Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phong trào cách mạng trung quốc giai đoạn 1924 1927 và ảnh hưởng của nó đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ YẾN

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1924 - 1927 VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ YẾN

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1924 - 1927 VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 8 22 90 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN VĂN TUẤN



NGHỆ AN - 2018


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................... 6
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 7
7. Bố cục của luận văn ........................................................................................ 7
NỘI DUNG ............................................................................................................ 8
Chương 1. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC GIAI
ĐOẠN 1924 - 1927 ............................................................................................. 8
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ......................................................................................... 8
1.1.1. Tình hình quốc tế ................................................................................... 8
1.1.2. Tình hình Trung Quốc .......................................................................... 14
1.2. Diễn biến của phong trào ........................................................................... 19
1.2.1. Phong trào công nhân........................................................................... 19
1.2.2. Phong trào nông dân ............................................................................ 28
1.2.3. Phong trào tư sản, tiểu tư sản ............................................................... 36
1.3. Ý nghĩa lịch sử ........................................................................................... 40
1.3.1. Đối với Trung Quốc ............................................................................. 40
1.3.2. Đối với thế giới .................................................................................... 45
Tiểu kết chương 1.............................................................................................. 47
Chương 2. ẢNH HƯỞNG CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 1924 - 1927 ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................. 49

2.1. Đối với xu hướng cách mạng tư sản .......................................................... 49
2.1.1. Đối với tổ chức cách mạng .................................................................. 49
2.1.2. Đối với lãnh đạo cách mạng ................................................................ 57


2.2. Đối với xu hướng cách mạng vô sản ......................................................... 62
2.2.1. Đối với tổ chức cách mạng .................................................................. 62
2.2.2. Đối với lãnh đạo cách mạng ................................................................ 69
Tiểu kết chương 2.............................................................................................. 90
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 97
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Nxb

:

Nhà xuất bản


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến sự trỗi dậy “thần
kì” của Trung Quốc. Trung Quốc được các nhà nghiên cứu đánh giá: Là quốc gia
đã từng ở đỉnh cao của văn minh thời cổ đại, đã giậm chân tại chỗ trong thời kỳ
trung cổ đã rơi xuống đáy vực của sự xa sút trong thời kỳ cận đại, nay đang vươn

lên, đạt sức mạnh cạnh tranh với nhiều cường quốc trên thế giới.
“Nhìn lịch sử để thấy hiện tại”, nghiên cứu tình hình cách mạng Trung
Quốc những năm 1924-1927 và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam cũng là một
cách để giúp chúng ta thấy một số vấn đề đang có ý nghĩa hiện nay. Đặc biệt, để
hiểu thêm tình hình Việt Nam trong những năm cuối đầu thế kỉ XX, khi cách
mạng nước ta đang mò mẫm tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, bên cạnh vai trò của Quốc dân Đảng, sự
ra đời của Đảng Cộng sản đã làm cho cách mạng Trung Quốc thực sự có bước
thay đổi về chất với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào nông dân, công nhân,
tư sản. Các phong trào đấu tranh vì mục tiêu quét sạch các thế lực quân phiệt,
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc diễn ra tạo ra điều kiện để mỗi đảng có
thể quyết định xu hướng phát triển đất nước. Không chỉ dừng lại trong phạm vi
lãnh thổ, phong trào cách mạng Trung Quốc những năm 1924 - 1927 đã tác động
mạnh mẽ tới phong trào đấu tranh của nhân dân các nước trong khu vực, đặc biệt
là Việt Nam.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, “núi liền núi, sông liền
sông”, cùng nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa. Ngay từ đầu thế kỷ XX,
cách mạng hai nước đã có sự giao lưu, giúp đỡ và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu phong trào cách
mạng ở Trung Quốc trong giai đoạn 1924 -1927 và ảnh hưởng của nó đối với
Việt Nam sẽ góp phần làm rõ bối cảnh quốc tế, sự xuất hiện và phát triển của các
xu hướng cách mạng ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.


2
Phong trào cách mạng ở Trung Quốc trong giai đoạn 1924 -1927 và ảnh
hưởng của nó đối với Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu
sắc. Tìm hiểu vấn đề trên, buộc người nghiên cứu phải khảo sát toàn diện về
phong trào cách mạng Trung Quốc (1924 - 1927). Đồng thời, khảo sát nhiều vấn
đề liên quan về sự ra đời, phát triển, hoạt động của các chí sĩ yêu nước, cách

mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX. Mặt khác, kết quả nghiên cứu có thể phục vụ cho
việc giảng dạy, nghiên cứu lịch sử của chúng tôi ở trường Trung học phổ thông.
Với những lí do trên, chúng tơi mạnh dạn chọn vấn đề “Phong trào cách
mạng ở Trung Quốc giai đoạn 1924-1927 và ảnh hưởng của nó đối với Việt
Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Phong trào cách mạng ở Trung Quốc giai đoạn 1924-1927 và ảnh
hưởng của nó đối với Việt Nam đã được giới sử học trong nước và nước ngồi
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về phong trào cách mạng ở Trung Quốc những năm 1924-1927, ở Việt
Nam, tài liệu mà chúng tơi tiếp cận được có các cơng trình tiêu biểu sau:
- Nguyễn Huy Q (2004), Lịch sử cận đại Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến phong trào công nhân, nông dân, tư sản ở Trung
Quốc, cũng như hình thái hợp tác Quốc - Cộng, Mặt trận dân chủ thống nhất,...
- Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2001), Lịch sử Trung Quốc, Nxb
Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách viết về Lịch sử Trung Quốc từ thời nguyên thủy
đến thời hiện đại, trong đó có trình bày nội dung về phong trào cách mạng Trung
Quốc những năm 1924-1927.
- Nguyễn Anh Thái (chủ biên, (1991), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Hà Nội. Tác giả đề cập vấn đề ở góc độ thơng sử.
- Nguyễn Anh Thái (chủ biên), 2006), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo
dục, Hà Nội. Tác phẩm đề cập một cách khái quát tình hình cách mạng Trung
Quốc từ năm 1919 đến năm 1945, trong đó đề cập đến phong trào cách mạng
Trung Quốc sau khi Mặt trận dân chủ hình thành.


3
- Đỗ Thanh Bình (chủ biên, 1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh
giải phóng dân tộc ở một số nước châu Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội. Trong chương 2, cuốn sách đã tập trung hơn vào con đường cách mạng vô

sản do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo.
- Đỗ Thanh Bình (2006), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc trong thế
kỷ XX - một cách tiếp cận, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. Cuốn sách có đề cập
đến những nội dung chủ yếu của phong trào cách mạng của Trung Quốc những
năm 1924-1927.
Về ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Trung giai đoạn 1924-1927
đối với Việt Nam có một số cơng trình nghiên cứu, chủ yếu tập trung ở các sách
giáo trình, một số sách viết về các lãnh tụ của cách mạng Việt Nam từng hoạt
động ở Trung Quốc thời gian đó.
- Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
cách mạng tháng Tám, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. Tập 2 của cuốn sách
này, có trình bày những ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn - người tiêu biểu cho tư
tưởng tư sản Trung Quốc đối với Việt Nam.
- Đinh Xuân Lâm (Chủ biên, 2007), Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, Tập 2,
Nxb Giáo dục. Cuốn sách đề cập đến một số vấn đề của cách mạng Trung Quốc,
đặc biệt nhấn mạnh sự chuyển biến của tư tưởng Phan Bội Châu dưới tác động
của cách mạng Trung Quốc.
- Đại học quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
(1997), Tân thư xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, Nxb Chính
trị quốc gia. Cuốn sách ít nhiều có liên quan đến tư tưởng cứu nước theo xu
hướng tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam dân.
- Nguyễn Thành (1984), Báo chí cách mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội. Tác phẩm trình bày sự hoạt động của báo chí cách mạng Việt Nam,
trong đó có tờ báo Thanh Niên những năm 1925-1927. Đây là tờ báo xuất bản ở
Trung Quốc trong thời kỳ cách mạng Trung Quốc phát triển mạnh.
- Nguyễn Thành (1985), Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội,
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. Cuốn sách tập trung trình bày quá trình ra đời,


4

hoạt động của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, đặc biệt là
thời gian 1924-1927 ở Trung Quốc với những hoạt động rất sôi nổi.
- Song Thành (2004), Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Tác giả Song Thành đi sâu phân tích những hoạt động của Nguyễn
Ái Quốc - lãnh tụ của cách mạng vô sản Việt Nam ở Quảng Châu - trung tâm của
cách mạng Trung Quốc những năm 1924-1927.
Phạm Xanh (2001), Hồ Chí Minh với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách chủ yếu trình bày
vai trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở
Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều nội dung liên quan đến q trình hoạt động của
Người ở Trung Quốc những năm 1924-1927.
Ngoài ra, trên một số tạp chí khoa học, một số kỷ yếu Hội thảo khoa học ở
Việt Nam có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề cách mạng ở Trung Quốc những
năm 1924-1927. Tiêu biểu có:
- Đỗ Quang Hưng (1996), Làn sóng tân thư Trung Hoa trong tiến trình
lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (Số 4).
- Nguyễn Gia Phu, Thắng lợi của cách mạng dân chủ Trung Quốc (1921 1949), Tạp chí Lịch sử - Văn hóa.
- Chương Thâu (1962), Ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc đối với sự
chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (số 43).
- Phạm Xanh (2015), Nét đặc sắc của tuần báo Thanh niên: tờ báo khởi
đầu dịng báo chí cách mạng Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 295), tháng 6.
- Nguyễn Văn Tuấn (2016), Nguyễn Ái Quốc với các nhà cách mạng Trung
Quốc thời gian người ở Pari và Quảng Châu, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (số 8).
- Nguyễn Văn Tuấn (2016), Hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng
sản ở Trung Quốc (1924-1927): Một số biểu hiện trên lĩnh vực chính trị, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, (số 8).
Ở Trung Quốc, nghiên cứu về cách mạng Trung Quốc giai đoạn 19241927 là vấn đề nhận được sự quan tâm của giới sử học. Các tác phẩm chúng tơi
tiếp cận được gồm có:


5

- Hà Cán Chi (chủ biên) (1959), Lịch sử cách mạng hiện đại Trung Quốc,
tập 1, Nxb Ngoại văn, Bắc Kinh.
- Trương Hiến Văn (1985), Lịch sử Trung Hoa Dân quốc, Nxb Nhân dân
Hà Nam...
- Vương Kỳ Sinh (2006), Lịch sử cận đại Trung Quốc: Quốc Cộng hợp
tác và cách mạng quốc dân (1924-1927) (quyển 7), Nxb Nhân dân Giang Tơ…
Nhìn chung, các phẩm này chủ yếu nghiên cứu về phong trào cách mạng ở
Trung Quốc những năm 1924-1927, ý nghĩa của nó đối với cách mạng Trung
Quốc. Trong đó, có đề cập tới những ảnh hưởng của nó đối với cách mạng Việt
Nam.
Ngồi ra, trên một số tạp chí khoa học, một số kỷ yếu Hội thảo khoa học ở
Việt Nam, Trung Quốc có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề cách mạng ở
Trung Quốc những năm 1924-1927 và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
Từ những nguồn tài liệu mà chúng tơi tiếp cận được, có thể thấy: Phong
trào cách mạng ở Trung Quốc (1924 -1927) và ảnh hưởng của nó đối với Việt
Nam là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, hiện nay chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Mặc
dù vậy, những cơng trình đó là nguồn tư liệu rất quan trọng, làm cơ sở để chúng
tôi tiến hành nghiên cứu phong trào cách mạng ở Trung Quốc (1924 - 1927) và
ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào cách mạng Trung Quốc giai
đoạn 1924 - 1927 và sự ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt thời gian: phong trào cách mạng ở Trung Quốc mà chúng tôi
nghiên cứu diễn ra trong những năm 1924 đến 1927; sự ảnh hưởng đối với Việt
Nam bắt đầu từ phong trào đó về sau.
Về mặt nội dung: Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu cách mạng ở Trung
Quốc giai đoạn 1924-1927 với các phương diện: phong trào công nhân, nông dân,



6
tư sản, tiểu tư sản dưới tác động của hình thái Mặt trận thống nhất cách mạng; sự
ảnh hưởng của phong trào này đối với Việt Nam biểu hiện ở hai xu hướng cách
mạng vô sản và cách mạng tư sản (dưới góc độ ảnh hưởng đối với tổ chức và cá
nhân các nhà lãnh đạo cách mạng. Đối với các nhà lãnh đạo, luận văn tập trung
nghiên cứu trường hợp Phan Bội Châu - đại diện cho xu hướng cách mạng dân
chủ tư sản và Nguyễn Ái Quốc - lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Việt
Nam). Những vấn đề khác nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài, chúng tôi sẽ làm rõ phong trào cách mạng
Trung Quốc giai đoạn 1924-1927 và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam. Từ đó
đưa ra một số đánh giá, nhận xét về cách mạng Trung Quốc giai đoạn này; mức
độ ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc đối với Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát hoàn cảnh lịch sử dẫn đến phong trào cách mạng Trung Quốc
(1924-1927).
- Làm rõ các phong trào cách mạng ở Trung Quốc và ý nghĩa lịch sử của nó.
- Làm rõ ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Trung Quốc (1924-1927)
đối với xu hướng cách mạng vô sản và xu hướng cách mạng tư sản ở Việt Nam.
- Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về phong trào cách mạng ở Trung
Quốc (1924-1927) và sự ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tài liệu
Để thực hiện được đề tài này, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau:
- Các sách, giáo trình về lịch sử thế giới, lịch sử Trung Quốc, lịch sử Việt
Nam đầu thế kỉ XX.

- Các sách viết về Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quốc dân Đảng Trung
Quốc, phong trào cách mạng Trung Quốc giai đoạn 1924 - 1927.


7
- Các bài viết có liên quan đến đề tài được đăng trên tạp chí khoa học
chun ngành.
- Các cơng trình nghiên cứu, chuyên khảo của các học giả nước ngoài đã được
dịch ra Tiếng Việt, các tác phẩm của giới nghiên cứu Trung Quốc viết bằng tiếng Trung.
- Các tư liệu từ một số Website có độ tin cậy cao.
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng hai
phương pháp chủ yếu của khoa học lịch sử là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic.
Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác để sưu tầm,
chọn lọc và xử lý số liệu nhằm phân tích, tổng hợp để đánh giá và rút ra nhận xét,
kết luận một cách chính xác nhất mọi khía cạnh đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về phong trào cách mạng ở
Trung Quốc trong những năm 1924-1927 và ảnh hưởng đối với Việt Nam: phân tích
những yếu tố dẫn đến sự phát triển của các phong trào đấu tranh, nội dung các phong
trào; ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam; rút ra một số nhận xét, đánh giá về vấn đề.
Kết quả của luận văn và hệ thống tư liệu được sử dụng sẽ cung cấp một
nguồn tư liệu quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Trung Quốc, lịch sử
Việt Nam đầu thế kỷ XX.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung

của luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chương 1.

Phong trào cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn 1924-1927

Chương 2.

Ảnh hưởng của phong trào cách mạng Trung Quốc giai đoạn
1924-1927 đối với Việt Nam


8
NỘI DUNG
Chương 1
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 1924 - 1927

1.1. Hồn cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình quốc tế
Sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là thành quả của
một cuộc cách mạng xã hội, nó cịn là thành quả của nền văn hóa, văn minh nhân
loại. Đây là thắng lợi đầu tiên của học thuyết Mác - Lênin, từ đó đã đưa chủ
nghĩa xã hội khoa học từ chỗ chỉ là ước mơ cao đẹp của quần chúng lao động và
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trở thành “một hiện tượng thực trong xã
hội, có sức mạnh vơ cùng to lớn lơi cuốn hàng nghìn triệu người vào hành động
cách mạng vì hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội” [50; tr.123]. Thắng
lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh đất
nước và số phận hàng triệu con người ở Nga, từ kiếp làm thuê trở thành người
làm chủ, đưa giai cấp cơng nhân Nga non trẻ bước lên vũ đài chính trị, trở thành
giai cấp lãnh đạo cách mạng và tổ chức xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ

nghĩa đầu tiên trên thế giới. V.I.Lênin từng khẳng định: “Việc tổ chức ra các Xô
viết này mở đầu cho một cái gì đó lớn lao, mới mẻ, từ trước tới lúc bấy giờ chưa
hề có trong lịch sử cách mạng thế giới” [50; tr.123].
Những thành tựu của Cách mạng tháng Mười tạo tiếng vang vượt qua biên
giới nước Nga, ảnh hưởng to lớn đến phong trào cộng sản, phong trào giải phóng
dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế
giới. Tác động to lớn nhất và dễ nhận thấy nhất từ Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 chính là tác động đến nhận thức con người, cổ vũ, khích lệ, “thức
tỉnh” tinh thần đấu tranh vì tự do, dân chủ, vì độc lập dân tộc. Phong trào cộng
sản và phong trào giải phóng dân tộc thế giới suốt các thập niên sau đó đều phát
triển dưới sức sống của cách mạng xã hội chủ nghĩa.


9
Với phong trào cách mạng thế giới, Cách mạng tháng Mười Nga khơng chỉ
là thực tiễn sống động mà cịn là kho tàng kinh nghiệm vô giá. Cách mạng tháng
Mười là tấm gương về phương pháp, đường lối cách mạng cho các dân tộc bị áp
bức, làm cho họ thấy được khả năng thắng lợi cách mạng bằng con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng soi đường và sự cổ vũ của Cách mạng
Tháng Mười Nga cũng như sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, một thời đại mới của
phong trào cộng sản thế giới bắt đầu. Những năm 1919 - 1921, một loạt đảng cộng
sản được thành lập ở Đức, Áo, Hungaria, Ba Lan, Phần Lan, Argentina, Hy Lạp,...
Việc thành lập các đảng cộng sản đem lại khả năng thực tế cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa có thể đấu tranh giành thắng lợi ở những nước này.
Nhân dân Trung Quốc thấy một hy vọng mới để giải phóng cho dân tộc
mình khi giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân Nga làm cách mạng thắng lợi và
thành lập một nước chun chính vơ sản, khi mọi dân tộc bị áp bức trong nước
Nga đều được độc lập và tự do chân chính. Giai cấp vô sản Nga đã đập tan mọi
chướng ngại trong xã hội như: Nga hoàng, quý tộc, quân phiệt, quan liêu, tư bản
và tuyên bố hệ thống thế giới của chủ nghĩa đế quốc tất nhiên phải tan rã.

Tiếp đó, Lênin đã tổ chức mặt trận cách mạng thống nhất của những
người vô sản và những người bị áp bức trên thế giới. Vì thế, Cách mạng tháng
Mười Nga đã bắc chiếc cầu nối liền những người vô sản phương Tây và các dân
tộc bị áp bức phương Đông; tạo ra một thành trì cách mạng và dưới ngọn cờ chủ
nghĩa Mác - Lênin thành trì ấy đã giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc rất
nhiều. Do đó, cách mạng thuộc địa đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới. Lênin và nhân dân Xô viết với tinh thần quốc tế cao cả, nhận thấy
lực lượng cách mạng Trung Quốc đang dần trưởng thành nên hết sức đồng tình
với cuộc cách mạng của nhân dân Trung Quốc; quán triệt tinh thần chủ nghĩa
quốc tế, giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc.
Năm 1919 và 1920 chính phủ Xơ viết đã hai lần ra Bản tuyên bố về Trung
Quốc. Bản tuyên bố bãi bỏ tất cả những đặc quyền của đế quốc Nga đã có lúc
trước, đồng thời u cầu chính phủ Trung Quốc trục xuất quan lại của đế quốc


10
Nga. Liên Xô là nước đầu tiên bãi bỏ đặc quyền ở Trung Quốc. Nhân dân Trung
Quốc hoan hô nhiệt tình tinh thần quốc tế vĩ đại ấy của Chính phủ Xơ viết. Lúc
ấy, học sinh và báo chí tự động đứng lên tuyên truyền cho thắng lợi Cách mạng
tháng Mười, cho rằng chính sách đối ngoại của Chính phủ Xô viết là ngọn đuốc
trong lịch sử ngoại giao quốc tế. Nhân dân Trung Quốc đã giác ngộ, chuẩn bị đấu
tranh đến cùng với chính phủ quân phiệt và quan liêu phản động.
Hơn nữa, Cách mạng tháng Mười đã góp phần đem chủ nghĩa Mác Lênin cho nhân dân Trung Quốc, khiến cho nhân dân Trung Quốc tìm thấy chân
lí để giải phóng chính mình. Nó đã giúp các nhà yêu nước tiến bộ ở Trung Quốc
dùng thế giới quan của giai cấp vô sản để quan sát vận mệnh nước nhà, và xem
xét lại các vấn đề của mình. Thơng qua đó, bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và thành lập Đảng cộng sản trên cơ sở phong trào công nhân. Một khi chủ
nghĩa Mác - Lênin được kết hợp với thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc,
thì cách mạng Trung Quốc sẽ phát triển theo một hướng khác.
Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của Quốc tế Cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế cũng đã tác động mạnh mẽ tới cách mạng Trung Quốc lúc bấy giờ. Từ

khi thành lập, Quốc tế Cộng sản bên cạnh quan tâm chỉ đạo phong trào công
nhân ở các nước tư bản phát triển, cũng đã có những chú ý nhất định tới phong
trào đấu tranh của các nước thuộc địa. Đây là chính sách quan trọng, mở đường
cho chủ nghĩa Mác - Lênin đến với các dân tộc thuộc địa, trong đó có Trung
Quốc.
Đầu thế kỉ XX, khi Trung Quốc bị liên quân 8 nước xâm lược, V.I.Lênin
trong bài Chiến tranh Trung Quốc đã nghiêm khắc chỉ trích thực dân phương
Tây, đồng thời nêu khẩu hiệu kêu gọi giai cấp vơ sản Nga đồn kết cùng nhân
dân Trung Quốc chống lại chủ nghĩa đế quốc. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng
tháng Muời, phong trào công nhân ở Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Quốc tế
Cộng sản không những đề ra chiến lược, sách lược cho cách mạng thuộc địa,
trong đó có cách mạng Trung Quốc, mà cịn xác định lực lượng đóng vai trị then
chốt trong tiến trình cách mạng ở các nước đó. Đặc biệt, vấn đề được quan tâm


11
hàng đầu là giác ngộ ý thức của giai cấp công nhân. Đối với giai cấp công nhân
và phong trào công nhân Trung Quốc, sự giúp đỡ của phong trào Cộng sản và
Công nhân quốc tế về cơ bản được thực hiện theo ba hướng sau:
Thứ nhất, giúp đỡ, củng cố những phần tử trí thức cách mạng có xu hướng
Mác xít và hướng họ tiến hành cơng tác tun truyền chủ nghĩa Mác vào phong
trào công nhân, nhằm thức tỉnh giai cấp công nhân, tiến tới thành lập Đảng Cộng
sản. Mặt khác, Quốc tế Cộng sản có nhiệm vụ giúp đỡ nhân dân Trung Quốc
thành lập các tổ chức nghiệp đoàn, làm cơ sở xã hội cho các tổ chức đảng.
Thứ hai, phát động các chiến dịch quốc tế giúp đỡ nhân dân Trung Quốc
và bày tỏ tinh thần đoàn kết quốc tế với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Nga giúp đỡ nhân dân Trung Quốc đang lao động
ở nước Nga thành lập các tổ chức công nhân và các tổ chức cộng sản.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX trở đi, phong trào cộng sản và công nhân

quốc tế bắt đầu giúp đỡ trực tiếp đối với phong trào công nhân Trung Quốc.
Lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản đã tìm mọi cách tiếp xúc với các trí thức tiến bộ
Trung Quốc để giúp đỡ, hướng dẫn công tác tuyên truyền trong công nhân. Mặt
khác, bằng nhiều con đường khác nhau, nhiều phần tử trí thức cách mạng Trung
Quốc đã đến Vlađivôxtốc, Iếc cút và các thành phố khác ở Xibêri nhằm bắt liên
lạc với những người cộng sản Nga.
Năm 1920, Quốc tế Cộng sản đã ủy thác cho Đảng Bơnsêvích cử một
nhóm đảng viên cộng sản do G. Vơitinxki đứng đầu sang Trung Quốc thành lập
Ban Đông Á (trực thuộc Cục phương Đông của Quốc tế Cộng sản) và trực tiếp
giúp đỡ những người cách mạng Trung Quốc. Từ đây, mối liên hệ trực tiếp giữa
phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế với phong trào cách mạng Trung
Quốc được thiết lập. Khi đến đây, các đại diện của Quốc tế Cộng sản nhận thấy
có một nhóm trí thức cách mạng có xu hướng Mácxít tập hợp xung quanh Lý
Đại Chiêu ở Bắc Kinh, Trần Độc Tú ở Thượng Hải, Mao Trạch Đông ở Hồ
Nam,…Thông qua các cuộc tiếp xúc cũng như sự giúp đỡ của nhóm đại biểu


12
Quốc tế Cộng sản mà các tiểu tổ cộng sản đã được thành lập, làm cơ sở cho việc
thành lập Đảng cộng sản Trung Quốc về sau.
Ngoài ra, những đại biểu này cịn giúp đỡ giai cấp cơng nhân về tư tưởng
để thành lập nghiệp đoàn, cũng như giúp những người có tư tưởng Mácxít nhận
thức đúng đắn sự cần thiết phải kết hợp với giai cấp công nhân, hoạt động trong
phong trào cơng nhân. Chính vì vậy, dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười,
sự trưởng thành, lớn mạnh của giai cấp công nhân và phong trào công nhân, chủ
nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu rộng vào Trung Quốc. Với sự giúp đỡ của
Quốc tế Cộng sản, các phần tử trí thức cách mạng đã nhận thức đúng đắn tinh
thần, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Qua đó, bằng nhiều hoạt động khác
nhau như dùng báo chí, mở các trường học cho cơng nhân, thành lập nghiệp
đoàn,… từng bước đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào cơng nhân

để thành lập chính đảng của giai cấp vô sản - Đảng Cộng sản Trung Quốc
(7/1921). Từ đây, cách mạng Trung Quốc khơng cịn mơ hồ, ảo tưởng vào biện
pháp thỏa hiệp, mà phải dùng “bạo lực cách mạng”, thơng qua đó xác định cách
mạng là sự nghiệp của toàn thể nhân dân, mà nịng cốt là “liên minh cơng nơng”
với đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
Từ những thập niên 20 của thế kỉ XX, phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới phát triển mạnh mẽ đã tác động không nhỏ tới cách mạng Trung Quốc.
Ở giai đoạn này, xuất hiện cả phong trào theo xu hướng tư sản và phong trào
theo xu hướng vô sản. Đây cũng là giai đoạn vừa tích lũy lực lượng, chuẩn bị cơ
sở và tạo điều kiện cho việc giành thắng lợi cho các giai đoạn tiếp theo, vừa là sự
tìm kiếm, lựa chọn con đường giải phóng dân tộc.
Phong trào giải phóng dân tộc theo xu hướng vô sản ra đời được đánh dấu
bằng việc hàng loạt các đảng cộng sản xuất hiện ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Cùng với sự thức tỉnh của các dân tộc bị áp bức, dưới ảnh hưởng của
Cách mạng tháng Mười, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân thuộc địa
và phụ thuộc. Trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước hàng loạt các đảng cộng sản đã được thành lập ở


13
các châu lục trên thế giới. Ở châu Á, Đảng Cộng sản Inđônêxia ra đời sớm nhất
(5/1920), tiếp sau là sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc (7/1921),…
Với sự ra đời của các đảng cộng sản, giai cấp vơ sản đã khẳng định được
vai trị của mình như một lực lượng chính trị độc lập. Thơng qua các chính đảng
của mình, giai cấp vơ sản non trẻ ở các nước đã tích cực tham gia đấu tranh giành
độc lập, tiêu biểu như ở Inđônêxia, Trung Quốc... Trong quá trình phát triển, Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trong phong
trào giải phóng dân tộc. Những nỗ lực của Đảng đã phản ảnh khát vọng của nhân
dân Trung Quốc là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp.
Sự xuất hiện xu hướng vơ sản trong phong trào giải phóng dân tộc khơng

có nghĩa là sự thay thế xu hướng tư sản vốn đã tồn tại từ trước đó. Từ thập niên
20 của thế kỉ XX, phong trào dân tộc tư sản tiếp tục khẳng định mình và phát
triển với các hoạt động ngày càng phong phú đa dạng về hình thức, từ đấu tranh
hợp pháp nhằm bảo vệ, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, đấu tranh địi quyền lợi
kinh tế đến đấu tranh chính trị, giành quyền lập quốc hội dân tộc; từ đấu tranh ơn
hịa đến khởi nghĩa vũ trang. Ở Trung Quốc, Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn
cũng phát triển thành Đảng Quốc dân.
So với giai đoạn trước, giai đoạn này phong trào giải phóng dân tộc có
những thắng lợi bước đầu, ảnh hưởng tích cực đến phong trào giải phóng dân tộc
của các nước trên thế giới, trong đó có Trung Quốc.
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa tư bản không còn là hệ
thống duy nhất trên thế giới. Bước vào những năm 20 thế kỷ XX, chủ nghĩa tư
bản không có những thời kỳ ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế kéo dài
như trước đây, mà chỉ có một thời gian ngắn ngủi. Tình hình ở các cường quốc
tư bản như Anh, Mỹ, Nhật, Đức..., là những nước có quyền lợi ở Trung Quốc có
ảnh hưởng lớn đến tình hình của Trung Quốc.
Nói tóm lại, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân
tộc, tình hình của chủ nghĩa tư bản đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đến Trung Quốc,
trở thành nhân tố khách quan ảnh hưởng đến phong trào cách mạng trong giai


14
đoạn 1924 - 1927.
1.1.2. Tình hình Trung Quốc
Năm 1911, cuộc Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và giành thắng lợi. Đây là
một cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ ngai vàng đế chế, kết thúc chế độ
phong kiến chuyên chế đã ngự trị trên đất nước Trung Quốc hàng ngàn năm.
Cuộc cách mạng này khơng chỉ hồn thành sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ quân
chủ, mà cịn tạo ra những nhân tố về chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hóa để cách
mạng Trung Quốc tiếp tục phát triển, đánh đổ nền thống trị của chủ nghĩa quân

phiệt, tạo điều kiện cho bước chuyển biến từ “cách mạng dân chủ cũ” lên “cách
mạng dân chủ mới”.
Tháng 8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các đế quốc châu
Âu bị lơi vào cuộc chiến, ít có điều kiện chú ý tới thuộc địa của họ ở Đơng Á.
Nhật Bản thừa cơ đó đánh chiếm Thanh Đảo, buộc Viên Thế Khải kí các u
sách bất bình đẳng và bị quần chúng gọi là “ngày sỉ nhục của đất nước”.
Hành động phản cách mạng, bán nước, ngang nhiên khôi phục đế chế của
Viên Thế Khải đã đẩy sự phẫn nộ của quần chúng lên tột đỉnh. Đến tháng 6/1916,
Viên Thế Khải chết trong cô độc và tuyệt vọng. Sau khi Viên Thế Khải chết,
cuộc đấu tranh giành quyền lực trong nội bộ quân phiệt Bắc dương diễn ra rất ác
liệt, phức tạp. Mỗi tập đoàn quân phiệt hùng cứ một phương, có qn đội riêng,
lập chính quyền riêng, thậm chí có hệ thống tiền tệ riêng. Trung Quốc rơi vào
tình trạng cát cứ quân phiệt, xã hội hỗn loạn, nhân dân cùng cực. Đứng đằng sau
mỗi tập đoàn quân phiệt là các nước đế quốc thực dân với âm mưu chia cắt, nơ
dịch, bóc lột nhân dân Trung Quốc.
Những thế lực chia cắt Trung Quốc lúc bấy giờ như sau: Qn phiệt khu
Hỗn (hệ Hỗn) do Đồn Kỳ Thụy cầm đầu, khống chế vùng An Huy, Sơn Đông,
Phúc Kiến, Chiết Giang và nắm Bắc Kinh; Quân phiệt khu Trực (hệ Trực) do
Phùng Quốc Chương cầm đâu, khống chế vùng Giang Tô, Giang Tây, Bắc Hồ và
Lê Trực; Quân phiệt khu Phụng (hệ Phụng) do Trương Tác Lâm cầm đầu, khống
chế vùng Đông Bắc; Quân phiệt khu Tấn (hệ Tấn) do Diêm Tích Sơn khống chế


15
ở vùng Sơn Tây, từng ủng hộ Viên Thế Khải.
Các tỉnh phía Tây Nam trong phong trào bảo vệ đất nước đã tuyên bố độc
lập dưới danh nghĩa chống Viên Thế Khải, nhưng thực chất là phân chia các địa
bàn như: khu vực Vân Nam (hệ Điền) do Đường Kế Nghiêu chiếm giữ; khu vực
Quảng Tây (hệ Quế) do Lục Vinh Đình chiếm; khu vực Quảng Đơng (hệ Việt)
do Long Tế Quang cạnh tranh với Đàm Diên Khải.

Nhìn chung, về mặt chính trị, tình hình Trung Quốc cuối thập kỷ 10 đầu
thập kỷ 20 của thế kỷ XX là hết sức phức tạp. Quan hệ phong kiến vẫn tồn tại
dai dẳng, đời sống nhân dân vô cùng khốn cùng. Nhân dân Trung Quốc ngày
càng nhận rõ hai nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến là không thể tách
rời.
Thời gian này, tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc có nhiều thay đổi,
nhưng về cơ bản, xã hội Trung Quốc vẫn là một nước nửa thuộc địa, nửa phong
kiến. Ở nơng thơn, cơng điền đã nhanh chóng chuyển thành tư điền, việc mua
bán ruộng đất khơng cịn gị bó trong quan hệ tông pháp. Ruộng đất tập trung
vào tay bọn quân phiệt, những thương nhân đầu tư vào ruộng đất. Địa tô chủ yếu
là hiện vật và bắt đầu xuất hiện địa tô bằng tiền. Mặc dù vậy, do khối lượng nơng
sản hàng hóa tăng dẫn tới tư bản nông nghiệp phát triển.
Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), kinh tế tư
bản dân tộc ở Trung Quốc cũng có sự phát triển nhất định. Thời gian này, các
nước tư bản châu Âu khơng có khả năng sản xuất hàng hóa để xuất khẩu sang
Trung Quốc mà ngược lại họ phải tăng nhập khẩu lương thực và tiêu dùng hàng
từ Trung Quốc. Tình hình đó, đã kích thích cơng thương nghiệp Trung Quốc phát
triển. Phát triển nhanh nhất là công nghiệp dệt và công nghiệp chế biến bột mì.
Trong cơng nghiệp nặng, nhiều nhà máy gang thép được xây dựng. Các ngành
khai thác quặng, than đá, điện lực, vận tải đều có sự phát triển tương đối nhanh.
Cùng với sự phát triển của kinh tế tư bản dân tộc, giai cấp tư sản Trung
Quốc cũng có bước trưởng thành hơn trước, năm 1914, đã thành lập Hiệp hội
cơng thương tồn quốc. Tuy nhiên, cơng thương nghiệp Trung Quốc chỉ chiếm


16
một tỉ lệ rất nhỏ trong nền kinh tế, còn phụ thuộc rất nhiều vào tư bản nước
ngoài. Sự phát triển tương đối nhanh trong những năm Chiến tranh thế giới thứ
nhất chỉ mang tính tạm thời, khơng bền vững.
Bên cạnh đó, giai cấp cơng nhân Trung Quốc cũng tăng nhanh chóng, đến

năm 1919 có khoảng 2 triệu người. Giai cấp công nhân Trung Quốc bị ba tầng áp
bức: đế quốc, chủ nghĩa phong kiến và tư bản trong nước, họ hầu như khơng
được hưởng bất kì quyền dân chủ nào. Từ năm 1913 đến năm 1919, ở Trung
Quốc đã nổ ra khoảng 130 cuộc bãi công của công nhân đòi quyền lợi kinh tế,
chống chủ nghĩa đế quốc, lên án hành động bán nước, hại dân của chính quyền
quân phiệt…
Trên lĩnh vực văn hóa, sau Cách mạng Tân Hợi cũng diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa các xu hướng. Viên Thế Khải chủ trương phục cổ, đề cao Nho
giáo, để bảo tồn “quốc túy”. Khang Hữu Vi đòi ghi vào Hiếp pháp “Khổng giáo
là quốc giáo”, chủ trương khơi phục đế chế, cơng kích tư tưởng cộng hịa. Đối
lập với trào lưu tư tưởng phong kiến là trào lưu tư tưởng dân chủ. Trong những
năm 1914, 1915, Trung Hoa Cách mạng đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo thành
lập Tạp chí Dân quốc (ở Nhật), Nhật báo Dân quốc (ở Thượng Hải) để tiến hành
đấu tranh quyết liệt trên mặt trận tư tưởng văn hóa, chống chế độ quân phiệt
Viên Thế Khải, tuyên truyền chế độ dân chủ.
Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Cách mạng tháng Mười Nga, sự trưởng
thành của giai cấp công nhân, trong những năm đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác Lênin được truyền bá sâu rộng vào Trung Quốc thông qua việc xuất bản báo,
tạp chí là chủ yếu. Với hình thức này, các nhà yêu nước Trung Quốc đã đăng
nhiều bài viết tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Tháng 9/1915, Trần Độc Tú khai trương Tạp chí Thanh niên, về sau đổi
tên là Tân Thanh niên, đây là sự kiện tiêu biểu mở đầu cho cuộc vận động văn
hóa mới. Tạp chí Tân Thanh niên đã thu hút được sự tham gia, công tác của
giới trí thức Bắc Kinh như Lý Đại Chiêu, Hồ Thích, Lỗ Tấn,… Từ đó, hình


17
thành một mặt trận văn hóa mới rất hùng mạnh, có ảnh hưởng trong xã hội
đương thời, nhất là trong thanh niên, trí thức. Nội dung cơ bản của phong trào
văn hóa mới là đề xướng “dân chủ” và “khoa học”. Tân Thanh niên và trở

thành tờ báo đầu tiên đăng những bài tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội từ sau
Cách mạng tháng Mười Nga
Từ năm 1918 đến năm 1919, có nhiều tạp chí mới được thành lập nhằm
mục đích tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Tiêu biểu là Tuần báo bình luận
do Lý Đại Chiêu và Trần Độc Tú phụ trách, Tạp chí Lao động… Trên các tạp chí,
các phần tử trí thức tiến bộ lãnh đạo đã liên tục công bố nhiều bài viết giới thiệu
về chủ nghĩa Mác – Lênin, về Cách mạng tháng Mười.
Mặt khác, thông qua việc thành lập các tổ chức yêu nước, chủ nghĩa Mác Lênin còn được truyền bá vào Trung Quốc. Các tổ chức như Thiếu niên Trung
Quốc học hội, Công học hội, Tân dân học hội ở, Học sinh cứu quốc hội,… đã có
nhiều hình thức tun truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, nhận thức của các
tầng lớp nhân dân Trung Quốc về con đường cách mạng vo sản được nâng lên.
Ngồi ra, đơng đảo tầng lớp trí thức tiến bộ Trung Quốc đã bắt đầu xâm
nhập vào trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trường,... để cùng ăn,
cùng ở, cùng làm việc với công nhân. Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Thái Nguyên
Bồi trở thành những người tiêu biểu của việc tuyên truyền tư tưởng cách mạng
xã hội chủ nghĩa vào công nhân. Mục đích trước hết của hành động này là nhằm
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và giác ngộ ý thức cách mạng cho giai cấp
cơng nhân.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa Mác - Lênin cịn được truyền vào Trung Quốc
thơng qua bộ phận thanh niên học tập ở nước ngoài. Họ “không chỉ học tập kiến
thức về khoa học tự nhiên và lý luận về nền chính trị tư bản chủ nghĩa, mà còn
chịu ảnh hưởng của trào lưu xã hội chủ nghĩa” [44; tr.36].
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, tình hình Trung Quốc có chuyển biến
mạnh mẽ với những sự kiện có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng 19241927. Những vấn đề quan trọng nhất là là sự bùng nổ của phong trào Ngũ Tứ


18
(5/1919); sự thành lập của Đảng Cộng sản Trung Quốc và những hoạt động của
Quốc dân Đảng Trung Quốc.
Phong trào Ngũ tứ là một phong trào yêu nước, một cuộc vân động tư

tưởng lớn ở Trung Quốc. Phong trào bắt đầu từ những cuộc đấu tranh của sinh
viên ở Bắc Kinh sau đó lan ra các tầng lớp khác và nhiều địa phương trong cả
nước. Phong trào cho thấy khả năng đấu tranh của nhân dân Trung Quốc là rất
to lớn. Trong cuộc đấu tranh này, các tầng lớp nhân dân đều có nhiều đóng góp,
trong đó nổi bật nhất là giai cấp công nhân. Kể từ phong trào Ngũ tứ trở đi, giai
cấp cơng nhân Trung Quốc có bước trưởng thành và chính thức bước lên vũ đài
chính trị, có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của xu hướng cách mạng
vô sản.
Tháng 7/1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập. Đảng ra đời
sau một thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng về tư tưởng và tổ chức. Từ năm 1919, ở
Trung Quốc xuất hiện nhiều tổ chức cộng sản ở nhiều địa phương, nhất là các
thành phố lớn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kiện trọng đại trong lịch sử
Trung Quốc. Từ đây đến năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc là nhân tố lãnh
đạo cách mạng Trung Quốc đi đến thành công.
Sau khi thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc chú trọng xây dựng tổ
chức và phát triển đảng viên. Tuy nhiên, do ra đời trong bối cảnh cách mạng gặp
nhiều khó khăn nên nhiệm vụ của Đảng rất nặng nề đặc biệt là vấn đề phát triển
lực lượng. Dưới sự giúp đỡ từ Quốc tế cộng sản và từ đòi hỏi nội thân của Đảng,
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng bước xác lập đường lối hợp tác với Quốc
dân Đảng. Đến Đại hội III (6/1023), đường lối hợp tác Quốc - Cộng đã hình
thành.
Về phía Quốc dân Đảng, với sự phát triển của phong trào cách mạng, tác
động của Cách mạng tháng Mười, Tơn Trung Sơn đã có những sự thay đổi trong
nhận thức. Ngày 6/5/1919, tại Thượng Hải, Tôn Trung Sơn đã chỉ thị cho báo
Nhật báo Dân quốc đăng bài ủng hộ học sinh sinh viên. Tháng 10/1919, Tôn
Trung Sơn cải tổ Trung Hoa Cách mạng đảng thành Quốc dân Đảng. Với việc


19
thành lập Quốc dân Đảng, Tôn Trung Sơn hy vọng Đảng sẽ có khả năng lãnh đạo

cách mạng đi đến thành công. Nền tảng tư tưởng của Quốc dân Đảng là chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Sau này, Tơn Trung Sơn cịn đề xướng Tam
đại chính sách (ba chính sách lớn là Liên Nga, liên Cộng, phù trợ cơng nơng).
Chủ nghĩa Tam dân và Tam đại chính sách đều rất tiến bộ, có ảnh hưởng lớn đến
sự lựa chọn con đường cứu nước của các dân tộc cũng như sự điều chỉnh về mặt
tổ chức của các tổ chức cách mạng ở một số nước châu Á.
Sự phát triển của Đảng Cộng sản Trung Quốc có ảnh hưởng nhất định đến
xu hướng chính trị của Tơn Trung Sơn và Quốc dân Đảng. Điều đó đã “dần dần
làm cho Tôn Trung Sơn và những người Quốc dân Đảng tiến bộ phải để ý và có
khuynh hướng liên hiệp với Đảng Cộng sản để cùng nhau phụng sự cách mạng
Trung Quốc”[31; tr.33]. Từ tháng 9/1922, Tôn Trung Sơn bắt đầu công tác chuẩn
bị cải tổ Quốc dân đảng nhằm thiết lập mối quan hệ với Đảng Cộng sản. Tháng
1/1923, Tôn Trung Sơn đọc Tun ngơn của Quốc dân Đảng nói rõ quan điểm
dựa vào quần chúng nhân dân để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, đây là sự
thay đổi quan trọng trong quan điểm và nhận thức của ơng.
Trước địi hỏi của dân tộc Trung Quốc và được cổ vũ bởi các sự kiện
trong nước và quốc tế, phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc từ sau
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh của nơng
dân, cơng nhân và tầng lớp trí thức diễn ra nhiều nơi. Mặc dù còn nhiều hạn chế,
nhưng các phong trào này là bước chuẩn bị quan trọng cho cách mạng Trung
Quốc trong những năm 1924 - 1927.
1.2. Diễn biến của phong trào
1.2.1. Phong trào công nhân
Cùng với quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc,
giai cấp công nhân đã xuất hiện như một lực lượng xã hội mới, tiến bộ. Giai cấp
công nhân Trung Quốc “không những cùng song song ra đời với chủ nghĩa tư
bản dân tộc, mà cịn ra đời song song với các xí nghiệp của đế quốc trực tiếp
kinh doanh. Vì thế lịch sử giai cấp công nhân lâu đời hơn lịch sử giai cấp tư bản



20
dân tộc, lực lượng cũng mạnh hơn” [10; tr.3].
Cũng như giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Trung Quốc đã
có sẵn những ưu điểm căn bản, đó là gắn liền với hình thức kinh tế tiên tiến, có
tổ chức, khơng có tư liệu sản xuất tư nhân,... Vì giai cấp cơng nhân làm việc
trong nhà máy, nhờ sản xuất có tổ chức, có kế hoạch cho nên “giai cấp công
nhân là giai cấp dễ tổ chức nhất. Cơng nhân là những người khơng có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động của mình và chỉ sống nhờ tiền cơng, vì thế địa vị
của giai cấp cơng nhân đã làm cho họ trở thành giai cấp cách mạng nhất” [44;
tr.23]. Ngồi ra, giai cấp cơng nhân ở Trung Quốc còn mang những đặc điểm
riêng: phải chịu nhiều áp bức (của chủ nghĩa đế quốc, phong kiến, giai cấp tư
sản); sống tập trung vì đặc thù của ngành cơng nghiệp; có quan hệ gần gũi với
những người lao động khác…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, sự phát triển chung của
cách mạng, trong những năm 1924 - 1927, phong trào công nhân Trung Quốc
diễn ra sơi nổi.
Sau vụ tàn sát ngày 7/2/1923, cơng đồn đường sắt Bắc Kinh và Vũ Hán
đều bị đóng cửa, chỉ có Quảng Châu và Hồ Nam là cịn vững. Vấn đề cấp bách
nhất trong cơng tác cơng đồn là cứu tế cơng nhân và khơi phục đấu tranh. Ban
bí thư các tổ chức lao động liền tổ chức Ủy ban chuyên môn tuyên truyền để
giúp đỡ công nhân bị nạn và gia đình họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc dùng kinh
nghiệm của phong trào công nhân quốc tế, lấy việc tổ chức “tiểu tổ nhà máy”
làm công tác trung tâm để tổ chức quần chúng công nhân.
Đầu năm 1924, Đảng Cộng sản đã triệu tập đại hội các cơng đồn đường
sắt tại Bắc Kinh. Tham dự đại hội có 20 đại biểu đại diện cho các nghiệp đồn bí
mật của 9 tuyến đường sắt chính. Tại Đại hội, Trương Quốc Đào đã đọc báo cáo
Cuộc cách mạng dân tộc và nhiệm vụ của công nhân đường sắt. Nội dung bản
báo cáo kêu gọi giai cấp công nhân ủng hộ cuộc cách mạng dân tộc, đấu tranh
cho quyền tự do của các nghiệp đồn và địi cải thiện đời sống. Đại hội đã thành
lập tổ chức Liên hiệp các nghiệp đoàn đường sắt đặt trụ sở tại Bắc Kinh. Mục



×