Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc việt nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại huyện đức hòa, tỉnh long an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.51 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM KIM THANH

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2018


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM KIM THANH

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN LƢƠNG BẰNG



Nghệ An, 2018


2

LỜI CẢM ƠN
--------Trong thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tác giả đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của q Thầy, Cơ trường Đại Học Vinh, lãnh
đạo các cơ quan ban ngành, đoàn thể huyện và các xã, thị trấn, gia đình và bạn
bè. Tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất tới quý thầy cô, tập thể và cá nhân.
Đặc biệt, Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn Thầy - PGS.TS Nguyễn Lương
Bằng, Người đã hết sức quan tâm, đã đầu tư nhiều cơng sức, nhiệt tình hướng
dẫn để tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, bản thân Tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, song chắc khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của q Thầy Cơ, bạn bè
để luận văn được hồn thiện hơn.
Sau cùng, tác giả xin kính chúc q Thầy Cơ trong Khoa giáo dục Chính
trị và Ban Giám Hiệu trường Đại học Vinh được dồi dào sức khỏe, niềm tin để
tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình trong giảng dạy và đạt được nhiều
thành công tốt đẹp trong công việc và trong cuộc sống.
Tác giả xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào!
Nghệ An, tháng 6 năm 2018
Tác giả
Phạm Kim Thanh


3


MỤC LỤC
-----Trang
Trang phụ bìa

1

Lời cảm ơn

2

Mục lục

3

Danh mục các chữ viết tắt

5

Danh mục các bảng biểu

6

A. MỞ ĐẦU

7

B. NỘI DUNG

17


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC

17

HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
Kết luận chương 1

17
42
57

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH

58

LONG AN
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đức Hòa

58

2.2. Vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại huyện Đức Hòa trong giai đoạn từ năm 2015

68


đến nay
Kết luận chương 2

91


4

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI HUYỆN ĐỨC

92

HÒA, TỈNH LONG ANTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng của Mặt trận tổ quốc đối với việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai đoạn

92

hiện nay
3.2. Một số giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại huyện Đức Hòa,

95

tỉnh Long An hiện nay
Kết luận chương 3


116

C. KẾT LUẬN

117

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

118


5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
--------------SỐ THỨ TỰ

CHỮ VIẾT TẮC

NỘI DUNG

01

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

02

HTCT


Hệ thống chính trị

03

HĐND

Hội đồng nhân dân

04

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

05

QCDC

Quy chế dân chủ

06

UBMTTQ

07

UBND

08


UBTVQH

09

XHCN

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban nhân dân
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Xã hội chủ nghĩa


6

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
--------------Bảng 2.1.Đơn vị hành chính huyện Đức Hịa, tỉnh Long An
Bảng 2.2.Tổng hợp tổ chức và hoạt động của Ủy ban MTTQ Việt Nam
huyện Đức Hòa từ năm 2015 đến nay.
Bảng 2.3.Hiện trạng sử dụng đất phân theo loại đất và phân theo đơn vị
hành chính.
Bảng 2.4.Tổng hợp tình hình Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trên địa
bàn huyện.
Bảng 2.5.Thống kê trình độ đào tạo của cán bộ cơ quan Ủy ban MTTQ
các cấp trên địa bàn huyện Đức Hòa.
Bảng 3.1.Tổng hợp tình hình tư vấn, ban tư vấn của Ủy ban MTTQ Việt
Nam cấp huyện.


7


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là
động lực, là mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ lâu, Đảng ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta vượt qua mọi gian
nan thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã
hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt
lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở.
Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ
kính yêu của dân tộc ta, người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta đã khẳng định rõ
quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là: “Nước ta là
nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”. Đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ
và quyền làm chủ của nhân dân.
Thấm nhuần quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã đưa ra phương châm: “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để phương châm đó trở thành hiện thực của đời
sống xã hội, ngày 18/02/1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã
ban hành Chỉ thị số 30 – CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở và đã xác định: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới” [8,tr.1]. Ngay trong năm 1998, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 29/1998/NĐ – CP về việc ban hành quy chế thực hiện dân



8

chủ ở xã, phường, thị trấn (sau đó được thay bằng Nghị quyết số 79/2003/NĐ –
CP và nay đã được nâng lên thành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn). Trong chỉ thị số 30 của Bộ chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ đã quy định trách nhiệm của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân bao gồm 3 việc: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
tuyên truyền. Giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân Chỉ thị
này và các quy chế dân chủ ở cơ sở. Làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng
các quyền của mình đã quy định trong quy chế dân chủ cơ sở, đồng thời chấp
hành đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Mặt trận và các đồn thể phối hợp
với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát thực hiện các quy chế dân chủ
ở cơ sở” [8,tr.5-6].
Mặt trận Tổ quốc vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân
thực hiện quyền lực chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và
phát huy vai trị quyền làm chủ của nhân dân thơng qua Mặt trận Tổ Quốc là vấn
đề có ý nghĩa chiến lược để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức,
huy động tiềm lực to lớn, sáng tạo của nhân dân trong suốt tiến trình của cách
mạng Việt Nam và thực hiện quyền lực của nhân dân lao động trong sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Giáo sư Lưu Văn Đạt – Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ pháp
luật trong“Phải nhìn thẳng và đánh giá đúng sự thật” có đoạn: Dân chủ ở cơ sở
là nền tảng của hành chính quốc gia, nếu cơ sở mạnh thì cả nước mạnh, tồn
quốc, địa phương vùng miền sẽ mạnh. Cần nhận thức đúng về tầm quan trọng
của cơ sở. Phải khắc phục quan điểm chỉ thấy cấp to chứ không thấy cấp cơ sở,
chỉ thấy vĩ mô chứ không thấy vi mô. Cơ sở là địa bàn của dân, cán bộ sống
trong lòng dân, cơ sở cũng là nơi thiết lập quan hệ giữa Đảng với người dân,
chính quyền với nhân dân. Muốn vậy phải bắt đầu ổn định từ cơ sở. Phát triển
của cả nước phải hướng về cơ sở.



9

Huyện Đức Hòa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An và
phía Nam của cả nước. Những năm qua, Đảng bộ và nhân dân trong huyện luôn
phát huy mạnh mẽ truyền thống đồn kết, ý chí tự lực, tự cường, năng động,
sáng tạo… tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “Công
nghiệp, đô thị, dịch vụ, thương mại và nông nghiệp”, quan tâm chăm lo đời sống
của nhân dân. Trong nhiều năm qua MTTQ, các đồn thể chính trị - xã hội và
các Hội quần chúng huyện Đức Hịa ln được Đảng và Nhà Nước quan tâm
đánh giá cao là đơn vị đi đầu với vai trò vận động, tập hợp các tầng lớp nhân
dân. MTTQVN huyện Đức Hịa ln giữ vai trị chủ đạo triển khai đến cơ sở nội
dung kế hoạch thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, chương trình, kế hoạch giám
sát, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ thi đua, xây dựng tổ chức cơ sở vững
mạnh, vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân chấp hành đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây
dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh, giữ gìn an ninh trật tự,…góp phần thực
hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội tại địa phương.
Bên cạnh những mặt làm được, trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một
số hạn chế: Việc cũng cố Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, thị
trấn theo chỉ đạo của tỉnh có nơi cịn chậm, quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo
chưa bổ sung kịp thời, phân công nhiệm vụ cho thành viên chưa cụ thể; công tác
phối hợp giữa chính quyền với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội để triển
khai thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở một vài địa phương còn hạn chế. Việc tổ chức
họp dân để lấy ý kiến đóng góp trong thực hiện các chính sách, chủ trương có
liên quan đến dân có nơi thực hiện chưa thường xuyên, tỷ lệ dân dự hội nghị
chưa nhiều, dẫn đến việc triển khai thực hiện một vài cơng trình Nhà nước và
nhân dân cùng làm ở cơ sở còn khó khăn.
Cơng tác chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc ở một số xã, thị trấn trong huyện
chưa đều, chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân; Còn bị động lúng

túng trong việc đề ra biện pháp chỉ đạo phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng


10

địa phương; Tính hình thức cịn khá phổ biến trong nhiệm vụ triển khai quy chế
dân chủ của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc. Việc kiện tồn củng
cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chưa được tập
trung đúng mức: Một số cán bộ xã, thị trấn chưa nắm được quy chế dân chủ và
công tác Mặt trận tham gia thực hiện quy chế dân chủ; hoạt động giám sát của
Mặt trận và đồn thể chính trị - xã hội ở một số xã, thị trấn cịn yếu; cơng tác
tun truyền vận động nhân dân học tập nắm vững các quan điểm của Bộ chính
trị, nội dung quyền làm chủ trực tiếp trong quy chế cịn làm lướt, hình thức; việc
lồng ghép nội dung công tác Mặt trận tham gia thực hiện quy chế dân chủ với 3
nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư” chưa chặt chẽ, cũng cịn một số nơi chạy theo thành tích nên chất lượng
chưa cao. Công tác tuyên truyền vận động và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân còn một vài địa phương chưa mạnh, chưa tạo phong trào.
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước. Đại
hội XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định và phát triển những chủ trương và quan
điểm lớn về đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi mới đã
được đề ra tại các Đại hội VI, VII, VIII, IX, X. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đồn viên, hội viên thực hiện dân chủ”.
Có thể nói, cả hiện tại và trong thời gian tới, nhu cầu và điều kiện khoa
học cũng như thực tiễn về hoàn thiện hơn nữa vai trò của MTTQ Việt Nam đối
với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình mới hiện nay tại

huyện Đức Hịa, tỉnh Long an ngày càng chín muồi. Cho đến bây giờ, vẫn chưa
có một cơng trình khoa học nào khảo cứu một cách toàn diện về mặt lý luận và
thực tiễn vấn đề phát huy vai trò của MTTQVN trong thực hiện QCDC ở cơ sở


11

tại huyện Đức Hịa, tỉnh Long An. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn vai trò của MTTQ trong thực hiện QCDC ở cơ sở là vấn đề bức xúc
và cần thiết. Với tất cả các ý nghĩa trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
luận văn Thạc sĩ chính trị học.
Từ lâu, vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt
động chính trị cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn ở trong nước và trên thế giới. Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, vai
trị của MTTQ trong hệ thống chính trị đã được đề cập trong nhiều Nghị quyết
của Đảng, văn bản, Quyết định của Chính phủ và đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu (ở cấp độ luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí, các cuốn sách…) bàn
về đề tài này có những góc độ, khía cạnh khác nhau và được chia thành nhiều
nhóm vấn đề.
Nhóm thứ nhất, những cơng trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề dân
chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được đăng thành sách và các bài
viết trên các báo, tạp chí: Đồng chí Đỗ Mười (1998) “Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản số 20; PGS. TS Dương Xuân Ngọc
(chủ biên) Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2000), Quy chế thực
hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia
Hà Nội; Trương Quang Được (năm 2002) “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 12; TS. Nguyễn Văn
Sáu - GS. Hồ Văn Thông (chủ biên 2002), Thực hiện quy chế dân chủ và xây

dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Phan Xuân Sơn (Chủ biên, 2003) các đoàn thể nhân dân với việc bảo
đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Lương Gia
Ban (Chủ biên, 2003) Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Bộ Nội vụ (năm 2001) hướng dẫn triển khai QCDC cơ sở, Nxb


12

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.v.v...
Nhóm thứ hai, các cuốn sách, luận văn, bài báo, bài viết trên các tạp chí
về MTTQVN, Mặt trận Tổ quốc với việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Nhóm vấn
đề này các tác giả tập trung trình bày về lý luận và thực tiễn của MTTQVN,
cũng như tình hình thực hiện QCDC ở cơ sở tại các địa phương, bao gồm:
Tác giả Lê Bá Lợi (2009) “Mặt trận Tổ quốc Hồng Lĩnh với việc thực
hiện QCDC ở cơ sở”, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, số 71. Bài viết này
tập trung trình bày những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong việc
thực hiện QCDC của Mặt trận Tổ quốc thị xã Hồng Lĩnh, đề ra những giải pháp
thực hiện tốt việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn công tác Mặt trận (2009), của Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cơng
trình tập trung nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, nội dung, đặc điểm,
vai trò, hoạt động…của công tác MTTQVN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007),
Lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, quyển III (1974-2004), Nxb
chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành của
MTTQVN trong lịch sử. PGS.TS Nguyễn Lương Bằng (2012) “Giám sát phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong bối cảnh ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Đại học Sài Gịn, số 13, T2/2013, Tr 39-45. Trong bài này,
tác giả đã phân tích sâu sắc ưu điểm, nhược điểm về vai trò của tổ chức Mặt trận
và các đồn thể trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải
pháp để phát huy các tổ chức trong đó có bối cảnh của Việt Nam hiện nay.

Nhóm thứ ba, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở, vừa định hướng nghiên cứu, vừa định
hướng tổ chức thực hiện.
Như vậy, trên phương diện lý luận và thực tiễn, cơng trình khoa học của
các tác giả nêu trên có giá trị hết sức to lớn đối với những người đã và đang
nghiên cứu vấn đề dân chủ, vai trò của thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội.
Những cơng trình khoa học đó đã cung cấp cơ sở phương pháp luận hết sức


13

quan trọng trong việc tiếp cận về MTTQVN, về dân chủ và thực hiện dân chủ ở
cơ sở, cũng như tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương đáp ứng yêu
cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu trên, luận văn còn sử dụng nhiều
văn bản như báo cáo, Nghị quyết, Quyết định,…của Trung ương, Tỉnh ủy Long
An, Huyện ủy Đức Hòa cùng với thực tiễn và việc khảo sát ở huyện Đức Hòa
làm cơ sở để tác giả vận dụng vào nghiên cứu đề tài luận văn một cách khoa học
nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Cho đến nay chưa có cơng trình nào đề cập
một cách toàn diện vấn đề: "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối
với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
trong giai đoạn hiện nay" (Qua khảo sát tại huyện Đức Hịa, tỉnh Long An).
Cơng trình nghiên cứu của tác giả khơng trùng lắp với các cơng trình khoa học
đã được cơng bố.
2. Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ
của Mặt trận trong HTCT thực hiện QCDC phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Làm rõ thực trạng hoạt động của MTTQVN trong việc tham gia thực
hiện QCDC tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.

Phương hướng và những giải pháp khả thi nhằm phát huy vai trò tích cực
của UBMTTQ huyện Đức Hịa trong việc thực hiện QCDC cơ sở nhằm mục
đích tăng cường đồn kết, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ
của Mặt trận trong HTCT về việc thực hiện QCDC ở cơ sở, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.


14

Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của MTTQVN trong việc tham
gia thực hiện QCDC ở cơ sở tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Đề ra những giải pháp khả thi nhằm phát huy vai trò của MTTQVN
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.
4.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đối
với việc phát huy quy chế dân chủ ở huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong giai
đoạn 2015-2017, định hướng đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước
ta về vấn đề dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn tác giả sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu

sau: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận như: phân tích tổng hợp, hệ thống
hố; Nhóm phương pháp nghiên cứu thực nghiệm như: phương pháp quan sát,
phân tích kinh nghiệm trong q trình phân tích ảnh hưởng của MTTQVN tại
huyện Đức Hịa đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở - đây cũng là những
phương pháp quan trọng để thực hiện nghiên cứu đề tài này.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Qua việc điều tra, nghiên cứu, phân tích q trình thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở; những đóng góp của UBMTTQVN trên địa bàn huyện Đức Hịa,
tỉnh Long An.


15

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc phát triển và hoàn
thiện các căn cứ khoa học và thực tiễn để hoạch định đường lối, chủ trương của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện QCDC ở cơ
sở tại huyện Đức Hòa trong giai đoạn hiện nay. MTTQVN huyện Đức Hịa có
thể sử dụng kết quả nghiên cứu của luận văn để thực hiện có hiệu quả hơn vai
trị của mình đối với quy chế dân chủ ở cơ sở.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng
dạy chuyên đề, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong việc thực hiện quy chế dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh ở một số huyện, thị, thành phố trên địa bàn tỉnh Long An.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương 6 tiết.


16


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ
1.1. Lý luận chung về dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một vấn đề vô cùng quan trọng và bức thiết, đó là nội dung
vừa mang tính chính trị, vừa mang tính nhân văn của con người. Trải qua các
thời kỳ lịch sử, do bối cảnh cụ thể mà khái niệm “dân chủ” có những hình thức
và tên gọi khác nhau như: Dân chủ chủ nô; Dân chủ quân sự; Dân chủ lập hiến;
Dân chủ tư sản; Dân chủ nhân dân; Dân chủ XHCN. Dù có các trạng thái khác
nhau, song khái niệm "dân chủ" được dùng để chỉ tính chất chế độ xã hội mà
trong đó người dân được thể hiện quyền làm chủ của mình ở những mức độ
khác nhau.
Khái niệm "dân chủ" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "demos", nghĩa là
nhân dân và "kratos" – chính quyền, quyền lực. "Demokratia" có nghĩa là quyền
lực của nhân dân, chính quyền của nhân dân. Như vậy, dân chủ là một thể chế
do dân làm chủ và dân chủ trước hết là chế độ chính trị trong đó quyền lực tối
cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản thân thực thi hoặc thơng qua
các đại biểu mà mình bầu ra. Dân chủ gồm có dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ với những thiết chế, quy chế để
người dân thảo luận và biểu quyết những vấn đề chung của cộng đồng. Dân chủ
đại diện là hình thức dân chủ trong đó nhân dân cử ra (chủ yếu bằng bầu cử)
người thay mặt mình nắm giữ quyền lực Nhà nước. Cịn có dân chủ bán trực tiếp
là hình thức dân chủ thơng qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức nghề nghiệp... của các tầng lớp nhân dân. Dân chủ có dân chủ tư sản và



17

dân chủ XHCN. Đặc trưng của dân chủ XHCN là quyền dân chủ của công dân
không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước,
của xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị-xã hội,
quyền tham gia quản lý Nhà nước của dân và các đoàn thể nhân dân ngày càng
được mở rộng về phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các hình thức.
Dân chủ là một cách thức và những điều kiện kèm theo để mọi người dân tham
gia bình đẳng vào các cơng việc chính trị, kinh tế, xã hội với vai trò là người chủ
xã hội.
Dân chủ như một nhu cầu tất yếu, đòi hỏi đương nhiên của người dân về
sự bình đẳng trong quan hệ giữa Nhà nước và dân. Đồng thời, dân chủ còn được
hiểu là trách nhiệm của chính quyền, của cán bộ, cơng chức cấp Trung ương
cũng như cấp xã, thực hiện quyền hạn của mình một cách chí cơng vơ tư, khơng
quan lại, hách dịch, tham nhũng, vụ lợi.
Bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp, là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Tuy vậy, trong thực tế, cán bộ, công chức Nhà
nước chưa thực sự là người công bộc của dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mong muốn. Nếu không thực hiện dân chủ, Nhà nước sẽ trở nên độc tài, chuyên
chế và do đó dân phải học để làm chủ; Nhà nước phải bảo đảm cơ chế để lắng
nghe dân. Do vậy, nói tới dân chủ có nghĩa là nói đến mối quan hệ giữa dân và
chính quyền mà ở đó chính quyền phải lắng nghe dân, phải tạo điều kiện để
người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn đề liên quan
đến cuộc sống và sự phát triển của mỗi người dân, của cả cộng đồng. Điều này
có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng ở cấp xã, phường, thị trấn.
Trong thực tế, chưa có một xã hội nào đạt được tình trạng dân chủ tuyệt
đối do nhiều lý do khách quan và chủ quan, như: trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, năng lực nhận thức của dân và của chính quyền, truyền thống lịch sử, văn
hóa pháp quyền, v.v... Vì thế, dân chủ cịn được hiểu như một mục tiêu phấn đấu
của dân tộc Việt Nam như đã ghi rõ trong Hiến pháp là: thực hiện mục tiêu dân



18

giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những mục tiêu đó đều
có mối liên hệ gắn bó với nhau. Có dân chủ thì mới có cơng bằng xã hội. Có dân
chủ thực sự thì dân mới giàu và quốc gia mới mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" [33,
tr.554]. Đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng và dân chủ là những yếu tố
không thể thiếu được của một nền văn minh. Dân chủ được đảm bảo và phát huy
bằng nhiều biện pháp. Việc thực thi dân chủ luôn gắn liền với mối quan hệ giữa
Nhà nước và nhân dân. Ở nước ta hiện nay, HTCT dựa trên thiết chế "Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Việc phát huy, thực hiện dân chủ
được tiến hành không tách rời thiết chế này. Với mục tiêu phấn đấu như vậy,
việc phát huy dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, được coi là chủ trương, biện
pháp và là hành động tất yếu của nhân dân và chính quyền trong quá trình phát
triển của đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm quy chế dân chủ ở cơ sở
Theo cấp độ quản lý từ trên xuống hoặc từ dưới lên trong HTCT cấp cơ
sở là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng, nhưng cơ sở lại là tầng sâu nhất mà sự vận
hành của thể chế chính trị từ cấp vĩ mơ phải tác động đến. Cơ sở là nơi mà mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải tìm đến, đó là dân, lịng dân,
ý dân, trí tuệ và sáng tạo của dân. Là sự đoàn kết, thống nhất của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, giữa người đại diện được nhân dân ủy quyền với tồn thể nhân
dân. Nếu chúng ta khơng làm tốt dân chủ ở cấp cơ sở thí như V.I.Lênin nhận xét
"kẻ thù bên trong tệ hại nhất của chúng ta là chàng quan liêu" và "nếu cái gì làm
cho chúng ta tiêu vong thì chính là cái đó"[27, tr.235]. Vì vậy, dân chủ ở cơ sở
là một cách thức để dân tham gia bình đẳng vào các cơng việc chính trị, kinh tế,
xã hội với vai trị là người chủ ở cấp cơ sở, có như vậy thì xã hội của Đảng, Nhà
nước và chế độ mới thực sự bền vững.

Quy chế dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp luật quy định
những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở xã, phường, cơ quan hành


19

chính Nhà nước và đơn vị doanh nghiệp Nhà nước. Đó là những điều nhân dân
phải được biết, những việc nhân dân được bàn để Nhà nước quyết định hoặc
nhân dân được quyết định và những việc nhân dân được giám sát, kiểm tra,
nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân.
Quy chế dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể
những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để dân
biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến
trước khi cơ quan Nhà nước quyết định; những việc dân giám sát, kiểm tra và
các hình thức thực hiện QCDC ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo
của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định
chính trị, tăng cường đồn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể
ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thối, quan
liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
theo định hướng XHCN. Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thực chất là một định
chế pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của dân.
Trải qua hơn 60 năm xây dựng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành quả
quan trọng: đất nước đã được độc lập tự do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng,
toàn dân đang ra sức phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong quá trình xây
dựng cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm. Trong tình hình đó, đồng chí Đỗ
Mười đã nêu rõ: "... trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta, tình hình tiêu cực, suy

thối phẩm chất vẫn có chiều hướng phát triển, nhất là tệ quan liêu và nạn tham
nhũng, tác hại không nhỏ đến việc củng cố Nhà nước, làm nhân dân lo lắng,
đang thực sự là một nguy cơ đối với chế độ XHCN, đối với con đường mà nhân
dân ta đã lựa chọn" [39, tr.4]. Hiện nay, một số nơi quyền làm chủ của nhân dân


20

còn bị vi phạm trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham
nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà
chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật, cho nên
chậm đi vào cuộc sống. Tình trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc và quyết
định những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống của dân, bắt dân
đóng góp nhiều khoản vượt quá khả năng, lại khơng minh bạch về tài chính,
thậm chí xà xẻo vào những khoản tiền do dân đóng góp; Tình trạng để tồn đọng
hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải quyết hoặc giải quyết không kịp
thời, không đúng; Tình trạng quan liêu, quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong
một số ngân hàng hoặc gây lãng phí lớn trong xây dựng,v.v. chẳng những làm
suy giảm lịng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền mà còn làm triệt
tiêu nguồn động lực của nhân dân và xâm phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ.
Trước tình hình đó, Nghị quyết TW 3 khóa VIII (6/1997) nêu rõ yêu cầu:
“Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của dân qua các hình
thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hồn thiện Nhà nước Cộng
Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đảm bảo trong sạch, vững mạnh và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước”[18,
tr.20]. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải
được thể hiện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phịng, an ninh,
từ việc xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức bộ máy, phong cách

làm việc, bao quát mọi hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, từ Trung ương đến
địa phương và cơ sở. Vấn đề dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân để
phát huy động lực, thực hiện mục tiêu CNH, HĐH làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải được đặt ra cho cả hệ thống
chính trị, phải tác động hai chiều dưới lên, trên xuống, cả trong Đảng và trong
nhân dân.


21

Thực hiện Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) ra
Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực
hiện dân chủ ở xã. Nghị quyết giao Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân
chủ với các định hướng nội dung cụ thể. Thực hiện chủ trương của Đảng và
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 11/5/1998, Chính phủ đã ban
hành Nghị Định số 29/1998/NĐ-CP (nay là NĐ số 79/2003/NĐ-CP) về việc ban
hành quy chế dân chủ. Nghị Định nêu rõ: "Điều 1: Ban hành kèm theo Nghị
Định này bản quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Điều 2: Quy chế này áp dụng đối
với cả phường và thị trấn" [12]. QCDC ở cơ sở còn bao gồm cả dân chủ trong cơ
quan hành chính Nhà nước và đơn vị doanh nghiệp Nhà nước với các văn bản
quy định riêng. Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể
chế hóa bằng các văn bản pháp luật của Nhà nước thể hiện sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước ta đối với việc xây dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thể hiện bản chất Nhà
nước là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.1.1.3. Khái niệm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận tổ quốc với tư cách là bộ phận của HTCT – một trong những
chủ thể tổ chức thực hiện, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân và
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy
định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân" [31,tr.22] và "Mặt trận tổ quốc là Tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của Tổ chức chính trị…" [31,tr.25].
Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận tổ
quốc vừa là tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc; Mặt khác, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam – một tổ chức bao gồm hầu hết các thành phần giai cấp và tầng
lớp xã hội ở nước ta là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.


22

Điều 9 Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ,
nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước” [26, tr.9].
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, Điều 1 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam
quy định: "Mặt trận tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của
nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam." [26, tr.10]. Đây là quan điểm,
chủ trương chiến lược của Đảng ta về MTTQ trong thời kỳ đổi mới, tiến hành
CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được thể chế hóa và bảo
đảm bằng pháp luật của Nhà nước.
Ở nước ta, hệ thống chính trị là hệ thống về mặt tổ chức và chức năng

của các cơ quan, các tổ chức như Đảng – Nhà nước - MTTQ, các tổ chức chính
trị - xã hội là thành viên của Mặt trận tổ quốc (như Đồn Thanh niên, Hội Nơng
dân, Tổ chức Cơng đồn, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) và đoàn thể quần
chúng nhằm thực hiện một trong những nhiệm vụ Hiến định quan trọng bậc nhất
là phát huy dân chủ, quyền làm chủ của dân. Để nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
dân cần xác định đúng đắn vai trò và mối quan hệ qua lại giữa Đảng, Nhà nước
và Mặt trận tổ quốc. Do vậy, phải làm rõ hơn vị trí và chức năng của từng bộ
phận trong hệ thống chính trị và tìm ra được những bảo đảm, trong đó có các
bảo đảm về pháp luật, để ghi nhận vị trí, chức năng và mối liên hệ trong hệ


23

thống. Đảng ta đã khẳng định, trong HTCT nước ta, MTTQVN có vai trị rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, phát huy dân chủ, là nơi thể
hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đồn kết toàn dân, thực hiện giám sát
của nhân dân.
Trong HTCT Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo HTCT, trong đó có MTTQ, vừa là
tổ chức thành viên của MTTQ do MTTQ là tổ chức liên minh chính trị rộng lớn
nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:“Đảng khơng thể địi hỏi mặt trận thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt
động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi
quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” [34,tr.115].
Việc tập hợp của nhân dân thơng qua các đồn thể và cá nhân rộng rãi
trong toàn xã hội, trong một thực thể tổ chức là MTTQVN để trở thành một bộ
phận của HTCT, tức là nhân dân đứng ra tổ chức thực hiện và phát huy dân chủ,
quyền làm chủ của mình. Đó là điểm quan trọng nhất trong Luật MTTQVN bảo

đảm tính dân chủ và cơ sở pháp lý cho việc triển khai và đổi mới các hoạt động
của MTTQ các cấp. Phạm vi thành viên tham gia của MTTQ hết sức rộng rãi,
bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu
trong toàn xã hội, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của MTTQ được dựa trên cơ sở tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Quan hệ của
các tổ chức thành viên trong MTTQ dựa trên cơ sở thỏa thuận hợp tác bình
đẳng, đồn kết chân thành, tơn trọng lẫn nhau. Tất cả những điều đó quy định
bản chất và tính nhân dân của MTTQ.
Về bản chất, MTTQ với tư cách là bộ phận của HTCT, không phải là cơ
quan Nhà nước, mà là nơi tập hợp tự nguyện của mọi tầng lớp xã hội khơng có
sự phân biệt nào về giai cấp, quá khứ, tôn giáo, thành phần xã hội. Điều này quy


24

định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đặc trưng của MTTQ trong
HTCT. Đồng thời chính bản chất đó khẳng định MTTQ là bộ phận quan trọng
và khơng thể thiếu của HTCT, như một tổ chức để thực hiện quyền làm chủ của
dân ở Việt Nam. Đây là một nét rất độc đáo của chế độ chính trị ở Việt Nam, thể
hiện sự rõ nét nền dân chủ, trong đó Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân và truyền thống đại đồn kết q báu của dân tộc Việt Nam. MTTQ chính là
cái cốt vật chất đầy sức hút để chuyển hóa tinh thần và truyền thống đại đoàn kết
dân tộc từ sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất hiện thực của cả dân tộc
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của dân.
Quyền làm chủ của nhân dân qua kênh MTTQ được Luật MTTQVN xác
định nổi bật trong những nhiệm vụ của MTTQVN do MTTQ tiến hành và tham
gia, phối hợp cùng với Nhà nước tiến hành nhằm thực hiện các nhiệm vụ trọng
đại của cơng cuộc đổi mới và dân chủ hóa đất nước .
Với tư cách là bộ phận của HTCT, MTTQ trong khi thực hiện các nhiệm

vụ của mình phải xác lập mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước và ngược lại.
Luật MTTQVN xác định tính chất quan hệ giữa MTTQ với Nhà nước là quan hệ
phối hợp và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để MTTQ hoạt động có hiệu
quả. Như vậy, MTTQ là bộ phận độc lập của HTCT, có địa vị bình đẳng với
Nhà nước và quan hệ giữa MTTQ với Nhà nước là quan hệ phối hợp, tôn trọng
lẫn nhau. Mặt trận không nằm trong hệ thống bộ máy Nhà nước. Đây là điểm
mấu chốt để MTTQ thực hiện chức năng của mình trong HTCT, phát huy dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trách nhiệm và quyền của MTTQ với tư cách là một bộ phận của HTCT
trong thời kỳ đổi mới
Cụ thể hóa chức năng và nhiệm vụ của MTTQ với tư cách là bộ phận
trong HTCT, Luật MTTQVN quy định các "kênh" tổ chức thực hiện và phát huy
dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân cả trong cơ chế tham gia quản lý lẫn cơ
chế tác động vào quản lý Nhà nước bằng các quyền và trách nhiệm cụ thể của


×