổng nguồn kinh phí.

Trong cơ chế cũ trước đây tỷ lệ nhóm chi này bị hạn chế và khơng hợp lý. Theo
cơ chế mới hiện nay các đơn vị được chủ động xây dựng định mức chế độ, tiêu chuẩn
15


chi tiêu nội bộ của mình nhưng phải dựa trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ
chi tiêu tài chính hiện hành của Nhà nước và đảm bảo các hoạt động thường xuyên phù
hợp với các hoạt động đặc thù của bệnh viện, sử dụng tiết kiệm tránh lãng phí, có hiệu
quả và tăng cường cơng tác quản lý nguồn tài chính trong phạm vi của mình.
Đưa ra định mức chi và quản lý chặt các khoản chi tiêu phải xây dựng chính sách
tiết kiệm. Nhón chi này được quản lý tốt góp phần tăng thêm kinh phí cho các nhóm
khác, tạo điều kiện tiết kiệm.
Cụ thể:
+ Chi thanh tốn dịch vụ cơng cộng (tiền: điện, nước, tiền , vệ sinh môi trường và
các dịch vụ cơng cộng khác.)
+ Chi vật tư văn phịng (cơng cụ dụng cụ, văn phòng phẩm và vật tư văn phòng
khác ...)
+ Chi liên lạc, thơng tin, tun truyền (cước phí điện thoại, Fax, và các chi phí
khác ...)
+ Chi cơng tác phí (tàu xe, chi phí th mướn, khốn cơng tác phí, tiền vé máy
bay, phụ cấp cơng tác phí và cơng tác phí khác...)
+ Chi hội nghị phí (Tiền thuê hội trường và phòng ngủ, tài liệu bồi dưỡng giảng
viên, chi bù tiền ăn và các chi phí khác ...)
- Chi cho các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ
Chi cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ gồm những khoản như chi mua
vật tư, hàng hoá, chi phục vụ công tác khám và điều trị; mua vật tư y tế và trang thiết bị
kỹ thuật…. Khoản chi này phụ thuộc vào cơ sở vật chất và quy mô hoạt động của bệnh
viện. Là nhóm quan trọng (đây là nhóm thiết yếu nhất), địi hỏi nhiều cơng sức quản lý
và chiếm tỷ trọng lớn chiểm 50% tổng số nguồn kinh phí. Nhà nước ít khống chế nhóm
chi này do thực hiện theo yêu cầu thực tế có liên hệ chặt chẽ tới mục tiêu phát triển

bệnh viện và chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
16


Nhóm chi này địi hỏi nhà quản lý nhóm phải biết sử dụng đúng mức và hiệu quả
thích hợp do nhóm này khơng có quy định q khắt khe nhưng cần đảm bảo cân đối
“thu chi” đặc biệt là thuốc phải giữ được chất lượng điều trị và nhất là tránh lãng phí
tiết kiệm được kinh phí và chi thuốc khơng vượt q 50% nhóm chi chun mơn.
Đây là khoản chi quan trọng nhất tác động trực tiếp công tác khám chữa bệnh
như: Chi phí nghiệp vụ chun mơn từng ngành: chi mua vật tư hàng hoá trang thiết bị
chuyên dùng dùng cho chuyên môn ( không phải là tài sản cố định), chi cho trang phục
đồng phục, chi mua sách báo, tài liệu, chế độ dùng cho chuyên môn từng ngành và các
chi phí khác ... Chi khác: Bao gồm các khoản lệ phí và phí của đơn vị dự tốn."
* Nhóm III: Chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định
Là nhóm chi thiết yếu khơng thể thiếu được của toàn ngành y. Qua các năm tài
sản cố định xuống cấp cần phục hồi lại và đầu tư mua sắm mới trang bị thêm địi hỏi
phải có kinh phí để hiện đại hố trang thiết bị của ngành. Nhóm chi này góp phần nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện, cải thiện năng lực hiện có của tài
sản cố định giúp cho quy trình khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao về quy mô và
hoạt động.
Nhóm chi này có thể làm thay đổi tồn bộ bộ mặt của bệnh viện và làm thay đổi
cả quy trình chăm sóc bệnh nhân theo hướng phát triển mới theo từng giai đoạn cho nên
các bệnh viện quan tâm đến nhóm này. Nhóm này chiếm tỷ lệ chi mức khoảng trên 20%
với bốn mục tiêu chính:
-

Phát triển và duy trì nguồn nhân lực bệnh viên.

-


Phát triển và duy trì trang thiết bị.

-

Phát triển và duy trì phương tiện làm việc.

-

Phát triển và duy trì cơ sơ vật chất.

Cụ thể, nhóm này gồm các khoản chi cơ bản sau :
+ Chi sửa chữa TSCĐ
17


Ở Việt Nam hiện nay, do dân số đông, nhu cầu khám chữa bệnh lớn, trong khi đó
số bệnh viện được xây mới chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng,
mặt khác, nhiều bệnh viện đã lâu đời, đòi hỏi phải nâng cấp, sửa chữa, mở rộng, cơ sở
vật chất hạ tầng kỹ thuật đều xuống cấp, được quy định rất chặt chẽ trong từng phần vụ
như sửa chữa nhỏ - lớn hay nâng cấp. Phải sửa chữa đầy đủ, đúng mức và đáp ứng tiêu
chuẩn phải phát huy được năng lực quản lý. Chi sửa chữa TSCĐ bảo toàn trị giá vốn
trong sửa chữa TSCĐ nhằm đạt kết quả tốt trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã
bỏ ra.
+ Chi mua sắm TSCĐ
Bao gồm trang thiết bị để phục vụ chuyên môn và phương tiện làm việc. Do ảnh
hưởng tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trang thiết bị cho KCB trong
bệnh viện ngày càng được đầu tư hiện đại, sử dụng dịch vụ kỹ thuật ngày càng cao.
Các trang thiết bị được sản xuất ở nước ngoài, giá cả khá là cao. Đặt ra vấn đề về việc
mua sắm phải tính đến hiệu quả kinh tế và giá cả . “ Liệu cơm gắp mắm” là phương
châm cần thiết trong việc mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện. Tuân thủ các quy

định mua sắm TSCĐ theo quy định của Nhà nước và bệnh viện.
- Nhóm IV: Các khoản chi khác:
Bao gồm chi: cho cơng tác Đảng, trích lập các quỹ của đơn vị sự nghiệp có thu,
tiếp khách, chi hỗ trợ khác, các khoản phí lệ phí.... Nhóm này phụ thuộc vào số kinh phí
tiết kiệm được ở nhóm II và nhóm III. Là nhóm khá quan trọng, có ý nghĩa nâng cao
đời sống cán bộ do đơn vị tiết kiệm chi, chi khen thưởng, chất lượng, chi mua sắm,trích
lập các quỹ để chi tăng thu nhập, đào tạo từ các quỹ của đơn vị.
Phải biết sử dụng thích hợp và đúng mức các khoản chi khác theo Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của chính phủ.
* Phương pháp lập dự toán:
Phương pháp lập dự toán được tiến hành theo phương pháp lập từ cấp dưới (cơ
sở), tổng hợp từ dưới lên. Việc lập dự toán theo phương pháp này các đơn vị cấp dưới
18


(cơ sở: Trạm xá, Bệnh viện ...) căn cứ vào số kiểm tra của cấp có thẩm quyền giao tiến
hành lập dự tốn thu, chi của đơn vị mình trong năm kế hoạch. Sau đó, thủ trưởng đơn
vị có nhiệm vụ xét duyệt và gửi lên cơ quan chủ quản (Phịng tài chính, Sở tài chính, Sở
Y tế...) và cuối cùng tổng hợp thành thu chi của từng ngành .
1.2.2. Thực hiện dự toán
Thực hiện dự toán quản lý tài chính bệnh viện là khâu quan trọng nhất. Vì:“Thực
hiện dự tốn là q trình sử dụng tổng hồ các biện pháp kinh tế tài chính và hành chính
nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong kế hoạch thành hiện thực. Trong khâu này, tiến
hành lập kế hoạch thu chi quý, trong đó chia ra các tháng và thực hiện tốt kế hoạch của
từng tháng. Sở dĩ phải lập kế hoạch thu chi quý là vì kế hoạch năm là lập cho cả năm,
đó là cái khung lớn, cịn kế hoạch thu chi quý là cụ thể cho từng quý, gắn liền với đặc
điểm của từng quý, do gắn liền với đặc điểm của từng quý nên sát thực và cụ thể hơn.
Nội dung của việc lập kế hoạch quý thường đơn giản và gọn nhẹ hơn nhiều so với kế
hoạch năm vì chúng đều nằm trong khung kế hoạch chung của cả năm. Và để thực hiện
tốt kế hoạch của một q thì địi hỏi phải cụ thể hóa cho từng tháng. Với kế hoạch từng

tháng đó, các đơn vị có thể đưa ra các biện pháp tốt nhất để thực hiện bằng được các chỉ
tiêu thu chi. Việc thực hiện dự toán diễn ra trong một niên độ ngân sách, ở Việt Nam,
niên độ ngân sách là một năm từ ngày 01/01 đến 31/12 hàng năm [26].”
Đây là khâu quan trọng là tiền đề trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu phát triển
bệnh viện, trong công tác quản lý tài chính đây là nội dung được đặc biệt quan tâm của
bệnh viện. Quá trình này là nhiệm vụ chung của cả đơn vị.
* Căn cứ thực hiện dự toán
- “Khi dự toán thu chi (kế hoạch) đã được cấp có thẩm quyền của bệnh viện phê
duyệt. Dự tốn kế hoạch mang tính chất quyết định nhất trong thực hiện dự toán của
bệnh viện. “Đặc biệt trong điều kiện ngày nay, cùng với việc tăng cường quản lý Nhà
nước bằng pháp luật, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
quản lý tài chính ngày càng được hồn thiện. Việc chấp hành dự tốn thu chi ngày càng
19


được luật hoá, tạo điều kiện cho đơn vị chủ động thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình.
- Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động của bệnh viện.
- Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
* Yêu cầu của công tác thực hiện dự toán
- Đảm bảo cấp phát, sử dụng, phân phối nguồn kinh phí một cách tiết kiệm, hợp
lý và hiệu quả.
- Đảm bảo giải quyết linh hoạt về kinh phí. Do sự hạn chế của nguồn kinh phí và
những hạn hẹp về khả năng dự toán nên giữa thực tế và q trình chấp hành dự tốn có
thể có chêch lệch nhất định đòi hỏi sự linh hoạt trong quản lý. Ngun tắc chung là chi
theo dự tốn nhưng nếu khơng có dự tốn mà cần chi thì có quyết định kịp thời, đồng
thời phải có thứ tự ưu tiên việc gì trước, việc gì sau. Khi thực hiện dự tốn bệnh viện
cần phải chú ý:
+ Vệ sinh phòng dịch;
+ Vật tư tiêu hao,thuốc, hố chất xét nghiệm đảm bảo cơng tác khám - chữa bệnh;

+ Máy móc,thiết bị y tế;
+ Phụ cấp và tiền lương cho đội ngũ cán bộ công nhân viên;
+ Nâng cấp bệnh viện, sửa chữa.
- Khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt dự tốn và nhận được thông báo cấp
vốn hạn mức, bệnh viện chủ động sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức thực hiện thu nhận các nguồn tài chính theo quyền hạn và theo kế
hoạch.
- Tổ chức thực hiện các khoản chi theo tiêu chuẩn, chế độ và định mức theo do
Nhà nước quy định trên cơ sở đánh giá hiệu quả và chất lượng cơng việc.”
1.2.3. Quyết tốn


Trong q trình sử dụng kinh phí thì quyết tốn là khâu cuối cùng. Quyết toán là

phản ánh đầy đủ tất cả các khoản chi và phải báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng
20


các chế độ báo cáo về biểu mẫu, nội dung , thời gian và các khoản chi tiêu. Dựa trên cơ
sở các số liệu đã báo cáo quyết toán từ đó đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ,đánh
giá hiệu quả phục vụ của chính bệnh viện qua đó rút ra ưu, khuyết điểm của các khâu
trong quá trình quản lý từ đó làm cơ sở quản lý ở chu kỳ tiếp theo đặc biệt “là làm cơ
sở cho việc lập kế hoạch của năm sau”.
Để công tác quyết toán được thực hiện tốt cần thỏa mãn các điều kiện cơ bản sau:
- Bộ máy kế toán phải được tổ chức theo quy định đảm bảo linh hoạt, hiệu quả và
gọn nhẹ.
- Mở sổ sách đúng quy định, theo dõi đầy đủ.
- Phản ánh kịp thời, ghi chép cập nhật, chính xác.
- Kiểm tra, đối chiếu thường xuyên.
- Cuối kỳ báo cáo phải sử dụng theo mẫu biểu thống nhất, những trường hợp

không đúng theo chế độ cần phải xử lý để tránh tình trạng thiếu sót.
- Thực hiện báo cáo theo đúng quy định của nhà nước đối với báo cáo quý sau 15
ngày và báo cáo năm sau 45 ngày.”
1.2.4. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá
“Trong thực tiễn, quản lý tài chính và các hoạt động tài chính ln chịu tác động
của nhiều nhân tố khác nhau vơ cùng phức tạp, vì vậy việc thực hiện kế hoạch “không
phải bao giờ cũng đúng như dự kiến”. Do đó, cần phải kiểm tra,thanh tra thường xuyên
để uốn nắn, phát hiện những thiếu sót để đưa cơng tác quản lý tài chính đi vào nề nếp.
Qua mỗi lần kiểm tra giúp đơn vị biết được tình hình quản lý tài chính của mình để đảm
bảo hiệu quả đầu tư.
Cùng với việc kiểm tra, thanh tra, công tác đánh giá rất được coi trọng trong q
trình quản lý tài chính. Đánh giá kiểm tra xem việc gì đạt hiệu quả, việc gì khơng đạt
hiệu quả tránh gây lãng phí từ đó đưa ra các biện pháp động viên kịp thời cũng như rút
kinh nghiệm quản lý. Hiện nay, chưa thống nhất được các tiêu chí đánh giá, có rất
nhiều tranh luận và càng khó khăn do tính đặc thù của mình, hoạt động tài chính của
21


bệnh viện gắn bó hữu cơ với mục tiêu “cơng bằng trong cung cấp dịch vụ y tế cho nhân
dân”. Do đó, một số nội dung cơ bản được áp dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động tài
chính của bệnh:
- Đánh giá về chất lượng chuyên môn dựa vào cơ cấu tổ chức, các phương pháp
hoạt động và tình trạng người bệnh xuất viện.
- Về hạch tốn chi phí bệnh viện như về chi phí kế tốn, kinh tế.
- Các dịch vụ của bệnh viện được nhân dân trên địa bàn tiếp cận như thế nào.
1.3. Chất lượng quản lý tài chính tại bệnh viện đa khoa thuộc tỉnh
1.3.1. Khái niệm về chất lượng quản lý tài chính
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng, tuy nhiên có thể thấy chất
lượng là một phạm trù trừu tượng. Theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9000:2000, thì “chất
lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”. Hay theo

Đại từ điển tiếng Việt, chất lượng là “cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự
vật, ví dụ: chất lượng hàng hóa tốt, nâng cao chất lượng học tập” [tr331].
Còn đối với nâng cao, theo Đại từ điển tiếng Việt: “nâng cao là làm cho ở mức
tốt hơn” [tr1175].
Chất lượng quản lý tài chính tại bênh viện được biểu hiện tập trung ở hiệu quả
chỉ tiêu, sử dụng tài chính và việc chấp hành các quy định trong quản lý tài chính nói
chung và quản lý tài chính tại các bệnh viện nói riêng. Hiệu quả chi tiêu; sử dụng tài
chính là phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng về mặt thực tiễn và lý luận, là chỉ tiêu hàng
đầu đánh giá chất lượng quản lý tài chính nói chung.
Hiệu quả hiểu theo nghĩa chung nhất là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố đầu vào với chi phí ở mức độ thấp nhất để đạt được kết quả đầu ra là cao nhất.
Trong thực tế, việc xác định hiệu quả sẽ là tương đối dễ dàng đối với các doanh nghiệp
hoạt động vì “mục tiêu lợi nhuận”, vì các yếu tố đầu ra và đầu vào đều định lượng
được. Đối với các tổ chức, đơn vị hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận hoặc các đơn
22


vị hành chính sự nghiệp trong đó có Bệnh viện Thanh Nhàn – Thành phố Hà Nội, việc
xác định hiệu quả chi tiêu là rất khó khăn.
Hiệu quả chi tiêu tài chính được hiểu là mối quan hệ giữa kết quả thu được tối đa
so với mức chi phí ở mức tối thiểu. Hoặc nói theo cách khác là với tổng mức kinh phí
được giao đầu năm, với các khoản phí thu được đơn vị đã hồn thành khối lượng công
việc nhiều hơn, chất lượng tốt hơn mà không phải bổ sung kinh phí.
Chất lượng quản lý tài chính tại các bệnh viện cịn được biểu hiện thơng qua năng
lực, biện pháp quản lý chặt chẽ từ hoạt động có thu, thu đúng quy định của Bộ Y tế và
Pháp luật Nhà nước.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Bệnh viện
“Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta coi trọng
và luôn được đặt lên hàng đầu, bảo vệ và CSSK cho nhân dân là điều kiện không thể
thiếu đối với một đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Đối với đất nước ta, trong nhiều năm thực hiện quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, Ngành y tế nói chung và các bệnh viện cơng nói riêng được NSNN
bao cấp tồn bộ kinh phí để thực hiện chính sách khám chữa bệnh khơng mất tiền để
chăm sóc sức khỏe nhân dân. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho các bệnh viện công của
nước ta phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Những năm gần đây, nền kinh
tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì nguồn vốn NSNN
phải được sử dụng như một cơng cụ tài chính tập trung nhất. Vấn đề đầu tiên trong công
tác Y tế với kinh tế thị trường là phải nhìn theo bản chất của Y tế là nhân đạo nhưng bên
cạnh đó vẫn có quy luật của kinh tế thị trường tác động như xung quanh vấn đề thoả
mãn yêu cầu và tính đến khả năng chi trả của người bệnh thông qua giá thành và giá cả
của các dịch vụ y tế. Từ đó đặt ra phải có một ngành kinh tế y tế bên cạnh đạo đức y tế,
tâm lý y tế, xã hội học y tế vì bản thân kinh tế y tế nằm ngay trong nội dung công tác
23


của các bệnh viện cơng. Bài tốn đặt ra cho các bệnh viện công là muốn tồn tại và phát
triển phải có cơ chế, biện pháp tổ chức quản lý tài chính, tổ chức huy động các nguồn
vốn đầu tư, đồng thời phải biết sử dụng nó một cách có hiệu quả. Nhưng trên thực tế,
hiện nay công tác quản lý tài chính trong các bệnh viện cơng cịn nhiều hạn chế do ảnh
hưởng của tư duy trước kia. Vẫn cịn hiện tượng tham ơ, biển thủ cơng quỹ, cơng tác
quản lý tài chính cịn lỏng lẻo gây thất thốt lãng phí.
Với sự ra đời của Luật NSNN năm 2015 đã trở thành hành lang pháp lý cho các
hoạt động tài chính trong các Bộ, ngành, đơn vị cơ sở và các bệnh viện cơng khơng nằm
ngồi vịng kiểm sốt đó. Việc ban hành và áp dụng thực hiện nghị định số 43/2006/NĐ
- CP về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu, ngành y tế và đặc biệt
là các đơn vị cơ sở như Phòng khám, các Bệnh viện ... phải đặt nhiệm vụ tự chủ tài
chính lên hàng đầu. Để làm tốt được điều này địi hỏi cơng tác quản lý tài chính ở các
đơn vị phải được tiến hành một cách khoa học, chặt chẽ và có hiệu quả cao vẫn phải
đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình hồ cùng với sự phát triển

chung của đất nước.”
1.3.3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng quản lý tài chính
Chất lượng quản lý tài chính là một khái niệm trừu tượng, muốn dung khái niệm
chất lượng vào việc đánh giá một mặt cơng tác nào đó thì phải lượng hóa được nó một
cách tối đa. Có nhiều cách lựa chọn và lượng hóa tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác,
chất lượng quản lý tài chính của một đơn vị hay một tổ chức nói chung và ở một bệnh
viện nói riêng.
Hoạt động của bệnh viện cũng có sự tương đồng như các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đơn vị cần sử dụng những “đầu vào” để tạo ra những “đầu ra” nhằm đạt được
các mục tiêu xác định. Các yếu tố đó cần được trang trải bằng các khoản chi. Các kết
quả “đầu ra” đó có tác dụng giám tiếp hoặc trực tiếp đến đời sống kinh tế - chính trị,
kinh tế-xã hội, trong đó nổi bật là “chăm sóc sức khỏe cộng đồng” .Chính vì vậy, đánh
24


×